Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Kính ngưỡng Ma Lợi Chi Bồ Tát trong ngày giáng sinh 9/9 âm lịch

Ma Lợi Chi Bồ Tát là một trong những Hộ Thân Bồ Tát có sức mạnh tiễu trừ tai ương, bảo vệ bình an. Ngày 9/9 âm lịch là ngày Ma Lợi Chi Bồ Tát giáng sinh.
Kính ngưỡng Ma Lợi Chi Bồ Tát trong ngày giáng sinh 9/9 âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ma Lợi Chi Bồ Tát là một trong những Hộ Thân Bồ Tát có sức mạnh tiễu trừ tai ương, bảo vệ bình an. Ngày 9/9 âm lịch là ngày Ma Lợi Chi Bồ Tát giáng sinh, cùng kính ngưỡng về Ngài.


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

Kinh nguong Ma Loi Chi Bo Tat trong ngay giang sinh 99 am lich hinh anh 2
 
Ma Lợi Chi Bồ Tát hay còn gọi là Ma Lợi Chi Bà, Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, là nữ Bồ Tát có pháp lực thần thông, chuyên về ẩn thân, có thể tiêu trừ chướng khó, tăng tiến lợi ích. Vị Bồ Tát này là thần dân gian của Ấn Độ, sau này Phật giáo tiếp thu mà trở thành Bồ Tát Hộ Thân. Hiện nay, tại một số ngôi làng Ấn Độ truyền thống vẫn còn lưu giữ tượng Ma Lợi Chi Bồ Tát từ thời cổ đại.    Nữ Bồ Tát Hộ Thân lấy Ma Lợi Chi Thiên là tu pháp gốc rễ, có hộ thân, ẩn thân, đắc tài nhưng tránh luận bàn về thắng lợi, hồi đáp công đức. vốn là thuộc về Thiên Bộ nhưng lâu dần, nhiều người xưng tụng thành Ma Lợi Chi Bồ Tát hoặc Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát.   Theo “Ma Lợi Chi Thiên Đà La Ni kinh”, Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát có pháp lực thần thông, thường ngày không thấy hình thấy bóng, chỉ có người vẫn dõi theo thế gian vì có tài ẩn hình, hành tung bất định nhưng mọi chuyện đều minh bạch.    Đối với Ma Lợi Chi Bồ Tát, không ai có thể nắm bắt, không ai có thể ám hại, không ai có thể nói dối. Phương pháp tu luyện của người cũng tương tự như vậy. Kinh Phật nói, tu tập Ma Lợi Chi Thiên pháp hoặc tụng “Ma Lợi Chi Thiên kinh” sẽ được Ma Lợi Chi Thiên Bồ tát độ trì, không vì oan gia mà bị hãm hại

Kinh nguong Ma Loi Chi Bo Tat trong ngay giang sinh 99 am lich hinh anh 2
 
  Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát có nhiều hình tượng. Lúc thì là Thiên nữ hình, ngồi theo tư thế kiết già hoặc đứng trên đài sen, tay trái ở trước ngực cầm quạt, tay phải rủ xuống. Lúc thì là hình tượng ba mặt, mỗi mặt ba mắt, có 6 hoặc 8 cánh tay, cưỡi trên con lợn rừng hoặc ngồi trên xe do 7 con lợn rừng kéo, tay trái cầm cây Vô Ưu, dây thừng, dây cung, tay phải cầm chày Kim Cương, rìu Kim Cương, châm, tiễn. Mặt ở giữa màu cam, hiền hòa mỉm cười; mặt bên trái màu đỏ; mặt bên phải màu xanh.    Ma Lợi Chi Bồ Tát là nữ bổn tôn liên quan tới Mặt Trời, rất tốt cho những người đi xa, những người phải đến nơi nguy hiểm, những người vướng mắc về pháp lý, giấy tờ, kiện tụng, phòng tránh ma quỷ, cướp bóc, tai ương, hiểm họa.   Trong ngày Ma Lợi Chi Bồ Tát giáng sinh 9/9 âm lịch, hãy tụng Ma Lợi Chi Thiên kinh để cảm ứng với người, cầu may mắn, bình an, che chở cho bản thân và gia đình.
Cung dưỡng Địa Tạng Bồ Tát, mời phúc đức đến cửa Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát Hướng tâm kính Phật trong ngày sinh nhật của Đại Thế Chí Bồ Tát
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kính ngưỡng Ma Lợi Chi Bồ Tát trong ngày giáng sinh 9/9 âm lịch

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tết Trung Thu

Tục phá cỗ trong Tết Trung Thu ở nông thôn ngày xưa chính là cơ hội chăm sóc trẻ em, giúp chúng được hưởng thụ các sản vật còn tươi nguyên, được chọn ăn tùy sở thích, được vui đùa phá cỗ trông trăng. Tục bày cỗ, phá cỗ trông trăng là thể hiện của sự quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ em, cả vật chất lẫn tinh thần một cách cụ thể, tinh tế, sinh động và độc đáo của người Việt Nam.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa và phong tục   Xưa Tết Trung Thu ngoài cỗ cúng gia tiên còn có cỗ không cúng mà dành cho trẻ trong nhà, còn gọi đó là cỗ "trông trăng." Sản vật dùng trong cỗ Trung Thu ngày nay rất phong phú, đa dạng. Còn ngày xưa, cỗ Trung Thu đơn giản, có tính chất "cây nhà, lá vườn", vì hầu hết là sản phẩm của từng địa phương như bưởi, hồng, mãng cầu, chuối, mía... Có gia đình cho thêm kẹo bánh. Sang hơn thì có cả cốm Vòng, bánh nướng, bánh dẻo. Sau này, bánh nướng, bánh dẻo được dùng một cách rất phổ biến bới nó được mệnh danh là bánh Trung Thu.   Hát trống quân xưa   Tết Trung Thu ở miền bắc ngày xưa còn có tục hát trống quân. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc.   Múa lân – múa rồng xưa   Vào dịp Tết Trung Thu xưa ở nước ta có tục múa lân. Người ta thường múa lân vào hai đêm 14 và 15. Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Đám múa lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.    Trẻ em thì thường rủ nhau múa lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền   Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng).  


Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn.   Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.   Mua sắm và chuẩn bị   Từ đầu tháng Tám, các hàng bán đồ Trung Thu trên thị trường đã bày bán la liệt, các bà, các chị rủ nhau đi chợ sắm Tết cho con em mình. Gặp thứ nào thì mua thức ấy, còn thiếu thì dành phiên chợ sau cho đến tận 13, 14 âm lịch. Mua cỗ Trung Thu nhưng các bà mẹ cũng không quên mua đồ chơi cho trẻ. Nào tiến sỹ giấy, nào đèn ông sao, trống bỏi, đầu lân, mặt nạ, con rối, tò he... Nếu không mua được đủ thì ít nhất cũng phải mua được ông tiến sĩ hoặc chiếc lồng đèn ông sao. Nhà giàu còn làm cả đèn kéo quân. Đồ chơi từ năm trước có thể đem sửa lại cho trẻ. Nhiều em tự sửa sang lại đồ chơi của mình. Không khí chuẩn bị tết Trung Thu nhộn nhịp, vui vẻ, cuốn hút cả n gười lớn, trẻ con trong xóm ngoài làng   Thi cỗ và thi đèn Trung Thu   Ngày Tết Trung Thu, từ sáng sớm, mọi nhà bắt đầu làm bánh tẻ, bánh đúc là chủ yếu, còn nếu gói bánh chưng, bánh gai, thì làm từ ngày 14 âm lịch. Các bà nội trợ đun nấu sửa soạn cúng gia tiên. Cỗ Trung Thu mới được bày biện. Địa điểm bày cỗ thường là ở sân nhà. Cũng có nơi đặt ở giữa vườn, miễn là có ánh trăng chiếu tới để con trẻ ngồi phá cỗ. Đầu mâm cỗ trông trăng thường là ông tiến sĩ giấy. Có nơi còn đặt 2 ông phỗng ngồi hầu 2 bên. Một quả bưởi tươi nguyên đặt chính giữa, xung quanh là các loại bánh kẹo và trái cây. Có khi mâm cỗ quá đầy phải đặt thêm ở bên ngoài mâm. Mỗi nhà đều có vài xâu hạt bưởi khô để trẻ thắp chơi trong lúc phá cỗ. Như có sự phân công tự nhiên, việc sắm cỗ cho trẻ thường là nữ giới. Còn việc bày cỗ thường là đàn ông. Có nhà cẩn thận hơn, cha mẹ tập cho con bày cỗ, hướng dẫn cách sắp xếp cho đẹp để năm sau trẻ có thể tự làm lấy. Tất cả còn nguyên đến lúc phá cỗ. Trăng lên dần, trẻ cầm đèn đội đầu sư tử, khoác mặt nạ, vác trống bỏi rủ nhau đi xem đội múa lân của làng đến tận khuya mới về nhà phá cỗ.   Người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya.     “Phá cỗ Trung Thu”   Phá cỗ là chia bánh trái, hoa quả đã bày trong mâm cổ Tết Trung thu cho trẻ ăn. Phá cỗ không có giờ quy định. khi trăng đã lên cao, ánh trăng chiếu sáng khắp nơi, trẻ nhà nào đã về đông đủ thì nhà ấy cho trẻ phá cỗ. Không kể những nhà đông con mà ngay cả những nhà hiếm con hiếm cháu, đều được quan tâm đặc biệt. Không khí phá cỗ rất vui. Cả nhà cùng quây quần xung quanh mâm cỗ với lũ trẻ. Trước khi phá cỗ, người lớn thường hướng dẫn cho con cái chia các vật phẩm trong mâm cỗ để ăn như bổ bưởi, cắt bánh, róc mía...    Tục phá cỗ trong Tết Trung Thu ở nông thôn ngày xưa chính là cơ hội chăm sóc trẻ em, giúp chúng được hưởng thụ các sản vật còn tươi nguyên, được chọn ăn tùy sở thích, được vui đùa phá cỗ trông trăng. Tục bày cỗ, phá cỗ trông trăng là thể hiện của sự quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ em, cả vật chất lẫn tinh thần một cách cụ thể, tinh tế, sinh động và độc đáo của người Việt Nam. Hình ảnh ông Tiến Sĩ Giấy, chiếc đèn ông sao, con rối múa gậy không chỉ là trò chơi đơn thuần, mà thông qua đó người nông dân còn gửi gắm những ước mơ và niềm tin, mong con cháu học giỏi, mai sau sớm đỗ đạt. Đó cũng là sự thể hiện tinh thần hiếu học, tinh thần thượng võ, ý thức khuyến học khuyến tài của nhân dân ta…

Nguồn Sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu

Những bước luận đoán lá số Tử vi (phần 3) –

Sao hạn Cửu Diệu : Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh trong Tu Vi La Hầu - còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị phi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao hạn Cửu Diệu :

Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh trong Tu Vi

La Hầu – còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị phi miệng tiếng. Hạn sao này cần phải dè dặt cẩn thận. Ảnh hưỡng vào các tháng giêng và tháng 7.

Thổ Tú – còn gọi là Thổ Đức tinh hay Ách tinh chủ gia đạo bất an buồn phiền, bệnh hoạn hay kéo dài, tiểu nhân phá phách, đi xa bất lợi. Hai tháng 4 và 8 bất lợi.

Thủy Diệu – còn gọi là Thủy Đức tinh là Phúc lộc tinh chủ bình an, giải trừ tai nạn, đi xa có lợi, Phụ nữ bất lợi về đường sông biển. Ảnh hưỡng vào các tháng 4 và tháng 8. Người mạng Kim và Mộc hợp với hạn sao này, riêng người mạng Hỏa thì hơi bị khắc kỵ.

Thái Bạch – còn gọi là Kim Đức tinh, là hung tinh chủ về sự bất toại tâm, xuất nhập phòng tiểu nhân, hao tán tiền bạc, bệnh tật nảy sinh. Phòng tháng 5 xấu, nhất là những người mệnh hỏa, kim và mộc.

Thái Dương – Phúc tinh chủ sự hanh thông, cứu giải nạn tai. Với Nữ giới thì công việc vẫn thành công nhưng rất vất vả. Tốt vào các tháng 6 và 10.

Vân Hán – còn gọi là Hỏa Đức tinh là Tai tinh chủ hao tài, khẩu thiệt và tranh chấp, kiện tụng bất lợi. Đề phòng những rủi ro bất ngờ. Tháng 4 và 8 xấu.

Kế Đô – được ví như bà hoàng hậu khắc khe, là sao xấu ảnh hưởng nặng nơi phái Nữ, riêng những người có thai hay sinh đẻ trong hạn sao này thì ít bị ảnh hưởng. Gặp hạn sao này những mưu sự thường gặp khó khăn, thành ít bại nhiều, phòng thị phi, đau ốm hay tai biến bất ngờ. Sao Kế đô dù ít ảnh hưởng tới Nam giới nhưng ít nhiều cũng có tác dụng không thuận lợi. Phòng tháng 3 và tháng 9

Thái Âm – Phúc tinh chuyên cứu giải bình an, tốt cho Nữ số. Sao Thái Âm nhập hạn là tài tinh đem lại nhiều may mắn về tài lộc nhưng mang tính chất bất thường, thời vận hay thăng trầm.

Mộc Đức – Phúc tinh chủ may mắn, gặp thời vận tốt. Sao Mộc đức cũng là một phúc tinh cứu giải nên trong trường hợp dù gặp khó khăn gì vẫn có quý nhân giúp sức vượt qua. Tháng 10 và 12 tốt, riêng người mạng Kim thì bất lợi đôi chút vì không hợp với hạn sao này.

Năm hạn trong lá số Tử Vi tốt mà gặp Cửu Diệu tinh nhập hạn tốt thì lại càng tốt thêm. Nếu gặp hạn sao xấu mà năm nhập hạn trong lá số tốt thì sao hạn xấu sẽ được giảm bớt. Ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm Cửu Diệu tinh nhập hạn xấu thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.

tl-tu-vi-3

Luận về Tuần (hỏa) / Triệt (kim)

Tuần Trung Không Vong là cây cầu nối tiếp giữa hai giai-đoạn, kiềm hãm bớt từ từ lại, là trung gian kiềm chế, không cho quá trớn.

“Tứ chính giao phù kỵ nhất Không chi trực phá”

Triệt Lộ Không Vong là bao vây, ngăn cách từ cái xấu đến cái tốt, đã không cho xâm nhập từ ngoài vào (xấu cũng như tốt) , mà còn phá đổ tất cả những gì trong cung bị nó phong tỏa.

“Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng”

(Không vong định yếu đắc dụng, nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ công)

Tuần Triệt chỉ có thể làm giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh hay tiêu-tán bớt sự xấu của Hung-tinh, chứ không thể biến đổi tính cách của sao được, như biến Cát-tinh trở thành Hung-tinh và ngược lại.

Tuần-Triệt có thể làm cho bộ SPT thành hiền dịu lại đôi chút, còn đối với CNĐL thì làm cho bộ này trở nên chậm rãi, phấn-đấu hơi khó-khăn chứ không thể biến đổi từ ôn-hòa trở nên hào hùng và khí-phách như bộ SPT được.

Tuần-Triệt cũng không thể thay-đổi tính-cách của vòng Thái-tueá được, nhưng các sao trong tam-hợp Thái-tuế bị Tuần-Triệt phải tùy thuộc vị-trí mà thay-đổi tư-cách.

Trường-hợp những người chẳng may bị đặt để vào những vị-trí bất mãn (tam-hợp Tuế-phá, Thiếu-dương, Thiếu-âm) dễ tự thiêu thân, làm những việc xấu (nếu gặp SPT và Sát-tinh); được Tuần hay Triệt đóng khiến tự hạn-chế những tham-vọng và hành-động của mình mà thuận theo đường lợi-ích, nâng cao tư-cách không kém gì những người tam-hợp Thái-tuế.

Tuần-Triệt đóng giữa 2 cung trong tu vi, nghĩa là chỉ có liên-quan đến 2 cung đó mà thôi.

Dương-Nam / Âm-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 70% và tại cung Âm 30%

Âm-Nam / Dương-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 80% và tại cung Âm 20%

Mệnh bị Tuần hay Triệt thiếu-niên tân-khổ, luôn gặp trở-ngại lúc đầu thực-hiện công-việc.

Mệnh bị cả Tuần lẫn Triệt thì đời bị vùi xuống đất đen, không phải là Tuần-Triệt phá nhau để cho đương-số được thong-thả.

Tuần-Triệt phá nhau dành cho những người thuận lý âm-dương:

Mệnh hay Thân có một Tuần hay Triệt, đến đại-vận từ 30 tuổi trở đi gặp Tuần hay Triệt hay Triệt thì sẽ được tháo-gỡ cho hanh-thông, dầu chỉ là một vài năm (bất chấp đến vòng Thái-tuế).

Trường-hợp người Dương đóng cung Âm (hoặc ngược lại) mà Mệnh-Thân có một Tuần hay Triệt, khi đến đại-vận gặp Tuần hay Triệt thì thời-vận tốt mở làm hai lần chậm chậm ở 2 cung đại-vận có Tuần hay Triệt đóng (mỗi đại-vận là 5 năm).

Mệnh Tuần Thân Triệt (hoặc ngược lại) không còn gì để tháo-gỡ; ngay cả khi đến đại-vận Thái-tuế, ảnh-hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa mãn 50% mà thôi.

Trên đây là kinh nghiệm về hai sao Tuần Triệt của học phái Thiên Lươngtrong việc bình lá số Tử Vi, thật ra vấn đề đặc tính, ngũ hành và tác dụng của Tuần Triệt hiện còn đang là những nghi vấn, đề tài gây ra nhiều tranh luận, tùy theo mỗi người có lối tiếp thu, suy luận và khám phá riêng mà giải đoán.

Luận về Thiên Mã (hỏa)

Thiên Mã trong Tử-vi là một viên ngọc quí, viên ngọc quí này chỉ thấy ở trong hoàn-cảnh trái nghịch mà số đã xếp đặt cho người cung Mệnh hay Thân nằm trong tam-hợp Tuế-phá (bất mãn, đối kháng) của vòng Thái-tuế.

Thiên-mã là nghị-lực và khả-năng để giúp cho những người bất-mãn này đương đầu với những ngang-trái của tâm-thức và cuộc đời mà họ phải chịu. Đây chính là hình bóng một Tống Giang, một Đơn Hùng Tín, anh hùng hào hiệp chỉ phù suy chứ không tơ hào đến người thịnh. Còn tùy theo Thiên-mã có phải là của họ hay không mới là việc thành-bại quyết định.

Thiên Mã chủ tháo vát, tài năng và khéo léo. Ảnh hưởng nhiều đến công danh, sự nghiệp. Ngoài ra Thiên Mã còn chủ về sự di chuyển, thay đổi, đi xa và là phương tiện di chuyển như xe cộ, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị xe cộ hay hư hỏng hoặc tai nạn.

Về cơ thể con người Thiên Mã là tứ chi, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị thương tật.

Hành chính của Thiên Mã là hỏa, nhưng vì là dịch mã nên Mã đổi ngũ hành tùy theo phương vị Mã đóng, muốn làm chủ được Mã này thì bản mệnh phải đồng hành với cung Mã đóng thì mới có kết-quả được

Mã ngộ Tuần = Tuần là gạch nối liền giữa hai Giáp bắt cầu cho Mã trở nên đắc dụng. Tuy-nhiên Mã phải chùng lại một bước trước khi nhảy thì mới được thành-công, có nghĩa là vào giai đoạn đầu vẫn gặp những khó khăn, trở ngại nhưng rồi sau sẽ được hanh thông, nếu Thiên Mã hợp Mệnh, còn Mã ngộ Triệt là ngựa què ăn hại.

Người dương-nam – âm-nữ đại vận an theo chiều xuôi :

Mã mộc cung Dần gặp Tuần trở thành Mã hỏa

Mã hỏa cung Tỵ vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Mã kim cung Thân gặp Tuần trở thành Mã thủy

Mã thủy cung Hợi vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Người âm nam – dương nưõ đại vận an theo chiều ngược :

Mã mộc cung Dần vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Mã hỏa cung Tỵ gặp Tuần trở thành Mã mộc

Mã kim cung Thân vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Mã thủy cung Hợi gặp Tuần trở thành Mã kim

Thí dụ tuổi Kỷ Tỵ (Mệnh mộc) Mã tại cung Hợi ngộ Tuần đóng hai cung Hợi và Tuất. Nếu là người âm nam đại vận theo chiều nghịch thì Mã thủy sẽ theo cầu Tuần về lại cung Thân trở thành Mã kim khắc lại Mệnh mộc xấu. Còn với người âm nữ đại vận theo chiều thuận Tuần đóng sau lưng không thể bắt cầu cho Mã chạy nên Mã thủy sẽ sinh phò cho Mệnh mộc rất tốt.

Những cách tốt của Thiên Mã trong Tu Vi

Mã đắc Tràng-sinh = là giai-đoạn phát thịnh của tam-hợp Tuế-phá, Mã phải nằm trong tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ thì mới được gọi là thanh vân đắc lộ nhưng chỉ hanh-thông trong đại-vận đó mà thôi và còn tùy thuộc vào Hành của Mã phù hay hại Mệnh nữa.

Mã-Khốc-Khách = Mã phải nằm trong tam-hợp Lộc-Tồn dành cho các tuổi Giáp/Thìn-Tý-Thân và Canh/Tuất-Ngọ-Dần. Phần ngoại-lệ này ban phát cho người được nhiều nghị-lực bền bỉ, tùy theo sự sinh-khắc của bản mệnh đối với Mã (xử-dụng và làm lợi).

Những cách xấu của Thiên Mã trong Tu Vi

Mã kỵ gặp Không Kiếp, Kình-Đà, Thiên-hình và Triệt là ngựa què, ngựa chết dễ bị trở ngại hay tai họa.

Mã ngộ Tuyệt = Người mệnh kim-hỏa và thổ / dương nam hay âm nữ, mệnh có Thiên Mã gặp Tuyệt (sao cuối cùng của vòng Tràng Sinh) tại cung Hợi là cách “Mã cùng đồ” ngựa cùng đường, hết lối chạy chỉ sự bế tắc và thất bại.

Luận về bộ sao Tứ Hóa trong Tu Vi

Hóa-khoa (thủy) – văn-tinh chủ về phúc-quý, là Đệ Nhất Giải Thần hoán cải được tư-cách SPLT và ngộ chế được Thiên-không, Lục-sát-tinh.

Hóa-quyền (mộc) – trung-lập chủ về uy-quyền và may-mắn, hay vụng tính sinh kiêu vì tự ái nên gặp Sát-tinh dễ bị kết-quả xấu

Hóa-lộc (mộc/thổ) – tài lộc do công khó làm ra, tăng ảnh-hưởng cho Tài-cát-tinh và tốt cho cung Điền-Tài.

Hóa-kỵ (thủy) – ám tinh hay đố kỵ, là sao Kế-đô của nữ mệnh. Giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh, tăng ảnh-hưởng xấu của Sát-tinh.

Tam Hóa được áp đặt vào những chính-diệu theo hàng Can tuổi để đem lại sự hảnh-diện và phú quý cho người được hưởng. Giá-trị thật sự của Tam-hóa chỉ là gấm thêu hoa cho những bộ Chính-tinh dắc cách mà thôi chứ không phải là tư-cách, khả-năng và nghị-lực dùng để nâng cao phẩm-giá thực-sự cho người chính phái.

Nhận xét bảng tóm luận trên, các tuổi Ất-Bính-Kỷ-Nhâm-Quý được những sao đầy-đủ tư-cách hiền-lương nhân-hậu hẳn con thuyền khi ra khơi ít gặp phong ba bão lớn. Còn thuận buồm suôi gió hay không tùy thuộc ở hàng Chi (vòng Thái tuế) và giòng nước theo chiều cuộc diện (vòng Tràng-sinh).

Cách Tam hóa liên châu – ba sao đóng liên tiếp ba cung từ cung Dần đến Mùi / đắc vị nhất tại cung Thìn được dành cho 6 tuổi Ất/Tỵ-Dậu-Sửu (Khoa giáp Quyền-Lộc tại vị-trí Thiếu-âm) và Canh/Thân-Tý-Thìn (Quyền giáp Khoa-Lộc tại vị-trí Thái-tuế), còn các tuổi Ất-Canh khác chỉ là vay mượn mà thôi

Thiên Tài & Thiên Thọ (thổ) trong Tu Vi

Thiên Tài có ý nghĩa là tài năng, đo lường cắt giảm, vì thế nên Tài có đặc tính như Tuần Không là giảm ảnh hưởng xấu của các sao mờ ám và giảm bớt ảnh hưởng tốt của các sao sáng sủa.

Thiên Thọ là Phúc Thọ tinh chủ nhân hậu, từ thiện và gia tăng ảnh hưởng cho các phúc thọ tinh.

Ngoài những tính chất kể trên, Tài Thọ còn tượng trưng cho đạo lý Nhân Quả của đời người. Tài được khởi từ cung Mệnh (định mệnh thừa trừ mà cắt giảm) và Thọ được khởi từ cung an Thân (bản thân tự gây tạo) đến một cung nào đó để mách bảo cho biết là giữa Mệnh Thân và cung mà Tài hay Thọ đến đóng đã có sự hoán cải do luật thừa trừ mình đã gây nên.

Thân (Thiên Thọ / Nhân) = cá nhân tự gây tạo, tùy theo vị trí “Thân” để quyết định hành động theo cung mà Thiên Thọ đóng.

Mệnh (Thiên Tài / Quả) = định mệnh thừa hành mà cắt giảm, chịu ảnh hưởng cân quả do Thọ đã làm ra, tại cung có Thiên Tài đóng.

Nếu như Thân (tam hợp Thái Tuế) có làm ra “Thọ” hay cư xử sao cho “Thọ” được toàn vẹn thì Mệnh mới có đủ “Tài” năng lực hoán cải tạo ra những sự tốt đẹp để đền đáp. Còn như Thân xuất phát chử “Thọ” bị Không-Kiếp hãm thì Mệnh “Tài” kia cũng sẵn sàng đem lại những kết quả là hình thức như tranh vẽ mà thôi.

Người đời nhập thế ở khoảng thời gian nào thì sẽ thấy căn quả của mình phải mang nặng ở ngay phần việc nào như:

Năm Tý (Tài ở Mệnh) căn quả do chính bản thân mình

Năm Sửu (Tài ở Phụ) phải làm sao với Đấng sinh thành

Năm Dần (Tài ở Phúc) căn quả chịu ảnh hưởng nơi dòng họ

Năm Mão (Tài ở Điền) căn quả chịu ảnh hưởng về nhà cửa điền sản

Năm Thìn (Tài ở Quan) căn quả chịu ảnh hưởng với công việc làm

Năm Tỵ (Tài ở Nô) căn quả chịu ảnh hưởng nơi bạn bè, kẻ dưới tay

Năm Ngọ (Tài ở Di) căn quả chịu ảnh hưởng nơi ngoại nhân

Năm Mùi(Tài ở Ách) căn quả chịu ảnh hưởng những hoạn nạn

Năm Thân (Tài ở Tài) căn quả chịu ảnh hưởng do tiền của thâu hoạch

Năm Dậu (Tài ở Tử) căn quả chịu ảnh hưởng nơi con cháu

Năm Tuất (Tài ở Phối) căn quả chịu ảnh hưởng ở vợ chồng

Năm Hợi (Tài ở Bào) căn quả chịu ảnh hưởng nơi anh em

Các cách tốt xấu của Thiên Tài trong Tu vi

Thiên Tài + Nhật hay Nguyệt = Thiên Tài khi đồng cung với Nhật hay Nguyệt hãm sẽ gia tăng sức sáng cho Nhật Nguyệt và sẽ làm giảm sự quang huy của Nhật Nguyệt một khi bộ sao này sáng sủa tốt đẹp. Trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung thì Thiên Tài sẽ làm cho Nhật Nguyệt thêm rực rỡ tốt đẹp.

Thiên Tài + Nhật hãm = Người không cẩn trọng lời nói, thiếu lòng tín ngưỡng về thần quyền


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bước luận đoán lá số Tử vi (phần 3) –

Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Bật mí những loại cây tốt cho văn phòng giúp cải thiện phong thủy văn phòng dưới đây sẽ giúp bạn ngày một phát đạt, công việc hanh thông. Đâu là những cây
Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn phòng là nơi mà chúng ta tiếp xúc thường xuyên mỗi ngày nên càng chăm chút thì càng có lợi. Những loại cây vượng tài giúp cải thiện phong thủy văn phòng dưới đây sẽ giúp bạn ngày một phát đạt, công việc hanh thông.

 
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 
Không gian sống nào “xài” cây cảnh ấy để hút tài vượng lộc. Với những văn phòng lớn, không gian thoáng rộng, nên trưng các loại cây vượng tài lớn như cây hạnh phúc, trầu bà, thiết mộc lan, cây phát tài, cây móng rồng, trúc phú quý, cây dừa cảnh, cây hoàng tâm diệp,…   Với những văn phòng hoặc góc làm việc nhỏ nên trưng các loại thực vật nhỏ gọn như vạn niên thanh, lan da hổ, lô hội, cây lưỡi hổ, lan điếu, hoàng kim cát, cây bạch chưởng, văn trúc, vạn tuế…   Cây tốt cho văn phòng có tác dụng chắn sát, hấp thụ năng lượng xấu, điều tiết phong thủy, còn có thể thanh lọc không khí, mang đến bình an, thịnh vượng cho chủ nhân.   Tác dụng cụ thể cho từng trường hợp như sau:  

1. Vượng Văn Xương

  Để cải thiện phong thủy văn phòng của những người làm công việc liên quan tới văn vở, chữ nghĩa, hành chính thì đẹp nhất là thúc đẩy Văn Xương tinh. Nên dưỡng các loại cây như trúc phú quý, tuyết lan, trúc vĩ, sơn trúc – có khả năng khơi thông suy nghĩ, đẩy mạnh năng lực, tập trung trí lực. Đọc thêm: Những lý do theo phong thủy khiến bạn muốn mua trúc phú quý ngay lập tức  
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 

2. Cát tinh tụ tài

  Với người kinh doanh, buôn bán hoặc làm việc trong lĩnh vực tài chính, kế toán, liên quan tới tiền bạc thì nên trưng cây phong thủy vượng tài. Tiêu biểu như cây tốt cho văn phòng: Cây phát tài, trúc phú quý, cây móng rồng, tùng Bồng Lai, lan quân tử, hoa anh thảo – có tác dụng tụ tài, thúc đẩy tài lộc.  

3. Bình an, ôn hòa

  Muốn văn phòng khoáng đạt, yên bình, thanh nhã thì chủ nhân nên chọn bách hợp, lan điếu, hoa hồng, tuylip – có tác dụng tâm bình khí hòa, mang đến tốt lành.  
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 

4. Khỏe mạnh, khoan khoái

  Để cầu sức khỏe, mang sinh khí đến cho phòng làm việc, hãy bày hoa hồng, hải đường, hoa trà, hoa phăng – có tác dụng nhẹ nhàng, thư giãn, tăng cường vận trình sức khỏe cho chủ nhân.  

5. Hóa sát, trừ hình

  Phòng làm việc phạm sát hoặc có hình thì bày thực vật giải trừ như ngọc kỳ lân, xương rồng, cây dây nhện – có tác dụng khắc chế ngoại sát, bảo hộ bình an.
Muốn cải thiện phong thuỷ, gia tăng tài lộc và thăng tiến, đừng quên những loại cây tốt cho văn phòng trên đây nhé!
Những tác dụng bất ngờ của cây phát tài Nằm lòng kiến thức phong thủy về trồng cây trước nhà
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

10 vị trí nhà phạm "sát khí" xin đừng mua

Phong thủy nhà cửa rất quan trọng, vì nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình, khiến bệnh tật đeo bám không rời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cấm kị phong thủy 1: Nhà gần cầu vượt 

Khi mua nhà, nếu không phải rất cần thiết, thì không nên mua nhà ở gần cầu vượt. Giao thông ở nơi này không thuận tiện, hơn nữa xe cộ trên cầu khá ồn ào và hỗn loạn, sẽ làm hỏng và đứt đoạn phong thủy, còn có hại cho sức khỏe của người trong nhà. Những người sống ở gần khu vực này dễ mắc các bệnh liên quan đến thần kinh, viêm loét tá tràng.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 2: Nhà ở góc ngã tư

Gần ngã tư có thể dùng làm văn phòng, nhưng cần lưu ý một điều, nếu xây nhà không tốt có thể tạo nên góc chết. Một số tòa nhà xây ở khu vực này có khả năng tiêu thụ khá cao, nhưng nếu sống ở đây, sẽ dễ mắc các bệnh như đau dạ dày, ung thư dạ dày, phổi, trúng gió…

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 3: Nhà gần cột điện cao áp hoặc tháp truyền hình 

Công suất phát điện của tháp truyền hình rất mạnh, các mạng điện thoại cũng có rất nhiều cột tín hiệu, sóng điện từ của nó có thể làm giảm khả năng miễn dịch, gây ra bệnh máu trắng, tinh thần phân liệt, nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới ung thư. Nên sống cách cột điện cao áp ít nhất 300m.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 4: Nhà gần trạm xăng dầu

Hiện nay các phương tiện giao thông ngày càng nhiều, nên trạm xăng dầu cũng theo đó mà mọc lên như nấm. Có thể vì tiện lợi mà mua nhà gần trạm xăng, nhưng trong dầu có rất nhiều vật chất có hại cho sức khỏe như chì..; hơn nữa lượng xe dừng và khởi động ở trạm xăng nhiều, tạp âm lớn cũng là sát khí trong phong thủy.

Cấm kị phong thủy 5:  Nhà đối diện tường kính

Tường làm bằng kính, cũng giống như gương, có thể sản sinh ra quang sát. Hiện nay có rất nhiều tòa nhà cao tầng dùng toàn kính. Những người sinh sống trong tòa nhà đối diện sẽ bị ảnh hưởng và mắc phải các bệnh về mắt như tăng nhãn áp, tháp truyền hình, đục thủy tinh thể, viêm kết mạc, viêm giác mạc.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 6: Đường chạy thẳng về phía ban công 

Rất nhiều người sức khỏe không tốt, loại xung sát này, đặc biệt là khí lưu sẽ rất dễ khiến người ta mắc cảm cúm.

Cấm kị phong thủy 7: Ban công của phòng chính hoặc phòng ngủ đối diện góc nhọn

Cấm kị phong thủy này được gọi là tiêm đao sát, khiến tinh thần của chủ nhân kém, dẫn tới tinh thần yếu.

Cấm kị 8: Nhà gần đường sắt 

Sống gần đường sắt rất dễ mắc các bệnh về tai, thính lực kém, tuổi thọ ngắn.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị 9: Tường vây quá cao

Tường vây của sân vườn hay xung quanh biệt thự quá cao không tốt, chủ nhân sẽ cảm thấy mình sống trong một môi trường khép kín, dễ phiền muộn.

Cấm kị 10: Đừng ngoài nhà có thể nhìn ngay thấy ống khói lớn

Như vậy về tâm lý sẽ khiến tinh thần bị ức chế, các chức năng của bộ phận cơ thể bị hỗn loạn, dẫn tới các bệnh về máu não, trúng gió, u não. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 vị trí nhà phạm "sát khí" xin đừng mua

Nguyên vận chỉ cái gì? –

Nguyên vận là tên gọi của Tam nguyên cửu vận. Tam nguyên cửu vận là sự kết hợp giữa cửu tinh (Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử) và sáu mươi giáp tý. Cửu tinh chia làm tam nguyên, mỗi tam cung là m

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyên vận là tên gọi của Tam nguyên cửu vận. Tam nguyên cửu vận là sự kết hợp giữa cửu tinh (Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử) và sáu mươi giáp tý.

pt1

Cửu tinh chia làm tam nguyên, mỗi tam cung là một nguyên: Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích là thượng nguyên; Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch là trung nguyên; Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử là hạ nguyên. Mỗi một ngôi sao đương lệnh (lệnh tinh) gọi là vận, cửu tinh tức là cửu vận.

Trong “Hoa Đình tưởng thị gia truyện địa học chân thư” của Tưởng Đại Hồng viết: “Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích là thượng nguyên, mỗi cung quản vận 20 năm, ba cung cộng thành 60 năm (60 năm là một nguyên); Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch là trung nguyên, vượng vận diệc 60 năm; Ngũ Hoàng vô sở hạo trước, phán nhi phân chi, thượng 10 niên ký vượng vu khôn, hạ 10 niên ký vượng vu cấn, hựu thương 30 niên thuộc thượng nguyên Tứ Lục quản sự, hạ 30 niên thuộc hạ nguyên Lục Bạch quản sự; Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử vi hạ nguyên vượng vận diệc 60 niên”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên vận chỉ cái gì? –

Ngũ hành và phong thủy

Trong ngũ hành có ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc.
Ngũ hành và phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành sinh - khắc

Ngũ hành tương sinh

Nước (Thủy) giúp cho cây cối (Mộc) xanh tươi.

Cây (Mộc) cháy tạo ra lửa (Hỏa).

Lửa (Hỏa) sau khi cháy tạo ra tro hoặc đất (Thổ).

Trong lòng đất (Thổ) có chứa kim loại (Kim).

Kim loại (Kim) khi bị nung chảy thành dạng lỏng như nước (Thủy).

Ngũ hành tương khắc

Thủy khắc Hỏa (nước dập tắt lửa).

Hỏa khắc Kim (lửa nung chảy kim loại).

Kim khắc Mộc (đồ kim loại chặt gãy cây cối).

Mộc khắc Thổ (cây cối hút dinh dưỡng của đất).

Thổ khắc Thủy (đất chặn dòng nước).

(Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành và phong thủy

Chùa Úc Kỳ - Thái Nguyên

Chùa Úc Kỳ còn có tên gọi khác là Phúc Linh Tự. Chùa là một trong những điểm di tích được bảo tàng Thái Nguyên kiểm kê năm 1996
Chùa Úc Kỳ - Thái Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi từ trung tâm thành phố Thái Nguyên, theo đường quốc lộ 37 đi Phú Bình, đến đầu cầu Mây rẽ phải đi theo con đường xi măng khoảng 400m là đến khu di tích lịch sử đình – Chùa Úc Kỳ ( Phúc Linh Tự). Chùa Úc Kỳ tọa lạc tại xã Úc Kỳ, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

Hàng năm tại Chùa Úc Kỳ diễn ra nhiều lễ hội để thu hút du khách cũng như là duy trì nét đặc sắc văn hóa của vùng được truyền từ đời xưa. Một số ngày lễ chính như: Lễ Kỳ Yên diễn ra vào ngày rằm tháng giêng, Lễ Vu Lan diễn ra vào rằm tháng 7, Lễ Tất Niên tổ chức vào tháng Chạp

được đưa vào danh mục quy hoạch phân loại đề nghị lập hồ sơ khoa học trình Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng. Ngày 15/12/2004 chùa đã được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng chứng nhận di tích quốc gia.

Lịch Sử: Chùa Úc Kỳ được nhân dân thập phương công đức cột đá, được xây dựng vào năm Bảo Thái Thứ 7 (1726) tức dưới đời vua Lê Dụ Tông (1706- 1729). Các cột đá đều được đẽo gọt rất công phu. Trên cột đá khắc văn bia, nội dung các văn bia cho biết tên nhiều người của các gia đình, dòng họ đã công đức tiền vàng , ruộng vườn để xây dựng chùa.

Kiến Trúc: Chùa Úc Kỳ quay mặt về hướng nam, nằm trên mặt bằng có cảnh quan đẹp, toàn bộ khu vực đình chùa có diện tích khoảng 4.147m2.Chùa vẫn giữ được kiến trúc nghệ thuật cơ bản của nó từ khi mới được dựng vào thế kỷ XVIII. Chùa còn có gác chuông đồng thời là Tam quan thuộc loại kiến trúc nghệ thuật thời Lê.

Gác chuông chùa Úc Kỳ đồng thời là Tam quan có kiến trúc : ba gian hai chái kết cấu gồm 6 hàng chân cột: Gồm 4 cột cái và 18 cột quân , cột cái cao 8m, mỗi cột cách nhau 2m , cột quân cao 6m mỗi cột cách nhau 1,2 m. Tam quan gồm có ba cửa, mỗi cửa rộng 2,6m. Tổng thể tam quan hình chữ nhật dài 20 m rộng 12,5m. Gian giữa tam quan đột khởi gác chuông kiến trúc theo kiểu chồng diêm 2 tầng, 8 mái đao bằng gỗ cong vút. Kiến trúc bộ vì kèo theo kiểu kẻ truyền toàn bộ bằng gỗ lim đen bóng. Dựa vào kiến trúc , phong cách nghệ thuật thì toàn bộ gác chuông này là một kiến trúc nghệ thuật khá cầu kỳ, độc đáo duy nhất ở tỉnh Thái Nguyên. Có thể nói đây là một di tích kiến trúc nghệ thuật thời Lê thế kỷ XVIII nổi tiếng của tỉnh Thái Nguyên.

Trên gác chuông có treo một quả chuông khá to nặng khoảng 100kg . Trên thân chuông có trang trí hoa văn với các đề tài “Tứ linh” và một bút ký ngắn cho biết địa danh lúc bấy giờ có tên “Trấn Thái Nguyên – phủ Phú Bình- huyện Tư Nông. Niên đại hoàng triều Minh Mệnh năm thứ 7” (1826). Sau Tam quan là hậu đường cũng có kiến trúc hình chữ nhật có diện tích tương đương với nhà Tam quan. Trước cửa nhà hậu đường có khắc 4 cột đá khắc tên những người , dòng họ công đức.

Trong chùa còn có 20 pho tượng bằng gỗ được sơn son thiếp vàng trông đường bệ uy nghi. Bàn thờ Tam Bảo trên cùng có lớp tượng tam thế là lớp tượng A Di Đà, Quan Âm nghìn tay, tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên có tượng Nam Tào, Bắc Đẩu. Tiếp đến là Thích Ca sơ sinh , hai bên bàn thờ Tam bảo có thờ Đức Ông và bàn thờ Thổ địa , những pho tượng phật ở chùa Úc Kỳ đều có niên đại thế kỷ XVIII . Một số tượng Mẫu ở nhà Mẫu bên cạnh nhà Tam quan và một số tượng khác mới được bổ sung vào thế kỷ XIX và thế kỷ XX.

chua uc ky
Điện chính Chùa Úc Kỳ

Chùa Úc Kỳ ở vị trí có không gian thoáng mát, đường làng đổ bê tông đi lại dễ dàng cho nhân dân thập phương đi lại cầu lễ vào các dịp trong năm như: Rằm tháng giêng (Lễ Kỳ Yên) , rằm tháng bảy (Lễ Vu Lan) và tháng chạp (Lễ Tất niên).

Cùng với các di tích lịch sử cách mạng xã Kha Sơn, Đình Phương Độ , Đình Xuân La ( Xuân Phương) , Chùa Ha (Nhã Lộng) , Đình Hộ Lệnh (Điềm Thuỵ), Đền Cầu Muối (Tân Thành)… chùa Úc Kỳ đã tạo thành một quần thể di tích đặc sắc của huỵên Phú Bình: Đã, sẽ và đang thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh Thái Nguyên đến tham quan du lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Úc Kỳ - Thái Nguyên

Xem tay đoán bệnh

Gò Kim tinh có lõm sâu: dễ bị bệnh tật.- Gò Hỏa tinh có lằn chỉ nằm ngang: sưng cuống phổi, huyết áp cao.- Gò Thổ tinh có ngôi sao: dễ bị bại liệt.
Xem tay đoán bệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Gò Kim tinh có lõm sâu: dễ bị bệnh tật.

- Gò Hỏa tinh có lằn chỉ nằm ngang: sưng cuống phổi, huyết áp cao.

- Gò Thổ tinh có ngôi sao: dễ bị bại liệt.

- Gò Thái Âm có những đường chỉ đan nhau như hình lưới, hàng rào: bạn gái nên cẩn thận về bệnh thuộc thận, bệnhthuộc đường sinh dục.

Trên Tâm Đạo:

- Đường Tâm đạo có phân hai nhánh, một nhánh chạy về hướng trí đạo, một hướng về gò mộc tinh là biểu hiện của tình trạng kinh kỳ bất ổn, khí huyết không đều, gan và tim yếu.

- Đường Tâm đạo bị cắt bởi nhiều đường chỉ nhỏ: cần lưu ýđến bệnh tim.

- Trên đường Tâm đạo có cù lao sậm màu: bạn gái thường bị đau ở bộ phận sinh dục, thận.

- Trên đường Tâm đạo có ngôi sao nằm ngay dưới gò Thổ tinh:bệnh tim.

- Đường Tâm đạo đậm màu, lan rộng và trồng tréo lên nhau như dây thong và ngoằn ngoèo như rắn lượn: Tim yếu. Dạ dày đường ruột cũng không tốt. Ngoài ra Tâm đạo có dấu nủng (chấm sâu đạm màu cũng vậy). Nhiều tài liệu xưa cho thấy Tâm đạo có cù lao là biểu hiện của bệnh tim.

Theo bác sĩ J.Coustanno thì càng ngày các nhà y học càng thấy mối liên hệ lạ lùng giữa bệnh lý và các dấu hiệu tương quan xuất hiện trên bàn tay cả nam lẫn nữ. Sau đây là một số đặc điểm mà các nhà nghiên cứu về chỉ tay của Đông cũng nhưTây đã từng nêu ra.

Trên đường Trí đạo:

- Đường trí đạo ngoằn ngoèo: đau gan, nếu uốn thành nhiều khúc hay bị nhức đầu.

- Đường trí đạo bị đứt khúc: cẩn thận, trong đời dễ bị té gãy

chân, ảnh hưởng đến mắt và đầu. Thần kinh bị xáo trộn.

- Nếu có những đường chỉ nhỏ cắt đường trí đạo ở phía trên:dễ bị tai nạn ở chân hay đầu.

- Đường trí đạo gần chạm đường Tâm đạo ở đoạn giữa: Hay khó thở hồi hộp, tim yếu, phổi yếu hay thở nặng nề.

Trên Sinh Đạo:

- Trên đường sinh đạo có chấm đen: đau nhức gân cốt.

- Trên sinh đạo có chữ thập, dấu nhân dễ bị tật, có chấm nủng: có bệnh trong người. Nếu có cù lao là bệnh dây dưa lâu ngày. Nếu có đường phân nhánh ở cuối là bệnh phong thấp nhức mỏi.

- Sinh đạo có đường chỉ nhỏ chạy xuống để liên hợp với một nhánh có ngôi sao nằm ở gòThái âm: Dấu hiệu dễ sẩy thai. Nên lưu ý đề phòng. Cuốiđường sinh đạo có chùm tua: đau bụng, nhức đầu.

- Sinh đạo đứt khúc: coi chừng bộ máy tiêu hóa có trục trặc.

- Sinh đạo có dạng lòi tói giống dây thong: đau mắt, mắt yếu.

- Sinh đạo có nhiều đường rẽ, phân nhánh: Thần kinh bị tác động.

- Đường sinh đạo có những làn nhỏ cắt ngang ngó qua gò Thái Âm: bệnh cảm đã nặng, thận đau và tử cung và phổi cũng vậy. Khi những lằn ấy xuất hiện dưới ngón tay cái trên gò Kim tinh thì nếu là đàn bà sẽ bị băng huyết.

- Gần đường sinh đạo có vùng nhỏ ửng hồng: coi chừng tim to hay có khi bị xuất huyết.

- Đầu đường sinh đạo có hình bán nguyệt: Để ý bệnh phổi.

- Đầu đường sinh đạo có một đường cong hướng về gò Mộc tinh là bệnh tim dễ phát.

- Ở đầu đường sinh đạo có nhiều chấm nủng màu đen: dễ bị bệnh sốt rét.

- Ở đầu đường sinh đạo có nhiều chấm sẫm màu: Nóng lạnh sốt rét, bệnh giun sán. Trên sinh đạo có những lõm, lún sâu: Mắt yếu.

- Đầu đường sinh đạo có cù lao: là bệnh lâu lành. Đau dạ dày khi cù lao ở vị trí khởi đầu của sinh đạo.

- Đầu đường sinh đạo có vòng tròn nhỏ: cần lưu ý thức ăn có thể bị ngộ độc, chết bất ngờ.

- Giữa đường sinh đạo có vòng tròn: Mắt có thể mù hay chấn thương. Nếu hai vòng tròn là hai mắt đều

Theo Baolavansu.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tay đoán bệnh

Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Thân

Theo tử vi tháng 6 âm lịch của người tuổi Thân, Thân Kim gặp Mùi Thổ được tương sinh, vận trình xuất hiện Ấn Tinh chủ về mặt quyền lực và vị thế.
Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Theo tử vi tháng 6 âm lịch của người tuổi Thân, Thân Kim gặp Mùi Thổ được tương sinh, vận trình xuất hiện Ấn Tinh chủ về mặt quyền lực và vị thế. 


Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Than hinh anh goc
 
Theo tử vi tháng 6 âm lịch, Thân Kim gặp Mùi Thổ được tương sinh, vận trình xuất hiện Ấn Tinh chủ về mặt quyền lực và vị thế. Có thể nói sự nghiệp người tuổi Thân gặp rất nhiều cát lợi, lại thêm các cát thần chủ về nâng đỡ vận trình công việc mà bạn có thể kê cao gối mà ngủ.   Ngược lại với sự nghiệp thăng hoa vận trình tài vận của người tuổi Thân có phần lao đao hơn, Thiên Ấn gặp được Thất Sát tinh hóa sát mà khả năng nắm bắt đồng tiền của bản mệnh bị suy giảm khá nhiều. Đây là tháng mà người tuổi Thân phải nắm chắc túi tiền của mình, thay vì mạo hiểm đầu tư hoặc theo đuổi một số tiền không có thực.    Chuyện tình cảm cần lưu ý lời ăn tiếng nói với bố, có thể bạn đang làm cho bố mình giận lắm.  
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Than hinh anh goc 2
 
Bước vào tháng Ất Mùi, Thiên Ấn va chạm Thất Sát người tuổi Dậu dễ gặp tiểu nhân lợi dụng “thừa nước đục thả câu”. Khả năng xử lý công việc kém khiến đồng nghiệp hiểu nhầm, giúp người mà không được đền đáp lại còn bị hãm hại. Nhưng nhờ Thiên Đức quý nhân ban ơn mà tăng cát giảm hung hơn, vận khí người này dễ dàng được bảo vệ.   Măt khác Nguyệt Đức cát thần cũng xuất hiện cùng bảo vệ mặt công việc cho người tuổi Thân. Thiên Nguyệt Đức biểu hiện chủ yếu ở mặt tính cách, mang phúc phận và quý khí cho bản chủ. Người có hai cát tinh xuất hiện thì tính cách trở nên lương thiện, hành sự công tư phân minh. Nên những người lãnh đạo sẽ được ưu ái hơn cả, nhờ hành thiện tích đức mà gặp hung hóa cát.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Than hinh anh goc 3
 
Người tuổi Thân bước vào tháng Ất Mùi có Kiếp Sát tọa cung tài lộc, vận trình được nâng đỡ bởi chính trí thông minh ưu việt. Khi Kiếp Sát là Hỷ Thần thì người tuổi Thân có trí dũng hơn người, trời sinh anh tú lại cần cù quyết đoán. Người làm ăn thì nhanh nhạy nắm bắt cơ hội, người làm công ăn lương thì có cách để gia tăng thêm thu nhập từ các đường Thiên Tài bên ngoài. Nhưng dù sao đây vẫn là tinh tú mang tới điềm xấu nên người này phải tránh danh lợi hư vinh. Làm việc thì phải kiêng kỵ mưu cầu cao xa nếu không tiền bạc sẽ không thể ở lại lâu dài với bạn.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Than hinh anh goc 4
 
Vận trình tình cảm của người tuổi Thân được Nguyệt Lệnh tương sinh, có Thiên Ấn trực tiếp sinh khắc với Thiên Ấn. Với quan hệ này dù nam hay nữ đều cát lợi, trong chuyện tình cảm, bạn trở nên thấu hiểu đối phương hơn, dễ dàng hóa giải những hiểu lầm bấy lâu. Tuy vậy, người tuổi Thân lại có chút suy nghĩ hoang tưởng còn lý trí vẫn nhắc nhở rằng bản thân đang xa rời thực tế. Quan hệ tình cảm của người độc thân trở nên giằn vặt mâu thuẫn trong lòng, bạn không biết mình có thực sự để ý đối phương hay không.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Than hinh anh goc 5
 
Vận trình sức khỏe người tuổi Thân được Mùi Thổ tương sinh, Kim khí vượng Mộc tiêu hao. Gan thận vướng phải chứng âm khí thiếu thốn, hay còn gọi là âm hư, khiến bạn cảm thấy hoa mắt, mắt khô, dễ lao lực, chân tay tê mỏi… Gan thận hư cũng không tốt cho những đôi vợ chồng muốn có con.    Nếu muốn triệt để thoát khỏi hiện tượng gan thận hư thì phải bồi bổ thận, phổi. Người cần phải dùng những loại dược liệu cân bằng âm dương, duy trì thói quen dậy sớm, ngủ sớm tránh thức đêm nhiều. Tích cực tham gia các hoạt động vận động ngoài trời, thư thái tinh thần. Trong khi làm việc, người tuổi Thân cần phải tránh để áp lực công việc học hành gây khó cho sức khỏe của bạn.    Nhìn chung, đây sẽ là một tháng vượng sinh dành cho người tuổi Thân. Sự nghiệp được ngũ hành tương sinh, tay cầm Ấn Tín oai phong lẫm liệt. Chỉ cần bạn lưu ý hung thần phá hoại, khéo léo hành xử, nâng cao khả năng giải quyết vấn đề trong công việc thì sẽ ổn hơn. Vận tài lộc đến và đi chỉ phụ thuộc vào chính bản thân bạn, lanh lẹ thì tiền bạc thoải mái, chậm chạp thì chỉ có chờ lương cuối tháng mà thôi. Nếu  có thể dẫn thêm ngũ hành Mộc để kìm hãm hành Kim vượng vận thì vận khí của sẽ được cân bằng hơn. Bạn có thể sử dụng đồ đạc, màu sắc, làm ăn, kết bạn… mang ngũ hành Mộc để thúc đẩy vận trình. 
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Than hinh anh goc 6
 
► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Thân

Tránh chọn cửa hàng gần đuờng cụt –

Do mặt dường bị chắn nên người và xe cộ không thể đi qua, hơn nữa khách hàng có tâm lý không muốn quay đầu xe khiến cho cửa hàng ở đoạn đuờng này dễ bị rơi vào tình trạng ế ẩm. Ở một thành phố du lịch đã từng khai thác một hạng mục thương nghiệp loại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lớn, tuy nằm tại đoạn đường náo nhiệt, nhưng do đoạn đuờng phía Đông chưa tu sửa xong, đường vẫn không thông nên đã gây bất lợi cho cửa hàng này.

Dù được miễn tiền thuê cửa hàng năm năm, mỗi năm được trợ cấp tiền để sửa sang cửa hàng thu hút khách. Nhưng đến nay mở được ba năm mà cửa hàng vẫn vắng vẻ, kinh doanh khó khăn do khách hàng không tiện đường.

cua-hang-duong-cut

Tốt xấu của Thủy

Phong Thủy chính là nói đến “Khí”, chân khí của vũ trụ, của trời và đất. Khí gặp gió mới dịch chuyển, phát tán được, gặp nước bị ngăn chặn, lưu giữ lại. Thiết kế nhà nào giữ gió lại tụ khí thì phong thủy tốt.

Tại các thành phố lớn, những tòa nhà cao ốc mọc lên, đường đi lối lại ngang dọc, không đẹp như phong thủy ở nông thôn. Các nhà phong thủy quy định kiến trúc nhà ở là “Sơn”, đường đi lối lại là “Thủy”. Tại sao? Vì người và xe cộ đi lại trên đường như nuớc chảy không ngừng. Có sách viết rằng: “Cao một tấc là sơn, thấp một tấc là thủy” quả không sai.

Trong môi trường sống và làm việc cùủ con người, hình dáng và hướng đi của dòng sông, con đường có ảnh hưởng trực tiếp đến phong thủy. Đoạn đường vắng là “Lai Thủy” (nước đến), đoạn đường uốn cong mà thông là “Khứ Thủy” (nước đi), thuộc “Hữu tình chi thủy”, là may mắn. Đoạn đường gấp khúc, không thông là “Vô tinh Thủy”, là điềm không may.

Nếu đoạn đường đó nằm gần khu dân cư hoặc cửa hàng sẽ gây nên buôn bán thất bại, phá sản, sự nghiệp đình trệ, mất việc, mất chức, thậm chí xảy ra điều xấu ngoài ý muốn như tai nạn… Nếu bạn muốn đi mua nhà, thuê phòng mà thấy xung quanh khu vực đó có hiện tượng trên thì hãy từ bỏ ngay, đừng tham rẻ mà gây họa về sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh chọn cửa hàng gần đuờng cụt –

Hướng dẫn cách chọn màu xe hợp phong thủy

Theo phong thủy , khi chọn màu sắc cho xe, bạn nên chọn những màu hợp với mệnh của mình để đảm bảo may mắn và tài lộc sẽ đến với bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tra ngũ hành theo năm sinh

1970, 1971, 2030, 2031: Thoa xuyến Kim (Vàng trang sức).

1972, 1973, 2032, 2033: Tang đố Mộc (Gỗ cây dâu).

1974, 1975, 2034, 2035: Đại khê Thủy (Nước dưới khe lớn).

1976, 1977, 2036, 2037: Sa trung Thổ (Đất lẫn trong cát).

1978, 1979, 2038, 2039: Thiên thượng Hỏa (Lửa trên trời).

1980, 1981, 2040, 2041: Thạch lựu Mộc (Cây thạch lựu).

1982, 1983, 2042, 2043: Đại hải Thủy (Nước đại dương).

1984, 1985, 2044, 2045: Hải trung Kim (Vàng dưới biển).

1986, 1987, 2046, 2047: Lộ trung Hỏa (Lửa trong lò).

1988, 1989, 2048, 2049: Đại lâm Mộc (Cây trong rừng lớn).

1990, 1991, 2050, 2051, 1930, 1931: Lộ bàng Thổ (Đất giữa đường).

1992, 1993, 2052, 2053, 1932, 1933: Kiếm phong Kim (Vàng đầu mũi kiếm).

1994, 1995, 2054, 2055, 1934, 1935: Sơn đầu Hỏa (Lửa trên núi).

1996, 1997, 2056, 2057, 1936, 1937: Giản hạ Thủy (Nước dưới khe).

1998, 1999, 2058, 2059, 1938, 1939: Thành đầu Thổ (Đất trên thành).

2000, 2001, 2060, 2061, 1940, 1941: Bạch lạp Kim (Vàng trong nến rắn).

2. Màu sắc tương hợp

Ví dụ: Bạn sinh năm 1980 ==> mạng Thạch Lựu Mộc, tức là cây cối, mạng tương sinh ra bạn là mạng Thủy (nước), tương khắc với bạn là Kim (kim lọai).

Vậy màu hợp với bạn gồm màu xanh lá cây (màu của bạn), màu của thủy gồm không màu (như kim cương, pha lê), đen, xanh dương. Màu khắc với bạn là màu bạc, màu óng ánh.

Khi mua xe, bạn nên xem ngày tốt và chọn xe có màu tương sinh hay cùng hành, kỵ mua xe màu tương khắc với mạng của chủ nhân.

- Mua chiếc xe có màu tương sinh với mạng người chủ thì chiếc xe đó thường đem lại lợi lộc, khi lái xe sẽ thoải mái trong lòng, ít khi bị hư hỏng bất ngờ và nếu rủi ro có bị tai nạn thì thường bị nhẹ hơn màu tương khắc.

- Mua chiếc xe có màu cùng hành với người chủ cũng tốt, nó ít khi gây phiền phức nhưng cũng không được lợi bằng màu sinh nhập (cùng hành là cùng màu theo ngũ hành).

- Mua xe có màu tương khắc với mạng người chủ, thường làm cho sức khỏe người chủ trở nên suy yếu, trong lòng bực bội khi ngồi vào tay lái, bị buộc phải lái đi làm những việc mà trong lòng không muốn. Xe bị trục trặc thường xuyên, hao tốn tiền bạc để sửa chữa, bị cọ quẹt hay bị phá phách một cách vô cớ, khi xảy ra tai nạn thì bị thương tật và chiếc xe bị hư hại nặng nề có khi phải vứt bỏ.

3. Ngũ hành tương sinh

chon mau xe hop phong thuy
Phong thủy Ngũ Hành Sinh-Khắc

Trong ngũ hành tử vi thì Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tương sinh không có nghĩa là hành này sinh ra hành khác, mà là nuôi dưỡng, trợ giúp, làm cho hành kia có lợi. Thí dụ như: Thủy sinh Mộc, nước sẽ làm cho cây tươi tốt. Mộc sinh Hỏa, cây khô dễ cháy tạo nên lửa...

Sự tương sinh của ngũ hành có hai trường hợp:

- Sinh nhập: Hành khác làm lợi cho hành của mình.

- Sinh xuất: Hành của mình làm lợi cho hành khác.

Mộc sinh Hỏa: Hỏa được sinh nhập (được lợi), Mộc bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Hỏa sinh Thổ: Thổ được sinh nhập (được lợi), Hỏa bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Thổ sinh Kim: Kim được sinh nhập (được lợi), Thổ bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe)

Kim sinh Thủy: Thủy được sinh nhập (được lợi), Kim bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Thủy sinh Mộc: Mộc được sinh nhập (được lợi), Thủy bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

4. Ngũ hành tương khắc

Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Tương khắc có nghĩa là hành này làm hao mòn, diệt dần hay khống chế hành khác. Thí dụ như: Mộc khắc Thổ, rễ cây sẽ ăn hết phân của đất. Thổ khắc Thủy, đất sẽ ngăn chận làm cho nước không thể chảy qua được...

Sự tương khắc của ngũ hành cũng có hai trường hợp:

- Khắc nhập: Hành khác gây tổn hại hoặc kềm chế hành của mình. (Khi đi xe không hợp mệnh có thể dễ bị tai nạn).

- Khắc xuất: Hành của mình kềm chế hay gây tổn hại cho hành khác (Mình không bị hại nhưng xe dễ hỏng).

Mộc khắc Thổ: Thổ bị khắc nhập (bị hại), Mộc khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Thổ khắc Thủy: Thủy bị khắc nhập (bị hại), Thổ khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Thủy khắc Hỏa: Hỏa bị khắc nhập (bị hại), Thủy khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Hỏa khắc Kim: Kim bị khắc nhập (bị hại), Hỏa khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Kim khắc Mộc: Mộc bị khắc nhập (bị hại), Kim khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

5. Màu sắc theo ngũ hành

- Mộc: Màu xanh lá cây nhạt hoặc đậm.

- Hỏa: Màu đỏ hay màu huyết dụ.

- Thổ: Màu vàng, da cam gạch nhạt hay đậm hoặc màu vàng nhũ.

- Kim: Màu trắng, màu bạc hay xám nhạt.

- Thủy: Màu đen, tím thẫm hay xanh da trời nhạt hoặc đậm.

6. Mạng theo ngũ hành

- Mạng Kim, gồm có các tuổi:

Nhâm Thân 1932 và Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 và Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 và Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 và Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 và Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 và Ất Sửu 1985.

- Mạng Mộc gồm có các tuổi:

Nhâm Ngọ 1942 và Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 và Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 và Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý1972 và Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 và Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 và Kỷ Tỵ 1989.

- Mạng Thủy gồm có các tuổi:

Bính Tý 1936 và Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 và Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 và Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 và Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 và Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 và Quý Hợi 1983.

- Mạng Hỏa gồm có các tuổi:

Giáp Tuất 1934 và Ất Hợi 1935; Mậu Tý1948 và Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 và Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 và Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 và Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 và Đinh Mão 1987.

- Mạng Thổ gồm có các tuổi:

Mậu Dần 1938 và Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 và Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 và Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 và Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 và Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 và Tân Mùi 1991.

Nhìn vào bảng liệt kê các mạng, biết tuổi mình thuộc mạng gì, so với màu của ngũ hành để lấy màu sinh nhập cho mạng mình thì biết được mình hợp với màu nào, nên mua xe theo màu đó. Nếu khó tìm màu sinh nhập, chọn màu cùng hành cũng tốt. Ví dụ: Người mạng Thổ sinh năm 1968 có thể đi xe màu đỏ, màu vàng, màu trắng, tránh các màu xanh, đen.

Màu sắc của đồ vật sử dụng như xe máy, ô tô, quần áo giày dép, đồ dùng thường xuyên… cũng có tác động gián tiếp ức chế hay tăng cường đối với ngũ hành của bản mệnh. Nếu chọn lựa màu sắc của trang phục, các đồ vật sử dụng phù hợp với ngũ hành bản mệnh thì cũng mang lại những kết quả tốt, góp phần cải thiện được những thiếu khuyết của bản mệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn cách chọn màu xe hợp phong thủy

Phong thái của người thành công –

Phong thái của người thành công. Trang phục luôn chỉnh tề, tạo phong độ tốt, sẵn sàng đón nhận vận may.Những người thành đạt luôn ăn mặc lịch lãm, chu đáo. Trang phục chỉnh tề tạo phong độ tốt Một người thành công sẽ luôn chuẩn bị đón chào ngày mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thái của người thành công. Trang phục luôn chỉnh tề, tạo phong độ tốt, sẵn sàng đón nhận vận may.Những người thành đạt luôn ăn mặc lịch lãm, chu đáo.

Trang phục chỉnh tề tạo phong độ tốt
Một người thành công sẽ luôn chuẩn bị đón chào ngày mới với cơ thể sạch sẽ, thoải mái, trang phục chỉnh tề và gương mặt vui tươi.

Hãy ăn mặc chỉnh tề dù bạn làm việc ở nhà một mình và không có ai khác trong phòng làm việc.

10-cau-thu-an-mac-dep-nhat-gioi-tuc-cau

Không nên lười biếng trong ăn mặc

Ăn mặc chỉnh tề không có nghĩa là phải kiểu cách hoặc phải chạy theo thời trang. Chỉ cần bạn biết chăm sóc dáng vẻ bề ngoài, giữ quần áo luôn sạch sẽ và được là phẳng phiu. Nên treo quần áo hoặc xếp gọn gàng trong tủ để có thể chọn mặc dễ dàng. Những người lười biếng, không chăm sóc cơ thể thường là những người cẩu thả. Đó cũng có thể là nguyên nhân khiến họ mất đi sự may mắn trong giao tiếp cũng như những cơ hội khác trong cuộc sống.

Phong thái của người thành công

Ăn mặc chỉnh tế là cách cho thấy bạn sẵn sàng đón nhận vận may bất cứ lúc nào. Khi quan sát những người thành đạt, bạn sẽ thấy rằng cách ăn mặc của họ luôn toát ra vẻ lịch lãm, chu đáo.

Nguyên lý phong thủy này cũng có thể áp dụng cho nhà cửa. Khí tù hãm và có hại thường tạo nên thái độ sống cẩu thả. Tuy nhiên, nếu bạn cố gắng giữ cho thân thể và nhà cửa được sạch sẽ, gọn gàng, vùng không gian xung quanh bạn sẽ được cung cấp năng lượng mới đầy sức sống và những điều tốt lành sẽ luôn đến với bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thái của người thành công –

Tướng phu thế lí giải tại sao vợ chồng lại giống nhau

Các cặp đôi yêu nhau hoặc kết hôn thường có những nét hao hao giống nhau. Theo lí giải của dân gian, đó chính là tướng phu thê.
Tướng phu thế lí giải tại sao vợ chồng lại giống nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Trên thực tế, rất nhiều người cho rằng một số cặp đôi trước khi kết hôn có đường nét khuôn mặt rất giống nha. Thông thường khả năng nên duyên vợ chồng của những cặp đôi này rất cao. Tuy nhiên, cũng có kiểu vợ chồng có tướng mạo khác biệt rất lớn trước khi kết hôn, nhưng dần dần lại trông rất giống nhau, đặc biệt là gương mặt. Theo lí giải của các quan điểm dân gian, sự giống nhau đó chính là tướng phu thê.   Tướng phu thê
 
Như ông bà xưa thường nói, chuyện kết hôn là do nhân duyên trời định hay sự kết nối giữa nhân duyên từ kiếp trước…. Những cặp đôi giống nhau trước khi kết hôn có thể là do mối nhân duyên tiền định đó. Nét tướng giống nhau này chính là tướng phu thê. Các cặp đôi có tướng phu thê chắc chắn sẽ “về chung một nhà".

Tuong phu the li giai tai sao vo chong lai giong nhau hinh anh
Ảnh minh họa
  Còn trường hợp, càng chung sống với nhau thì lại càng giống nhau được rất nhiều người giải thích rằng vì họ đã chung sống với nhau lâu dài, tình cảm ngày càng gắn kết và hoàn cảnh ăn uống và sinh hoạt tương đương nhau nên đã tạo ra điều bất ngờ đó.   Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng   Đôi mắt của con người có chức năng như một chiếc máy ảnh, nó có thể thu mọi thứ bên ngoài vào trong, tương tự như hình ảnh được lưu giữ lại. Bất kể vật gì cũng đều là sinh mệnh, những thứ được thu vào này cũng là sinh mệnh. Chúng ta đều biết rằng bất cứ vật gì khi ở cùng nhau đều sẽ ảnh hưởng lẫn nhau, thẩm thấu vào nhau. Câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” mà người xưa nói đến chính là nói lên cái nguyên nhân này.
 
Sau khi trải qua quá trình thẩm thấu, bản thân mỗi người sẽ có sự thay đổi phù hợp để hòa nhập với môi trường mới, đối tượng mới, đồng thời khiến hình tượng bản thân mình tương đồng với đối phương hơn. Đây cũng chính là nguyên nhân mà nhiều người hay khuyên nhủ các bà mẹ trong thời kỳ mang thai, tốt nhất là không nên xem những thứ không tốt, mà nên chọn hình ảnh của những đứa trẻ mập mạp trắng trẻo để ngắm nhìn nhằm mục đích để những hình tượng tốt đó đi vào thay đổi thành phần cấu tạo của con người.   Điển cố “Mẹ của Mạnh Tử ba lần di chuyển nhà” vào thời xưa, cũng là một loại nghiệm chứng đối với “tướng phu thê”, mẹ của Mạnh Tử biết được rằng những thứ không tốt đi vào trong đầu não con trẻ sẽ có ảnh hưởng nhất định lên con cái, nên mới không tiếc tài lực vật lực chuyển nhà tới 3 lần.
 
Những gì mà “tướng phu thê” cho chúng ta thấy, không chỉ là vấn đề về tướng mạo, mà còn là thông qua nó vén mở đạo lý khoa học chân chính. Bất cứ cái gì cũng đều có thể ảnh hưởng lẫn nhau.
 
Đây cũng là căn cứ để luận giải lý do tại sao trước đây có một số người tín Phật, những người thông Đạo, họ dần dần đều có khuôn mặt từ bi, trong khi kẻ cường đạo lại có mặt mày hung ác, dù rằng lúc mới bắt đầu thì tướng mạo đều không khác biệt gì nhiều. Nguyên nhân là vì những người tín Phật cả ngày đều nhìn vào hình tượng Phật, vốn luôn thể hiện sự vĩ đại, thế nên thời gian lâu dần, bản thân mình từ bi thoát tục. Còn băng đảng cướp thì trái lại, luôn làm điều ác, nhìn thấy đủ thứ đều là đánh đấm, máu me, khuôn mặt vì thế mà ngày càng hung ác.
 
Dẫu vậy, “tướng phu thê” có thể vẫn còn có tồn tại những nguyên nhân khác nữa, bởi vì quy luật vũ trụ là vô cùng phức tạp, cũng vô cùng huyền diệu, không thể nào chỉ dùng một nguyên nhân để lý giải.
 
► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ Xem năm lấy chồng đại cát theo Lịch vạn sự

Theo
Ngày nay
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phu thế lí giải tại sao vợ chồng lại giống nhau

Tướng người xấu –

Đối với người nữ bất hạnh trong hôn nhân thì thường có mười điều kỵ trên tướng mặt của họ. Những tướng xấu này tạo thành các xung kích phá hỏng dung nhan khuôn mặt, cũng như đem lại những vận rủi. Ngày nay, do sự phát triển của công nghệ thẩm mĩ và t
Tướng người xấu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người xấu –

Lễ hội ngày mùng 6 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Bột Thượng

Hội Làng Bột Thượng được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng 10 âm lịch tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội ngày mùng 6 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Bột Thượng

Lễ hội ngày mùng 6 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Bột Thượng

Hội Làng Bột Thượng

Thời gian: tổ chức vào ngày 6 tháng 10 âm lịch.

Địa điểm: làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn thành hoang làng là tướng Nguyễn Tuyên - người có công lớn giúp triều Lý.

Nội dung: Hội làng mở ra nhằm tế lễ mừng công ơn của thành hoàng làng. Lễ vật dang lên gồm: lợn, xôi, rượu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội ngày mùng 6 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Bột Thượng

Đoán mệnh ở Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng

Thuật đoán mệnh ỏ Trung Quốc, từ thời Ngũ Đại sau khi được Từ Tử Bình đặt nền móng, qua hai triều Tống Nguyên đã có khí sắc, phát triển rộng rãi, đến thời Minh Thanh đã làm mê đắm trong dân gian, tạo nên một phong khí tìm người đoán mệnh cho mình. Trong dân gian, dù kẻ sĩ đi thi, thương nhân kinh doanh, hoặc là kết hôn sinh con, sinh lão bệnh tử, đều phải tìm người bói toán xem cát hay hung. Đến lúc này đoán mệnh và bói đã trở thành một phần trong cuộc sống dân gian. Thuật đoán mệnh đặc sản ở nước ta, do nó từ trước đến sau vẫn dương ngọn cờ triết lý âm dương ngũ hành, cho nên được đông đảo những người trí thức tiếp nhận. Trong xã hội, ngoài một số thầy đoán mệnh chuyên nghiệp kiếm cơm ăn ra, rất nhiều văn nhân học sĩ đều biết đoán mệnh. Chính vì thuật đoán mệnh có nền tảng trong giới văn nhân học sĩ, nên thường được phản ánh trong tác phẩm của họ.
Đoán mệnh ở Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim Bình Mai là một tiểu thuyết toả sáng rực rỡ ở thời nhà Minh, do tác giả có trình độ học vấn sâu rộng lại tinh thông tướng mệnh, cho nên trong tiểu thuyết đã đề cập đoán mệnh xem tướng, có mấy chỗ chiêm bốc hỏi quẻ. Ngoài đoán mệnh cho Tây Môn Khánh ra, ở hồi 16 của cuốn sách, Hoàng Tiên Sinh đã đoán mệnh cho vợ yêu của Tây Môn Khánh là Lý Bình Nhi mắc bệnh nặng, đó là một ví dụ điển hình.

Mấy ngày liền, bệnh của Lý Bình Nhi ngày càng thêm nặng, tinh thần tiều tuỵ, kinh nguyệt dầm dề, lục mạch trầm tế, tâm thần mê sảng. Đã mời liền mấy thầy thuốc, có người nói tình nặng tổn gan, phế Hoả quá vượng, dẫn đến Mộc vượng Thổ hư, huyết nhiệt vọng hành, tựa như núi lở mà không tiết chế được, có người nói tinh xung huyết quản, sau đó khí giận bột phát, khí huyết đấu nhau, nên bị băng huyết. Cứ vậy thuốc uống lung tung, người cho thứ này, kẻ đưa thứ khác, mỗi người chữa theo một cách. Một buổi tối, bà mẹ Tây Môn Khánh là Ngô Nguyệt Nương nói với y: anh bớt cho nó uống thuôc đi, nó không ăn được, trong bụng có gì đành cho thuốc tiêu thải hết đi.

Trước đây Ngô Thần Tiên đoán nó ở tuổi 39 có tai huyết quang nay nó gần đủ 27 tuổi rồi? Anh sai người đi tìm Ngô Thần Tiên, tính toán cho nó, xem ở số lộc mã của nó như thế nào? Chỉ sợ phạm phải sao hung nào, hãy cầu cứu che chở cho nó. Tây Môn Khánh nghe xong sai ngay đầy tớ cầm thiếp đến phủ Chu Thư Bị hỏi. Ở đó trả lời: Ngô Thần Tiên là người chu du đây đó, đi về không nhất định, nhưng chỉ ở miếu Thổ địa phía nam thành. Tháng 4 năm nay, đi vào núi Vũ Đương rồi. Muốn lấy số đoán mệnh, ở ngoài miếu Trấn Vũ có Hoàng Tiên Sinh, lấy số rất giỏi, mỗi lá số chỉ lấy 3 đồng cân vàng, không đi đến nhà ai. Tây Môn Khánh lập tức sai Trấn Kính Tế cầm 3 đồng cân vàng đến nhà Hoàng Tiên Sinh ở cửa bắc miếu Trấn Vũ. Ở cửa dán mấy chữ: Diệu đoán tiên thiên dịch số, mỗi mệnh lấy 3 đồng cân vàng. Trấn Kính Tế bước đến vái chào, giơ phong bì vàng lên nói: Có một mệnh, phiền tiên sinh đoán hộ. Viết bát tự đưa cho ông, nữ mệnh 27 tuổi, sinh giờ Ngọ ngày 15 tháng giêng. Hoàng Tiên Sinh gẩy bàn toán bèn nói: mệnh này, năm Tân Mùi, tháng Canh Thân, ngày Tân Mão, giò Giáp Ngọ, lẽ ra lấy cách ấn thụ. Bốn tuổi hành vận, bốn tuổi Kỷ Mùi, 14 tuổi Mậu Ngọ, 24 tuổi Đinh Tỵ, 34 tuổi Bính Thìn. Năm nay lưu niên Đinh Dậu, Tỷ Kiên dụng sự, tuế thương can ngày, sao kế đô chiếu mệnh, lại phạm táng môn Ngũ Quỷ, tai sát. Sao Kế Đô là Âm hối, tượng của nó như tơ rối không có đầu, biến lạ không bình thường. Đại vận gặp phải làm nhiều việc ám muội, dẫn đến bệnh tật, chủ tháng giêng, hai, ba, bảy, chín, bệnh tai gây tổn thất, tiểu khẩn hung ương, tiểu nhân tính toán, nói lời thị phi, chủ mất tài vật, hoặc là âm nhân (nữ nhân) rất là không lợi. Xem xong số, Kính Tế mang về nhà. Tây Môn Khánh đang cùng Ứng Bá Tước, Ôn tú tài ngồi với nhau, thấy mang tờ số về, cầm ra phía sau đọc cho Nguyệt Nương nghe. Thấy trong mệnh tuy nhiều hung cát ít, bất giác hàng mi hằn lên ba nếp nhăn, trong bụng lòng đầy buồn bực. Ở đây, Bát tự của Lý Bình Nhi là:

Năm Tân Mùi Tháng Canh Dần

Ngày Tân Mão Giờ Giáp Ngọ

Hoàng tiên sinh cho rằng bát tự này nên lấy ấn thụ là cách, tuy ông không nói rõ nguyên nhân, nghĩ rằng Mậu Thổ trong chi tháng Dần, vốn là sinh ở ấn thụ của Tân Kim bản thân này, cho nên lấy Canh . Còn về hành vận thì sắp ngược lại. Lại nói lưu niên Đinh Dậu, Tỷ Kiên dụng sự. Dậu thuộc Tân Kim cùng Tân Kim bản thân đều thuộc âm can, cho nên nói là Tỷ Kiên dụng sự. Còn như tuế thương can ngày tức là lưu niên Đinh Hoả Thái Tuế đã khắc thương Tân Kim can ngày. Theo cách nói của sách đoán mệnh, Tuế thương can ngày, không hẳn đại hoạ giáng xuống đầu. Ở đây, Hoàng Tiên Sinh đem lưu niên của Lý Bình Nhi là đại bất cát lợi, nguyên nhân chủ yếu là Kế Đô chiếu mệnh, lại phạm táng Môn Ngũ Quỷ, tai sát quấy nhiễu trong đó trọng điểm là phát huy rất nhiều lý do về Kế Đô chiếu mệnh. Vốn là sách đoán mệnh cho rằng, Kế Đô là một sao trong mười một sao của nhà tinh mệnh học, đối lập với sao La Hạ, 18 ngày đi một độ, 18 năm đi một vòng trời. Khi tròi bình thường ẩn mà không thấy, gặp mặt trời mặt trăng bị xâm thực, cho nên Hoàng Tiên Sinh mới có cách nói: Sao kế đô là sao âm hối, tượng của nó như tơ rối mà không có đầu, biến lạ không bình thường, nên không cát. Trong âm dương, đàn bà thuộc âm, âm nhân lại gặp âm tinh xúi quẩy này, nên chẳng trách gì mệnh của Lý Bình Nhi cuối cùng lại khổ sở như vầy.

Điều thú vị là, trong Hồng Lâu Mộng, cuốn Bách khoa toàn thư của xã hội phong kiến, học thức của tác giả rất rộng, không chỉ biểu hiện luân lý xã hội mà về thơ từ ca phú, chính trị kinh tế, cầm kỳ thi hoạ, văn vật điển cố, phong vị ẩm thực, Nho Phật Đạo học mà còn biểu hiện sâu sắc tam giáo cửu lưu, y tướng số, không gì là không thông suốt, mở hồi 2 của Hồng Lâu Mộng ra xem, thấy nói con “Hoàn Kiều Khả, năm ấy đang hái hoa ngoài cửa sổ, quay lại nhìn Gỉa Vũ Thôn. Chỉ qua cái liếc nhìn tình cờ ấy mà toạ nên một mối lương duyên, đó là việc không hề nghĩ tới. Ai biết được vận mệnh của nó được hai lần trợ giúp, sau khi ở bên Giả Vũ Thôn được một năm thì sinh được một con, lại qua nửa năm bà vợ cả của Vũ Thôn bị bệnh chết, Vũ Thôn lập cô làm chính thất phu nhân. Đúng là: ‘'Chỉ một cái nhìn, trở thành người thượng lưu”.

Trong sách a hoàn Kiều Khả, vận mệnh được hai lần trợ giúp, là nói mệnh cô tốt, vận khí cũng tốt, mệnh là tổng hoà giàu sang hoạ phúc, cùng thông thọ yểu cả một đời người, vận là các cơ may và khí số trong từng giai đoạn khác nhau của cả đời người.

Lại ở hồi 69 của Hồng Lâu Mộng, Vương Hy Phượng mượn kiếm giết người, đem Vưu Nhị Thư dày vo đến mức tay chân không cử động được, không ăn uống được , ngày càng vàng vọt gầy yếu đi. Về sau Vương Hy Phượng mời người đoán mệnh bói quẻ, người đoán mệnh nói, ân nhân tuổi thỏ (mão) bị xung, mọi người đoán ra chỉ có một mình Thu Đồng tuổi thỏ, nên cho rằng cô ta xung, kết quả làm cho Thu Đồng bực quá khóc lóc chửi bới làm cho Vưu Nhị Thư khảng khái nhịn nhục, đã nổi giận đang đêm hôm ấy nuốt vàng tự sát.

Nhưng trong sách đã tốn nhiều bút mực nói về đoán mệnh ở hồi 86 trong phần viết tiếp của Cao Ngạc thấy đoán mệnh đã đoán cho Nguyên Kỷ, trong sách Bảo Thoa nói: không chỉ là bên ngoài dối trá nói ngoa, mà ở trong nhà cũng nói vậy, tôi đã rình nghe được, hai chữ nương nương được nói nhiều, về sau mới rõ. Hai hôm nay bọn a hoàn trong phủ đều nói, bọn chúng đã biết từ trước, nương nương không phải là người của họ. Tôi nói: Bọn bay lấy tin ở đâu mà nói như vậy? Họ nói: tháng giêng mấy năm trước đây, ở tỉnh ngoài có một người đoán mệnh. Nghe nói là đoán rất chuẩn. Lão thái thái cho người đem bát tự của Nguyên Kỷ đem kẹp vào trong bát tự của bọn a hoàn, đưa đến cho ông ta đoán. Ông nói một mình. “Cô gái sinh vào ngày 1 tháng giêng, e rằng sai giờ, nếu không thì là một quý nhân, cũng không thể là người ở trong phủ”.

Lão gia và mọi người nói: không biết cô ấy có sai hay không sai, cứ theo bát tự mà đoán, ông ấy bèn nói: “Năm trong Giáp, tháng giêng Bính Dần, trong bốn chữ này có thương quan, bại tài, duy trong chữ thân có chính quan, lộc mã, như vậy thì trong nhà không nuôi được, cũng chẳng thấy có gì tốt. Ngày là Ất Mão, đầu xuân Mộc vượng, tuy là Tỷ Kiên, nào biết được càng Tỷ càng tốt, giống như loại gỗ tốt, càng qua mài dũa mới thành đồ dùng tốt. Chỉ hỉ là Tân Kim ở giờ là Quý, chính quan trong Tỵ, vượng địa của lộc mã. Đây gọi là “Phi thiên lộc mã cách”. Lại nói là ngày sinh gặp chuyên lộc, vô cùng là quý. Thiên nguyệt nhị đức toạ bản mệnh, quý được sùng ái ở chốn tiêu phòng. Cô gái này nếu giờ sinh đúng, nhất định sẽ là bà chủ phủ. Như vậy chẳng là đoán đúng sao? Chúng tôi còn nhớ câu ông nói: đáng tiếc vinh hoa không lâu, chỉ sợ gặp năm Dần tháng Mão thế thì Tỷ lại thêm Tỷ, kiếp mà lại kiếp, ví như Mộc tốt đem làm đồ chơi thì chất Mộc không cứng nữa, mọi người đã quên mất lời nói ấy. Tôi vừa nghĩ lại, nói với thái thái, năm nay đâu là năm Dần tháng Mão?

Bát tự của Nguyên Kỷ được sắp là:

Năm Giáp Thân Tháng Binh Dần

Ngày Ất Mão Giờ Tân Tỵ

Trụ ngày Ất Mão là mệnh của Nguyên Kỷ, trong ký sinh 12 cung, Mão là lâm quan lộc địa của Ất Mộc, cho nên nói ngày sinh gặp chuyên Mộc, là một mệnh rất tốt. Lại như Tân Kim là quý, sách mệnh cho rằng Tan gặp Dần là thiên ất quý nhân, quý rất nặng, bây giờ can giờ phối hợp với chi tháng thì ứng vào mệnh này “chính quan trong Tỵ, lộc mã độc vượng” là nói, Canh Kim trong Tỵ là chính quan của can ngày ất Mộc, bản thân chi Tỵ lại lâm quan lộc địa của Bính Hoả, hơn nữa chi giờ Tỵ và chi ngày Mão gặp nhau, ứng với mệnh dịch mã khỏi động, cho nên thầy đoán mệnh nói, mệnh của Nguyên Kỷ dù là quý nhân cũng không thể ở trong phủ này. Thế thì không ở trong phủ này, làm thế nào liệu định được lại được sùng ái ở chốn tiêu phòng trong cung? Đó là do nguyên có “thiên nguyệt nhị đức toạ bản mệnh”. Ở đây Bảo Thoa nói thiên nguyệt nhị đức toạ bản mệnh hơi khác với thiên nguyệt nhị đức trong sách nói, xem ra ý là “quy lộc phùng nhị đức vậy”.

Còn vẽ nói “phi thiên lộc mã cách”, trong Hỉ Kỵ thiên nói: nếu gặp thương quan nguyệt kiến, nếu ở vào hung chưa hẳn là hung, trong có đảo lộc phi xung”. Đầu xuân sinh vào ngày Mão, Ất là âm Mộc, quan tinh của nó là Canh Kim, mà Bính Hoả ở tháng lại khắc được Canh Kim, cho nên trở thành thương quan nguyệt kiến. Ngày ất đã được Bình Hoả, lại sinh ở tháng Dần Mộc đầu xuân, Mão Mộc ở chi ngày có thể xung phá Thân Kim nằm trong giờ Tỵ. “Đảo lộc phi xung”, trở thành “phi thiên lộc mã cách”. Bỏ đi những lời trên không nói đến nữa, dù thế nào cũng có thể khẳng định, tác giả đã dùng một số trang giấy, mượn lời Bảo Thoa để phân tích mệnh Lý của thầy đoán mệnh nói, chứng tỏ ông rất thích thú về đoán mệnh, lại có nghiên cứu. Đoạn ở trong sách nói: “đáng tiếc vinh hoa không lâu, chỉ sợ gặp năm Dần tháng Mão thế thì Tỷ lại thêm Tỷ, kiếp mà lại kiếp, ví như Mộc tốt đem làm đồ chơi thì chất Mộc không cứng nữa” càng chứng tỏ tác giả rất giỏi về nghề này.

Có thể thấy, quan niệm của Tào Tuyết cần kết hợp giữa bẩm sinh thụ khí của trời đất sinh ra, kết hợp với hoàn cảnh gia đình, khác với vượng suy chỉ quan niệm con người bẩm thụ khí của trời đất sinh ra mà không đề cập hoàn cảnh gia đình, ông đã có bước tiến bộ lớn vì rằng đã đề cập đến ảnh hưởng do hoàn cảnh gia đình đối vối con người sinh ra, nhưng từ nhận thức tổng thể của Tào Tuyết cần về mệnh lý học mà xét, tư tưởng túc mệnh của ông đã quyết định ông không thể trở thành kẻ phản nghịch triệt để của thuyết thiên mệnh. Dĩ nhiên về điểm này, những độc giả thấu tình đạt lý không thể theo yêu cầu ngày nay mà đòi hỏi quá cao con người Tào Tuyết cần sống trong hoàn cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

Ngoài Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng ra, các tiểu thuyết thời Minh Thanh nói rất nhiều về đoán mệnh mà nổi tiếng nhất là Chuyện làng Nho của Ngô Kính Tân như ở hồi 54 (bệnh giai nhân thanh lâu đoán mệnh, ai danh sĩ kỷ quán hiến thi). Trong chuyện, tác giả qua người mù đánh đàn ba dây mà đoán mệnh cho cô gái ở lầu xanh, và cuộc trò chuyện giữa Trần Mộc Nam với người mù, đã phản ánh trắc diện xu thế đoán mệnh của xã hội lúc bấy giờ rất thịnh và sự hiểu biết về thuật đoán mệnh của tác giả.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán mệnh ở Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng

Khoa Tử-vi đời Tống

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Xem tiếp
Khoa Tử-vi đời Tống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

II.- Khoa Tử-vi đời Tống
    Tống Thái-tổ được truyền khoa Tử-vi bằng bộ Tử-vi chính nghĩa, giữ làm của riêng của hoàng tộc họ Triệu. Bộ sách chỉ được lưu truyền trong hoàng cung để biết kẻ trung, người nịnh, để biết vận số mưu đồ đại sự. Tất cả công trình nghiên cứu của hoàng tộc nhà Tống, sau được chép thành sách gọi là Ngự giám tử-vi. Nhưng khi nhà Tống mất, thì con cháu nhà Tống dùng bộ sách này làm kế sinh nhai, nên không dám dùng tên cũ nữa, mà đổi là Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. So sánh giữa bộ Tử-vi chính nghĩa và bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, thì bộ thứ nhất cố tính chất lý thuyết đaị cương, như những định luật. Bộ thứ nhì có tính chất thực nghiệm, thu góp kinh nghiệm mấy trăm năm nghiên cứu lại. Như bộ thứ nhất không bàn đến việc :

- Hai người sinh cùng ngày, giờ, tháng, năm, nhưng lá số khác nhau. Bộ thứ nhì đi vào chi tiết này rất kỹ.
- Số người sinh đôi. Trong khi bộ thứ nhì nghiên cứu đến mấy trăm cặp sinh đôi.
- Số những người chết tập thể. Như chết chìm đò, chết trong chiến tranh. Bộ thứ nhì lại nghiên cứu kỹ hơn, đưa ra giải quyết v.v...


    Sau đây chúng tôi trình bày một giai thoại về Tử-vi đời Tống, mà hầu như ai cũng biết, và sử Trung-quốc cũng có chép :
    Khi còn cầm quân tranh thiên hạ, Tống Thái-Tổ có người em kết nghĩa tên là Trịnh Ân. Ân là một võ tướng dũng mãnh, tài ba, vợ Ân là Đào Tam Xuân cũng là một nữ tướng.
Cả hai đã giúp cho Thái-tổ thành nghiệp lớn. Thái-tổ phong cho Trịnh Ân tước vương và thay vua trấn thủ ngoài biên trấn. Nhân đầu năm Thái-tổ xem số các tướng sĩ, văn võ quần thần, thấy số Trịnh Ân là Tướng-quân, Thiên-tướng thủ mệnh đại hạn gặp Kình-dương, tiểu hạn Thiên-hình. Lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kị mới nói với quần thần rằng :

   - Trịnh Ân do hai ông tướng thủ mệnh. Tướng sợ nhất kiếm và đao, không sợ Hỏa, Linh, Kiếp, Không. Nay đại hạn ngộ Kình là dao, tiểu hạn ngộ Hình là kiếm. Ta e rằng Ân sẽ bị chém mất đầu. Đã vậy lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kị thì sẽ do kẻ tiểu nhân ám hại. Hơn nữa Kiếp, Kị lại ngộ Hồng, Đào, thì kẻ hại Trịnh Ân sẽ là đàn bà. Triều đình đề nghị gọi Trịnh Ân về triều để được bảo vệ. Bấy giờ Trịnh Ân đương trấn thủ ngoài xa, nghe lệnh triệu hồi về kinh thì tuân theo. Khi đến kinh thấy một toán quân hầu hộ vệ kiệu vua, tiền hô hậu ủng. Ân tưởng Thái-tổ, vội xuống ngựa phủ phục bên đường tung hô vạn tuế. Nhưng khi ngửng đầu lên không phải là vua, mà là cha của một Phi-tần được Thái-tổ sủng ái. Chức tước, địa vị của Trịnh Ân cao hơn nhiều, mà phải lạy phục xuống đất thì nhục quá. Trịnh Ân nổi giận lôi vị Quốc-cữu xuống đất đánh cho một trận về tội tiếm nghi vệ Thiên-tử. Vị Quốc-cửu bị đòn nhừ tử, về nhà báo cho con gái biết, khóc lóc đòi trả thù. Vị phi thấy cha bị đòn đau, trở vào cung phục rượu cho Thái-tổ say mèm, rồi dâng biểu nói Trịnh Ân làm phản đập phá nghi trượng Thiên-tử. Tống thái-tổ say quá không tự chủ được, phê vào chữ Trảm. Thế là Trịnh Ân bị mang ra chém đầu. Khi Thái-tổ tỉnh rượu được triều đình tâu tự sự, thì chỉ còn biết bưng mặt khóc lớn.

    Đào Tam Xuân thay chồng trấn ngoài ải, thấy chồng bị thác oan, Tam Xuân truyền quân sĩ để tang, kéo quân về triều hỏi tội. Các tướng phần bất mãn với việc Thái-tổ giết Trịnh Ân, nên không quyết tâm chiến đấu, hơn nữa không địch nổi Tam Xuân nên thua chạy. Tam Xuân vây kinh thành rất gấp. Triều đình tâu giết thứ phi, giết cả nhà Quốc cửu để tạ tội với Tam Xuân. Nhưng Tam Xuân vẫn không lui binh. Tình hình nguy ngập, Triệu Quang Nghĩa tâu với Tống Thái-tổ (Quang Nghĩa là em Tống Thái-tổ, sau được truyền ngôi vua):

    - Thần xem số Tam Xuân thấy Vũ-khúc, Phá-quân thủ mệnh. Vũ-khúc thì hay giận, Phá-quân thì nhẹ dạ. Tử-vi kinh nói rằng: Chỉ có Lộc-tồn chế được tính ác của Vũ-khúc, Thiên-lương chế được tính điên của Phá-quân. Vậy ở đây có vị văn thần nào Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đề nghị có thể thuyết phục được Tam Xuân.

    Thái-tổ chuẩn tấu, tìm ngay ra vị văn thần có tên Cao Hoài Đức có cách trên, sai ra ngoài thành, thuyết phục Tam Xuân. Quả nhiên Tam Xuân lui binh. Từ đấy trong suốt đời nhà Tống, con cháu họ Trịnh được nối tiếp nhau phong tước.

    Như vậy thì Triệu Quang Nghĩa đã học tới trình độ khá uyên thâm khoa Tử-vi, nên dùng phá cách dữ tợn của Tam Xuân và trợ cách giúp Thái-tổ. Nghiên cứu lá số của Thái-tổ, năm đó đại hạn ngộ Kỵ, tiểu hạn đi vào cung nô, gặp Thiên-thương, Kiếp. Hạn Thiên thương gặp Kiếp, Không thường là hạn bị hàm oan nguy đến tính mệnh. Chính Khổng-tử bị hạn này, bị vây tại nước Trần, hút chết đói. Số của Cao Hoài Đức, ngoài Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đại hạn ngộ Quyền, Khốc, Hư, Xương, Lương, Lộc chỉ chế được Tam Xuân. Nhưng chính Quyền, Khốc, Hư nói Tam Xuân nghe theo, và Văn-xương là sao giải hạn Địa-kiếp vậy.

  1. Thư tịch về khoa Tử Vi
  2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
  3. Khoa Tử Vi đời Tống
  4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
  5. Tử Vi vào Việt Nam
  6. Khoa Tử Vi đời Trần
  7. Khoa Tử Vi đời sau
  8. Dị biệt chính, Nam phái
  9. Kết luận


  10. Quay về | Trở về đầu | Xem tiếp



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khoa Tử-vi đời Tống

Điểm danh 4 chòm sao nhỏ nhen, có thù tất báo

Nhưng nhiều người tâm địa không được rộng mở. không thể chịu thiệt. Chính xác là những chòm sao nhỏ nhen ấy là ai, điểm danh xem nào.
Điểm danh 4 chòm sao nhỏ nhen, có thù tất báo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm người phải rộng lượng, mọi việc phóng khoáng, không cần quá chấp nhặt những chuyện nhỏ, trong lòng cũng đừng tính toán chi li. Nhưng nhiều người tâm địa không được rộng mở như vậy, không thể chịu thiệt, chỉ cần đụng phải họ thì chắc chắn ghi nhớ trong lòng, thừa dịp có thù tất báo. Chính xác là những chòm sao nhỏ nhen ấy là ai, điểm danh xem nào.

Diem danh 4 chom sao nho nhen, co thu tat bao hinh anh
 

Bạch Dương

  Trước đây vẫn thấy Bạch Dương là chòm sao dịu dàng, phóng khoáng nhưng bây giờ mới biết, họ thực sự là chòm sao nhỏ nhen. Nhìn qua tưởng nhiệt tình, không câu nệ tiểu tiết nhưng lại táo bạo và có phần hung hãn, chỉ cần bị chọc phải thì nhất định sẽ không để yên.   Không bao giờ có chuyện cừu trắng bỏ qua cho người đã làm mình khó chịu. Kể cả chỉ là việc vô tình, không hề cố ý nhưng họ cũng ghi nhớ, một mực làm theo ý mình, bất chấp đối phương có thành ý tới mức nào. Như thế này là quá trẻ con, quá ngông cuồng rồi đấy, cẩn thận sẽ làm ra những việc không thể tha thứ được.
Xem thêm bài viết Tuổi Dần cung Bạch Dương: Tài năng và trung thực
 

Sư Tử

  Ai cũng biết Sư Tử là chòm sao rất coi trọng mặt mũi, thích thể hiện, lúc nào cũng muốn có sự xuất hiện hoàn hảo nhất. Nếu người khác làm họ mất mặt, mất sĩ diện thì quả thực là chuyện lớn rồi. Không nuông chiều, không dung túng, không nhân nhượng, tìm cách báo thù thật nhanh để hả lòng hả dạ.   Sư Tử thích được sùng bái, họ coi điều ấy cao cả hơn tất thảy mọi thứ nên có người dám xâm phạm thì cứ chờ mà đợi chòm sao này đi hỏi tội đi. Nhưng cũng có lúc mặt mũi không phải là cái quan trọng nhất đâu Sư Tử, có những người chỉ muốn tốt cho bạn mới góp ý chân thành, thẳng thắn thì bạn cũng ghi hận rồi làm ra những việc chẳng quân tử, đàng hoàng chút nào cả. Như vậy thì có xứng đáng không?
Xem thêm bài viết 10 điều nhất định phải nhớ khi yêu người cung Sư Tử
 

Bảo Bình


Diem danh 4 chom sao nho nhen, co thu tat bao hinh anh
 
Bảo Bảo là chòm sao giống như một làn gió mát, bình thường đối xử với người khác hết sức ôn hòa, nhã nhặn, hiểu ý nhưng tuyệt đối không nên cho rằng họ dễ bắt nạt, có thể xuề xòa bỏ qua mọi chuyện. Thực chất đây là chòm sao nhỏ nhen, không thù dai nhưng rất sòng phảng, luôn ghi nhớ thái độ của mọi người đối với mình.   Ai tốt với họ thì họ tốt lại, ai không tốt với Bảo Bình tuyệt đối không thể sống yên. Có chuyện liền nói, có thù tất báo, đố mới chính xác là phong cách của họ. Thế nên, không ít người bị vẻ bề ngoài dễ dãi, thoải mái của chòm sao này đánh lừa, qua loa với họ rồi phải nhận kết quả đau đớn, Chú ý nhé, ở nhà họ có treo biển “cấm chơi đểu đấy”.
Xem thêm bài viết Bảo Bình - lập dị và dẫn đầu
 

Ma Kết

  Chòm sao mang chủ nghĩa đại nam tử rất mạnh, có tính gia trưởng bất kể là nam hay nữ, nhất định không thể chịu đựng được chuyện người khác ở chốn đông người vạch trần khuyết điểm, điểm chưa tốt của mình. Họ coi trọng tình cảm, người biết điều thì Kết Kết rất quý, người không biết điều, tuyệt đối không dung tha.   Nói họ là chòm sao nhỏ nhen cũng được nhưng đó là nguyên tắc sống của Ma Kết, không thay đổi. thế nên chọc ai thì chọc chứ đừng chọc tới họ nhé. Có thể chỉ vì một câu nói không đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ mà họ sẽ ghi nhớ suốt đời, tuyệt giao quan hệ, làm ra những chuyện khiến người khác phải sợ đấy.   Sống trên đời, nếu có thể nghĩ thoáng được thì thoáng ra một chút nhé, không chỉ cho người khác đường sống mà cũng để bản thân thoải mái hơn. Cứ ghi thù ghi hằn mãi cũng đâu phải chuyện tốt lành gì đúng không nào. Người hiền đức sẽ được ông trời báo đáp, không hiền lành dễ bắt nạt nhưng cũng đừng quá khắt khe thì cuộc sống sẽ ấm áp hơn rất nhiều đấy Bạch Dương, Sư Tử, Bảo Bình, Ma Kết ạ. Những chòm sao khó tính chẳng ai muốn lại gần Gợi ý điểm du lịch lý tưởng cho 12 cung hoàng đạo 5 chòm sao ngốc nghếch, yêu cũng chậm như rùa
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 chòm sao nhỏ nhen, có thù tất báo

Bài trí gà trống –

Bài trí gà trống Theo phong tục truyền thống, gà trống trong bố cục phong thuỷ thường được sử dụng vào các trường hợp sau: 1- Trẻ nhỏ trong bụng nhiều giun sán, khó chịu, biếng ăn, da vàng, cơ thể gầy gò. 2- Bên ngoài cạnh nhà ờ có cột đèn điệ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài trí gà trống

Theo phong tục truyền thống, gà trống trong bố cục phong thuỷ thường được sử dụng vào các trường hợp sau:

IMG_1621-1280x768

1-     Trẻ nhỏ trong bụng nhiều giun sán, khó chịu, biếng ăn, da vàng, cơ thể gầy gò.

2-    Bên ngoài cạnh nhà ờ có cột đèn điện với nhiều sợi dây hình thù giống như loại côn trùng.

3-      Bên ngoài cạnh nhà ở có đường ống nước hình thù giông như con rết.

Những vật hình thù giống loài côn trùng hay giống như hình con rết nói trên chỉ

khi nào chúng đối diện thẳng vào phòng ngủ của trẻ và phòng bếp thì mới cần tìm cách hoá giải.

Những điểm cần chú ý khi dùng gà trống để phá giải:

1-    Mỏ gà phải đặt chiếu thẳng vào vật thể giống như côn trùng hoặc con nhện, như vậy mới có hiệu quả.

2-     Nếu là gà trống bằng sứ có thể chí cần đặt một con là đủ, nếu đặt 2 hoặc 3 con, với bản chất hiếu chiến của gà trống, chúng sẽ đánh nhau và hiệu quả hoá giải sẽ kém.

3-     Gà trống bằng đồng trong bố cục phong thuỷ là loại thường dùng vào hoá giải các trường hợp sát khí gây đào hoa, ngoại tình, chăng hạn dùng cho nhà có bố cục đặc thù mà vì nó dễ làm xâu tính cách phụ nữ hoặc làm cho người trong nhà nảy sinh tính ghen ghét.

Pháp khí này nên đặt bên ngoài ở vị trí đối diện với cứa, ví dụ như đặt trên giá kiểu bình phong, như vậy sẽ ngăn chặn tuyệt đối ảnh hưởng của vận đào hoa vào nhà. Nếu vợ hay chồng nghi ngờ phía bên kia có ngoại tình, có thể dặt pháp khí này vào trong tủ quần áo, khi đặt phải dùng một dôi và dặt vào góc tối của tủ, bên trái một con bên phải một con.

4-    Ngoài một số bố cục có tính đặc thù ra, thông thường, với những người sinh năm mèo thì không nên bài trí gà trống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí gà trống –

Phong thủy khi lắp điều hòa –

Khi lắp điều hòa nếu như kê giường ngủ phía dưới máy điều hòa nhiệt độ, khí âm hoặc khí lạnh mà nó thổi trực tiếp xuống sẽ phá vỡ sự cân bằng vốn có của “khí trường” bao bọc cơ thể… Máy điều hòa nhiệt độ bán phổ biến trên thị trường hiện nay thường c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi lắp điều hòa nếu như kê giường ngủ phía dưới máy điều hòa nhiệt độ, khí âm hoặc khí lạnh mà nó thổi trực tiếp xuống sẽ phá vỡ sự cân bằng vốn có của “khí trường” bao bọc cơ thể…

Máy điều hòa nhiệt độ bán phổ biến trên thị trường hiện nay thường có 2 loại chính: kiểu cửa sổ và kiểu phân ly. Ta đều biết, các đồ điện khí gia dụng khi sử dụng hoặc ít hoặc nhiều đều sản sinh ra sóng điện từ, mà từ trường do sóng điện từ sinh ra ngoài việc gây nhiễu đối với cơ thể ra, thì cửa tống (thổi) gió lạnh của điều hòa và cửa hút khí còn máy thải gió, trong phong thủy truyền thống là thuộc phạm vi “lý khí”.

Lý khí có thể chia làm 2 phạm trù lớn là “Quái vận” và “Quái khí”.”Quái vận” là hiện tượng khí có sau, còn “Quái khí”và thiên tướng tự nhiên có trước (bẩm sinh).

Từ trường do sóng điện từ sinh ra ngoài việc gây nhiễu đối với cơ thể ra, thì cửa tống gió lạnh của điều hòa và cửa hút khí còn máy thải gió, trong phong thủy truyền thống là thuộc phạm vi “lý khí”.

lap-dieu-hoa-theo-phong-thuy1

Khí lạnh do cửa thổi khí của máy điều hòa tống ra là do không khí nóng ngoài trời hút vào qua buồng khí trên qua dàn ống làm lạnh hạ nhiệt độ xuống, rồi thổi ra qua cửa máy phía dưới đẩy vào trong phòng, bởi vậy mà khí này chủ tuần hoàn tư thân của không khí trong phòng, chứ không phải trực tiếp lấy từ không khí tự nhiên ở ngoài phòng, bởi vậy mà không phù hợp với điều kiện lý thuyết “Quái khí” của thiên tướng tự nhiên bẩm sinh.

Kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại cho thấy, ngoài mặt cơ thể người tồn tại một lớp khí trường, nó do một dòng năng lượng do cơ thể sản sinh ra lưu động không ngừng mà hình thành. Dòng năng lượng này đan xen nhau tạo thành “khí” cần thiết cho duy trì sự sống, lớp “khí” này giống như một tấm khôi giáp bảo vệ cho cơ thể. Nếu “khí” này tản mát hết không thể hình thành được lớp bảo vệ, thì cơ thể sẽ bị sự xâm nhập của các nhân tố xấu bên ngoài sinh ra bệnh tật. Khi con người ta bước vào trạng thái nghỉ ngơi và giấc ngủ thì lớp “khí” này suy giảm rất nhiều, cũng có nghĩa là lúc dễ bị tác hại của tà khí từ ngoài vào.

Cũng chính vì loại “lý khí” này của máy điều hòa nhiệt độ dễ phá vỡ trạng thái cân bằng của trường khí bao ngoài cơ thể, bởi vậy bố cục trong phòng ngủ là hết sức quan trọng, nhất là vị trí kê giường lại càng phải chú ý hơn cả.

Nếu như kê giường ngủ phía dưới máy điều hòa nhiệt độ, khí âm hoặc khí lạnh mà nói thổi trưc tiếp xuống sẽ phá vỡ sự cân bằng vốn có của “khí trường” bao bọc cơ thể… 1/3 cuộc đời người qua đi trên giường ngủ, “một đêm nằm bằng một năm ở”, có chiếc giường nằm thoải mái thích hợp có thể giúp bạn chóng hồi phục sức khỏe sau một ngày làm việc mệt nhọc và đảm bảo sức khỏe cơ thể dài lâu, vậy nên giường nằm được nhiều người coi trọng là chuyện dễ hiểu.

Nói chung, nơi thông gió đối lưu thường là chỗ cửa sổ hoặc cửa ra vào, nếu ngồi trong phòng khách đảo mắt đã nhìn ngay thấy giường nằm trong phòng ngủ, khiến phòng ngủ mất cảm giác yên tĩnh, kín đáo, mà đầu giường khi cảm nhận sự đối lưu không khí do sự thông gió này sinh ra, thường phá vỡ “khí trường” cơ thể có tác dụng bảo vệ cho người khi ngủ, sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe không nhỏ, thậm chí có trường hợp “đột tử” với trúng phong. Tại sao giường ngủ không nên đặt phía trước máy điều hòa nhiệt độ, cũng bởi lý lẽ như vậy.

Nếu như kê giường ngủ phía dưới máy điều hòa nhiệt độ, khí âm hoặc khí lạnh mà nói thổi trực tiếp xuống sẽ phá vỡ sự cân bằng vốn có của “khí trường” bao bọc cơ thể, làm cho chức năng trao đổi chất của cơ thể bị ảnh hưởng, khiến khả năng miễn dịch của cơ thể bị giảm xuống, thường dễ dẫn tới chứng cảm cúm hoặc viêm khớp.

Vị trí lắp đặt điều hòa hợp lý chính xác thường là ở mé trái hoặc phải cửa ra vào, hết sức tránh luồng khí do máy điều hòa thổi xuống xộc thẳng vào giường nằm.

Bởi vậy, vị trí lắp đặt máy điều hòa hợp lý chính xác thường là ở mé trái hoặc phải cửa ra vào, hết sức tránh luồng khí do máy điều hòa thổi xuống xộc thẳng vào giường nằm. Ngoài ra, trong nhà còn có ông già bà cả và trẻ nhỏ, bởi khả năng tự điều tiết và khả năng thích ứng với môi trường của người già và trẻ nhỏ tương đối yếu, nhằm tránh đối tượng này mắc bệnh máy điều hòa nhiệt độ, gây hậu quả không hay, nên lắp loại máy điều hòa công suất vừa phải. Vào mùa hè nóng nực cũng không nên dùng máy điều hòa công suất lớn, và chỉ nên mở ở nhiệt độ thích hợp, đủ mát là được.

Có điều, tại các tòa nhà lớn, người ta thường bố trí hệ thống điều hòa trung tâm, bởi đã qua tính toán và thiết kế kỹ lưỡng, sự tống và hút gió của nó được phối trí cẩn thận theo diện tích lập thể lượng khí mới cần thiết, vậy nên chỉ cần bạn điều chỉnh tới nấc gió và nhiệt độ thích hợp đủ mát là được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy khi lắp điều hòa –

Mơ thấy báo chí: Tượng trưng sự bình phẩm của mọi người về mình –

Báo chí là phương tiện truyền tải tin tức, tin tức đăng tải luôn có nội dung thu hút người đọc, nếu mơ thấy tờ báo thì đó là hình ảnh tượng trưng cho sự đánh giá của mọi người về bạn. Mơ thấy đang xem báo, nghĩa là bạn thường xuyên quan tâm đến những
Mơ thấy báo chí: Tượng trưng sự bình phẩm của mọi người về mình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy báo chí: Tượng trưng sự bình phẩm của mọi người về mình –

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại. Những câu nói từ vĩ nhân, thiên tài, người nổi tiếng cho đến người vô danh đã tạo được sức truyền cảm lớn
30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại. Những câu nói từ vĩ nhân, thiên tài, người nổi tiếng cho đến người vô danh đã tạo được sức truyền cảm lớn và ảnh hưởng đến hàng triệu người trên thế giới.

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

1. “Bất cứ ai đã từng làm được điều gì đó quan trọng chắc chắn đều đã trải qua những kỷ luật hà khắc”. – Andrew Hendrixson.

———

2. “Đừng lãng phí thời gian đập đầu vào tường với hy vọng biến nó thành một cánh cửa”. – Coco Chanel.

———-

3. “Sáng tạo chính là để trí thông minh rong chơi”. – Albert Einstein.

———-

4. “Lạc quan là một trong những phẩm chất tốt để gắn kết thành công và hạnh phúc hơn mọi thứ khác”. – Brian Tracy.

———-

5. “Hãy luôn mở to đôi mắt. Hãy quan sát khắp mọi thứ xung quanh. Bởi vì bất kỳ điều gì bạn thấy đều có thể truyền cảm hứng cho bạn”. – Grace Coddington.

6. “Những gì bạn có được sau khi đạt mục tiêu không quan trọng bằng bạn trở thành người thế nào sau khi đạt được điều đó”. – Henry David Thoreau.

7. “Nếu kế hoạch đề ra không hiệu quả, hãy thay bằng một kế hoạch khác, đừng bao giờ thay đổi mục tiêu”. – Author Unknown.

8. “Tôi hạ gục đối thủ của mình bằng cách kết bạn với họ”. – Abraham Lincoln.

9. “Đừng sống cùng một năm đến 75 lần và gọi đó là cuộc đời”. – Robin Sharma.

10. “Bạn không thể cứu sống người khác, bạn chỉ có thể yêu thương họ”. – Anaïs Nin.

11. “Trời đã không mưa khi Noah dựng nên con tàu”. Howard Ruff.

12. “Hãy ước mơ một cách nghiêm túc”. – Author Unknown.

13. “Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc. Hạnh phúc chính là một con đường”. – Thích Nhất Hạnh.

14. “Kiềm chế sự giận dữ giống như khi bạn uống thuốc độc và hy vọng người khác phải chết”.

15. “Những nhà vô địch không bao giờ ngừng chơi cho đến khi họ đạt được đúng nghĩa của từ vô địch”. – Billie Jean King.

16. “Bạn sẽ thành công thôi, bởi vì hầu hết mọi người đều rất lười”. – Shahir Zag.

17. “Thiên tài là 1% cảm hứng và 99% mồ hôi”. – Thomas Edison.

18. “Một môi trường yên bình là một nơi rất đẹp, nhưng chẳng có gì có thể phát triển được ở đó cả”. – Author Unknown.

19. “Bạn cần phải thay đổi theo cách bạn muốn để khám phá thế giới”.- Mahatma Gandhi.

20. “Kìm nén nỗi đau một thời gian chỉ khiến bạn đau hơn cho đến khi bạn thực sự cảm nhận được nó”. – Albus Dumbledore.

21. “Hãy làm mọi thứ với niềm đam mê hoặc không cần làm gì cả”. — Rosa Nouchette Carey.

22. “Nếu bạn muốn sống hạnh phúc, hãy buộc nó với một mục tiêu nhất định, không phải với người nào đó hay điều gì khác”. – Albert Einstein.

23. “Cỏ sẽ xanh hơn nếu như bạn tưới nước cho nó hàng ngày”. – Neil Barringham.

24. “Không bao giờ được từ bỏ ước mơ chỉ vì mất quá nhiều thời gian để thực hiện. Dù sao thì thời gian cũng sẽ trôi đi mà thôi”. – Earl Nightingale.

25. “Thay vì tự hỏi sẽ đi đâu trong kỳ nghỉ tiếp theo, có lẽ bạn nên tự tạo cho mình một cuộc sống mà bạn không cần phải chạy trốn”. – Seth Godin.

26. “Nếu có điều gì đó khiến bạn sợ hãi, đó cũng có thể là điều rất đáng để trải nghiệm”. – Seth Godin.

27. “Đôi khi bạn chiến thắng nhưng đôi khi bạn cũng cần phải học hỏi”. – John Maxwell.

28. “Đừng bao giờ cảm thấy có lỗi khi có một lối sống xa hoa. Những ai thực sự muốn có cuộc sống như bạn sẽ phải phấn đấu để đạt được nó”. – Ziad K. Abdelnour.

29. “Tôi chưa bao giờ mơ tưởng về sự thành công. Tôi chỉ làm việc để đạt được nó”. – Estee Lauder.

30. “Trốn tránh thất bại nghĩa là là bạn đang bỏ qua sự tiến bộ”. – Unknown Author.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

Cắm hoa ngày Tết mang lại may mắn –

Ai cũng thích hoa nhưng trưng bày một đóa hoa như thế nào cho hợp phong thủy đem lại may mắn cho gia chủ là điều không phải dễ dàng, nhưng cũng không phải quá khó khăn để không thực hiện được. Cùng ## tìm hiểu về kiến thức phong thủy và
Cắm hoa ngày Tết mang lại may mắn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

iXycjouNosSEd Cắm hoa ngày Tết mang lại may mắn

khám phá xem cắm hoa ngày Tết mang lại may mắn như thế nào nhé!

Hoa thật

Hoa tươi ngoài tác dụng của màu sắc tô thắm nhà cửa mang lại hương thơm. Theo khoa phong thủy hoa tươi luôn luôn tạo ra sinh khí, vì thế một căn nhà càng chưng nhiều hoa tươi thì càng có nhiều sinh khí tốt đẹp. Một điều cần lưu ý khi hoa bắt đầu tàn úa là lúc tạo nên nhiều sa khí hay mùi hôi thúi. Vì thế khi hoa bắt đầu có dấu hiệu úa tàn thì phải thay bỏ ngay, để lâu sẽ phá hỏng bầu không khí của gia đình.

Hoa trong chậu: mang lại nhiều sinh khí nhất, lâu tàn nhưng phải có sự chăm sóc đặc biệt để cây được sinh trưởng trong không gian, hạn chế về mặt ánh sáng và ẩm độ.

Hoa cắt cắm trong bình: nhiều màu sắc, đa dạng, có thể cắm hoa theo từng chủ đề riêng biệt, mang lại nhiều sinh khí, ít chăm sóc nhưng đời sống ngắn ngủi thường chỉ trong 2-3 ngày.

Hoa giả

Hoa giả hay tranh vẽ hoa, không tạo nên sinh khí, cũng như không có hương thơm. Thế nhưng màu sắc phong phú đa dạng, có thể chưng bày nhiều thể loại, chủ đề, và dễ dàng đổi thay theo cảm hứng của người chơi hoa. Ngoài ra được tiện nghi là không phải tốn công chăm sóc nhưng lại giữ được màu sắc bền lâu.

Tóm lại tùy theo hoàn cảnh của mỗi người để chọn loại hoa thích hợp.

Chủng loại: Theo khoa phong thủy hoa có thể tác động đến phong thủy tùy theo bản thân của hoa cũng như tên gọi của nó.

Bản thân của hoa: Tùy theo tác dụng của mỗi loại hoa mà sử dụng đúng theo phong thủy. Ví dụ như hoa đào thường đem lại sự phong phú về tình cảm, vật chất nam nữ cho người trong gia đình, nhất là khi đặt đúng phương vị của nó đó là phương đông vì thế có câu Ðông đào Tây liễu.

Những căn nhà đông nữ giới không nên chưng hoa đào tại cửa chính nằm tại vị trí hướng đông. Hoa Xương rồng có tác dụng trừ tà thì không nên chưng trong nhà sẽ gây cảnh xào xáo nghi kỵ lẫn nhau, không khí gia đình thường nặng nề khó thở.

Ý nghĩa từ tên gọi: Tên hoa cũng có ảnh hưởng mạnh đến phong thủy, đa số tên hoa thường mang ý nghĩa đẹp thế nhưng cũng có một vài loài hoa có tên gọi không mấy tốt nên khi sử dụng cần phải thận trong cân nhắc.

Ví dụ: một gia đình hạnh phúc thì không nên chưng loại hoa mang tên chia lìa hay giã biệt như là hoa Mẫu đơn, forget me not, hay hoa violet, hoa sầu đông. Một cơ sở đang phát triển không nên chưng những loại hoa mang tên yếu đuối hay biếng nhác hay kém may mắn chẳng hạn như hoa lan Thiếu nữ say giấc nồng, hoa chuối. Người đau ốm mà chưng hoa lan mang tên Vũ nữ thân gầy thì cũng không tốt.

Màu sắc: Hoa thường mang lại nhiều màu sắc tươi mát phong phú, và nhiều người đã đặt biệt gắn cho mỗi màu sắc một ý nghĩa khác như chẳng hạn như:

Màu trắng: Nói lên sự tinh khiết trong trắng nhiều tương lai. Xanh nước biển: Nguồn hy vọng vô tận. Ðỏ: Chiến chắn vinh quang, sự thành công. Vàng: Quý phái trưởng giả. Tím: Buồn sâu kín khó tỏ bày cùng ai, chung thủy. Hồng: tươi đẹp, cuộc đời đang lên hương.

Thế nhưng đứng về mặt phong thủy màu sắc được phân loại theo ngũ hành tương sinh như sau:

Màu Ðỏ: thuộc hành hỏa thích hợp cho người mạng hỏa hay mạng thổ. Ðen: thuộc hành thủy chỉ thích hợp cho người mạng mộc hay mạng thủy. Lục: thuộc hành mộc thích hợp cho người mạng hỏa hay mạng mộc Trắng: thuộc hành kim thích hợp cho người mạng kim hay mạng thủy. Vàng thuộc hành thổ thích hợp cho người mạng thổ hay mạng kim.

Ngoài ra những màu sắc khác muốn định hành của nó nên có sự so sánh với những màu sắc căn bản trên để đi đến quyết định hành của nó. Các bạn có thể xem thêm bài này để tìm hiểu thêm về sắc màu tương sinh – tương khắc.

Khi chưng hoa phối hợp màu sắc theo ngũ hành cũng lại điều tốt lành đầu năm.

Ngày nay cắm hoa đã trở thành một nghệ thuật lớn, tùy theo ý thích và cảm hứng của người cắm hoa mà tạo nên những bình hoa mang chủ đề và phong thái khác nhau. Thế nhưng nếu chưng hoa trong những ngày đầu xuân thì không nên chưng những chậu hoa mang chủ đề có ý nghĩa đợi trông, u buồn, xa vắng. Nên chưng những châu hoa mang ý nghĩa phúc lộc hay may mắn thì thích hợp hơn. Ngoài ra trong cùng một chậu hoa cũng không nên có hoa với nhiều màu sắc xung khắc nhau như đã trình bày trên.

Phương hướng

Khoa phong thủy rất chú trọng đến phương hướng và mỗi phương hướng biểu tượng cho một người trong gia đình hay một lãnh vực của cuộc sống, lại mang một hành khác nhau, nếu ta chưng hoa thích hợp cho một hướng sẽ tác động lên các lãnh vực này được hưng thịnh thêm.

Ví dụ:

Phương Ðông: thuộc về Gia đạo, ứng với con trai trưởng. Hành mộc do vậy thích hợp để chưng hoa màu xanh, tím đen hay màu lục.

Phương Bắc: cung Quan lộc, danh vọng, ứng với con trai giữa thuộc hành thủy thích hợp để đặt bông màu trắng, xanh dương hay đen. Phương Nam: Ðịa vị và danh vọng, con gái giữa thuộc hỏa thích hợp những bông hoa màu đỏ hay màu xanh lá cây.

Phương Tây: cung tử tức con gái út, Hành kim thích hợp để chưng hoa trắng hay vàng.

Phương Ðông Nam: cung tài lộc , con gái lớn thuộc hành mộc thích hợp với bông màu tím, màu xanh lá cây màu xanh nước biển.

Phương Ðông Bắc: Kiến thức học vấn, con trai út thuộc hành thổ thích hợp để chưng hoa đỏ hay vàng.

Phương Tây Nam: Tình duyên và hôn nhân, ứng người mẹ, hành thổ thích hợp chưng hoa màu đỏ hay vàng.

Phương Tây Bắc: quý nhơn, người cha thuộc hành kim thích hợp với bông hoa màu trắng, vàng.

Vị trí trưng bày

Vị trí chưng hoa là một trong những yếu tố quan trọng đem lại nhiều ảnh hưởng về phong thủy trong gia đình. Vì thế nên phải theo nhưng nguyên tắc như sau:

Phòng ăn hướng nội: có nghĩa là phòng ăn là nơi chốn riêng tư sum họp hạnh phúc gia đình, nên chưng những hoa lá vui tươi, hương thơm nhẹ nhàng mang ý nghĩ tình yêu hạnh phúc như hoa hồng, lan huệ cúc, không nên chưng những loại hoa mang ý nghĩa sầu nhớ hay màu sắc ảm đạm gây chứng khó tiêu, biếng ăn, không khí gia đình tẻ nhạt như hoa, sầu đông, pensée, violet, forget me not, hay những chậu hoa mang chủ đề đợi mong, hoài vọng như là Vọng phu thê, Sân ga một mình, Ðổ bóng đường chiều.

Phòng khách hướng ngoại: thường được chưng hoa theo nghệ thuật nói lên trình độ văn hóa thưởng thức hoa của gia chủ.

Ngoài ra thể hiện được ước vọng, hay tâm tình của chủ nhà qua chủ đề cắm hoa nhằm thu hút được khách đến nhà theo nhu cầu của gia đình đó là điều thành công theo khoa phong thủy. Cắm hoa ở phòng khách cần có tầm nhìn mở rộng phóng khoáng không bị hạn hẹp gò bó theo hành của người gia chủ, do vậy không gây sự nhàm chán đơn điệu, trong việc trang trí nhà cửa.

Phòng ngủ có nên trưng hoa không?

Ðứng về mặt vệ sinh phòng ngủ không nên chưng hoa tươi, vì hoa tươi trong quá trình sinh hóa có thể đem lại hơi nước hay thán khí, trong khi phòng ngủ thường đóng kín đó là một điều không thích hợp. Vì thế chỉ nên chưng hoa giả hay tranh vẽ hoa trong phòng ngủ chứ không nên chưng hoa tươi. Phòng ngủ là nơi sinh hoạt riêng tư của người sử dụng nên đặc biệt khi chưng hoa phải có màu sắc tương sinh hay sinh nhập với người ở trong phòng.

Phòng ngủ của hai vợ chồng, có thể sử dụng màu sắc của hoa lá nhằm tác động hóa giả xung khác hành bản mệnh của hai vợ chồng cũng là điều nên làm.

Ví dụ:

Vợ mang thủy xung khắc với chồng mạng hỏa hay trái lại thì nên chưng hoa màu xanh lá cây. Vợ chồng mạng hỏa khắc mạng kim thì nên chưng hoa vàng. Nếu vợ chồng mạng thổ khắc mạng thủy thì nên chưng hoa trắng. Vợ chồng mạng mộc khắc mạng thổ thì nên chưng hoa đỏ. Vợ chồng mạng kim khắc mạng mộc thì nên chưng hoa màu xanh nước biển.

Phòng học của con cái có nên cắm hoa không?

Phòng học là nơi cần tập trung ý chí để học hành, vì thế nếu cắm hoa sặc sỡ vui mắt sẽ dễ gây xao lãng việc học của con cái. Cũng không nên chưng những loại hoa gây cảm giác u buồn sợ hãi hay trống vắng, nhớ nhung tạo hoàn cảnh con cái sớm thoát ly gia đình như là hoa sầu đông, hoa bâng khuâng (xuất phát từ Nam Mỹ mọc lan ra nhiều vùng, có màu xanh), nhỏ) hoa tigon, hoa Thiên Lý.

Ðặc biệt, khi con đến tuổi trưởng thành lại càng chú ý không nên chưng những hoa mang ý nghĩa tình yêu, gợi nhớ thương hay gây sự hưng phấn tình dục như hoa đào, hoa hồng, violet, dâm bụt, dạ lý hương. Những loại hoa hướng dương, mẫu đơn, giò phong lan nhẹ nhàng rất thích hợp cho phòng học trẻ em.

Hóa giải khuyết điểm căn nhà. Trong căn nhà đôi lúc có những góc cạnh vô tình gây nên những mũi tên độc tác hại đến gia đình, ngoài biện pháp gắn kiếng nhằm biếng mất góc cạnh này, thế nhưng có những vị trí không thể gắn kiếng thì đặt những chậu hoa lớn cũng có tác dụng hóa giải phong thủy. Nếu có gắn thêm kiếng thì căn nhà đầy bông hoa cũng tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cắm hoa ngày Tết mang lại may mắn –

Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là có thật?

Phật giáo tu hành có thể coi là một dạng trị liệu tâm lý hay không? Cùng Lịch ngày Tốt xét tới tác dụng chữa bệnh của Phật giáo.
Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là có thật?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo tu hành có thể coi là một dạng trị liệu tâm lý hay không? Câu hỏi này chắc chắn là tâm điểm chú ý của nhiều người bởi không ít người tìm đến tâm linh như một liệu pháp chữa trị các vết thương tinh thần, tìm lại niềm vui cuộc sống. Cùng xét tới tác dụng chữa bệnh của Phật giáo.

phat giao chua benh
 

Tôn giáo là “thuốc” của tâm hồn, quan điểm này đã được nhiều nhà Triết học ghi nhận và chứng minh bằng lý thuyết thực tiễn. Giống như cơ thể, muốn hồi phục cần có liệu pháp, tinh thần cần có con đường của riêng mình.
  Phật giáo hình thành từ thế kỉ thứ 6 TCN, trải qua hàng ngàn năm phát triển đã trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới với hệ thống tư tưởng sâu sắc, rộng lớn. Trong Phật giáo không chỉ có niềm tin tâm linh, hệ thống Phật pháp, kinh sách mà còn có triết lý cuộc sống, kinh nghiệm cuộc đời, con đường tĩnh tâm. Vì thế mà tác dụng chữa bệnh của Phật giáo được không ít người thừa nhận.   Lý luận cơ bản nhất của Phật giáo là nội dung nhân quả luân hồi, ngũ giới thập thiện, tích cực hướng thiện, hài hòa thế tục và duy trì thân thể khỏe mạnh. Phật giáo phản đối quan niệm số mệnh, khổ hạnh, tế tự, thần định mà nhấn mạnh rằng hoàn cảnh của bản thân do nghiệp lực chính mình tạo ra. Có thể thông qua sám hối, bố thí, tu hành tạo thiện hạnh để thay đổi.   Không ít nhà nghiên cứu tâm lý, nghiên cứu xã hội học đã tìm hiểu về vấn đề tác dụng chữa bệnh của Phật giáo, một số quan điểm chính như sau.   1. Phật giáo giúp con người minh xét sự vật, hiểu rõ bản thân và nhận thức hiện thực. Họ có thể lý giải động cơ, hoàn cảnh và thậm chí cả tương lai thông qua triết lý Phật giáo, từ đó buông bỏ khổ não, buồn khiền, định hướng tốt hơn cho cuộc sống. Một người hiểu rõ chính mình thì giải quyết vấn đề cũng dễ dàng hơn.   2. Phật giáo mặc dù có yếu tố tín ngưỡng nhưng đặc điểm lớn nhất là đặt “Người” ở trung tâm, không giống như các tôn giáo khác đặt “Thần” ở trung tâm. Một mặt, Phật giáo phản đối mê tín, phản đối sùng bái quỷ thần mù quáng , thừ nhận tiềm năng vô hạn của con người.    Mặt khác, Phật giáo có quan niệm vô thường, vô ngã khiến người ta càng tỉnh táo nhận ra giá trị tồn tại của bản thân, càng thêm quý trọng sinh mạng, không bao giờ tìm đến cái chết và có thể hướng tới cuộc sống an nhiên ngay lập tức. Phật giáo lấy sám hối, hành giới, bố thí, phát tâm bồ đề là nội dung tu hành, khơi gợi lòng trắc ẩn, hướng thiện trong mỗi con người   3. Phật giáo lấy “sinh tử” là ý nghĩa tu hành chính nhằm giải quyết các câu hỏi “Ta là ai?”, “Ta sinh ra từ đâu?”, “Ta chết đi sẽ hướng về đâu?”, đây là vấn đề căn bản nhất của nhân sinh. Nhìn thẳng và giải quyết triệt để vấn đề này là một trong những phương pháp chữa bệnh của Phật giáo, đương nhiên là chữa bệnh về mặt tinh thần.   Nhận thức được sự tồn tài của chính mình, có câu trả lời về bản thân, về nguồn gốc và tương lai sẽ giúp mỗi người không bỡ ngỡ, không lạc lối trước quá nhiều cám dỗ của đời sống. Đây là một trong những nguyên tắc cốt lõi của phương pháp trị liệu tinh thần hiện đại: tăng tính tự giác giúp con người đối diện với ngoại cảnh một cách tích cực nhất. 
phat giao chua benh 2
 
Phật giáo tu hành đánh vỡ sự vô minh, loại bỏ chấp niệm trong lòng, làm thanh sạch ý thức nên gia tăng sự trân quý sinh mạng, đề cao lợi ích của chúng sinh, cuối cùng đạt tới cấp độ Niết Bàn. Nhờ vậy có thể coi tu Phật là một hình thức chữa bệnh tinh thần.   4. Tu Phật là một trải nghiệm cá nhân, không mang tính tập thể dù cộng đồng Phật tử rất đông. Mỗi người có con đường tới với Phật pháp và cách tu hành riêng, cảm giác riêng, không ai giống ai, càng không ai có thể định hướng cho ai, chỉ có thể cùng nhau trao đổi, truyền thụ kinh nghiệm và tìm ra lối đi cho mình.    Trong kinh Phật hướng con người tới thiện tu, giáo lý sâu rộng, phương pháp phong phú mà lại không khó thực hiện nên dễ quy tụ được lòng người. Tĩnh tọa, thiền định là cấp bậc cao của tu hành, đòi hỏi sự thanh lọc trong tâm hồn và chấn chỉnh tư tưởng một cách nghiêm cẩn.    5. Phật giáo cho rằng, có 4 phương pháp giáo dục chúng sinh, theo thứ tự là: thế giới tất đàn, mọi người tất đàn, đối trị tất đàn, đại nghĩa tất đàn. 4 phương pháp này xem xét ở 4 góc độ, có liên quan tới trị liệu tâm lý.   Thứ nhất, thế giới tất đàn, thế gian xem tất cả sự vật đều là nhân duyên, các sự kiện dựa vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau tạo ra kết quả mà trong đó yếu tố then chốt là “tâm” hay nói cách khác là tinh thần. Chúng sinh khẩn cầu hợp với nguyện lực và công đức của Phật Bồ Tát mới phát huy tác dụng, dù Phật Bồ Tát thần thông quảng đại đến đâu cũng cần có tiền đề là ý nguyện của chúng sinh.    Thế mới có câu "Phật không độ người không có duyên. Như vậy tức là mọi việc đều xuất phát từ mong muốn, tinh thần của mỗi cá nhân. Nội tâm mạnh mẽ, ắt mọi sự thành, nội tâm yếu đuối, không thể thành công. Xem thêm bài viết Triết lý Phật giáo nâng bước thành công   Thứ hai, mọi người tất đàn, chúng sinh không có căn cơ đồng nhất, mỗi người có con đường riêng, sức mạnh riêng, có người thành Phật, Bồ Tát, có người thành Phật tử. Vì thé không cầu người chỉ cầu mình, không nhìn người, chỉ nhìn mình.   Thứ ba, đối trị tất đàn, vô minh – không minh mẫn, sáng suốt là nguồn cơn của tất cả các loại bệnh. Để chữa bệnh, cần phải có trí tuệ. Niệm Phật, bái Phật, đọc kinh, sám hối, nguyện đều là các loại "thuốc", chữa trị những muộn phiền trong lòng chúng sinh, khiến bản thân tự biết tâm mình, thanh lọc tâm mình, thu được hạnh phúc vui sướng.    Phật giáo cho rằng, lòng người bất đồng, phương thức tu hành tự nhiên cũng có điều biến hóa. Đây được coi là một liệu pháp thích ứng về tinh thần, thuận theo tự nhiên và hướng tinh thần vào khuôn khổ nhưng không thúc ép. Khi tinh thần sáng suốt, có trí tuệ, tự khắc phân biệt được đúng sai tốt xấu.   Thứ tư, đại nghĩa tất đàn, mục đích cuối cùng của giáo dục là thấy được chân tướng của mọi chuyện, hướng tới Niết Bàn giải thoát. Phật giáo không hướng con người tới sự sùng bái mù quáng, cúng bái mê muội, lợi dụng lòng tin mà muốn hướng lòng tin đó tới sự chân thật, coi như đó là tác dụng chữa bệnh của Phật giáo, bệnh về tinh thần.   “Tín ngưỡng chân chính không phải sinh ra từ sự tin tưởng mà hình thành từ sự chân thật”. Chỉ có sự thật mới trường tồn và phát triển cùng với thời gian. Bởi thế, sự khách quan, công bằng chính là một trong những lý do quan trọng để Phật giáo trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới, quy tụ hàng triệu tín đồ mộ đạo.   Bất cứ ai cũng có thể vận dụng phương pháp chữa bệnh bằng Phật giáo bởi ai sinh ra trên đời chẳng có “tâm bệnh”. Lo buồn khổ sở vì trăm thứ chuyện khiến tinh thần mệt mỏi, tìm đến Phật giáo có thể coi là một hình thức dưỡng tâm khá tốt, Lời Phật dạy về chữ tâm - có tâm ắt hưởng phúc lành, có nhiều lợi ích mà không nặng nề
phat giao chua benh 1
 
Hiện nay, người không theo đạo Phật nhưng tin tưởng theo con đường dưỡng sinh dưỡng tâm của Phật giáo không hề ít. Cụ thể, có một số hình thức mà bạn đọc có thể áp dụng như sau:   1. Ăn chay – dưỡng sinh và dưỡng tâm, tránh sát sinh theo quan điểm Phật giáo và tốt cho sức khỏe theo quan điểm khoa học.   2. Nghiên cứu giáo lý nhà Phật – một hình thức khai mở trí tuệ, tiếp thu kiến thức Triết học và đúc rút kinh nghiệm về cuộc sống.   3. Tụng kinh niệm Phật – thói quen điều hướng tinh thần tới điều thiện, có chỗ dựa về tinh thần, có mong mỏi về chuyện tốt đẹp.   4. Làm việc thiện – hành động cụ thể để tinh thần thoải mái, không hành ác không sợ hãi. Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là chữa bệnh về tâm, nên hiểu theo hướng này để vận dụng tôn giáo một cách đúng đắn, không mê tín dị đoan, không mù quáng thiển cận, như vậy mới đích thực là hướng Phật thành tâm.
3 nguyên tắc cơ bản của Phật giáo giúp tu 3 giờ hiệu quả như 3 năm Vì sao Đức Phật, Bồ Tát ngồi trên hoa sen mà không phải loài hoa khác? Lịch Phật hàng năm - những ngày lễ lớn kính ngưỡng Phật, Bồ Tát
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là có thật?

THUYẾT NGOẠI CẢNH TRONG DỰ ĐOÁN

Có nhiều các thầy số sử dụng thuyết ngoại cảnh, hoặc linh cảm, nhân điện...để dự đoán vận mệnh. Xưa Quỷ Cốc Tử cho hai học trò Tôn Tẫn và Bàng Quyên xuống núi, cũng bảo hai ông đi lấy hai bông hoa về để dự đoán. Câu chuyện dưới đây, cũng là một trường hợp về ngoại cảnh và dự đoán học
THUYẾT NGOẠI CẢNH TRONG DỰ ĐOÁN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Có một thầy bói hành nghề lang thang. Ông đi khắp nơi trên đất nước để hành nghề, mưu sinh độ nhật qua ngày. Vào một ngày nọ, ông dừng lại ở một ngã ba đường ngoài thị trấn để dự đoán cho người khác và ở đây mọi việc lý thú đã xảy ra.

    Phương pháp dự đoán của vị tiên sinh này cũng rất khác lạ. Khách hàng tới xem chỉ cần vẽ một hình bất kỳ tùy thích. Ngã ba đường ngoại ô thị trấn cũng là nơi các thương nhân qua lại rất đông để kinh doanh, buôn bán. Người vào thị trấn bán hàng, kẻ thì mang các sản vật từ thị trấn sang những khu vực khác để bán kiếm lời.

    Có hai người khách buôn cùng tới xin quẻ, người thứ nhất bói trước, ông này vẽ hình một con chuột, thầy bói suy nghĩ một chút rồi quả quyết rằng: “Chuyến này ông đi buôn phát tài to”. Tuy chưa biết lời lãi ra sao, nhưng nghe thầy đoán thế, vị khách này lòng đầy phấn chấn, gửi một khoản tiền lễ thầy rồi lên hăm hở lên đường.

   Vị khách thứ hai trong khi chờ được thấy được tình huống đó. Đến lượt mình, ông này cũng vẽ một con chuột rồi đưa cho thầy nhờ luận quẻ. Sau khi xem xét kỹ lưỡng một lát, rồi đoán rằng : “ Vụ này không khéo ông toi đời”. Vị khách hàng này quá ngạc nhiên, có phần hơi bức xúc hỏi: “Tại sao ông trước cũng vẽ một con chuột mà ông đoán là phát tài. Tôi cũng vẽ một con chuột mà ông lại đoán là nguy hiểm ???”. Không những vậy, ông này còn vùng vằng, phẫn nộ bỏ đi, cho là thầy nói bậy. Vị tiên sinh đó chỉ cười mát, không nói thêm gì…

    Chuyện diễn ra vào sáng sớm, từ cuối giờ Dần, đến giờ Mùi, vị khách thứ hai hớt hải chạy về ngã ba đường ngoài thị trấn, sau mấy tiếng đi đường, ông có vẻ mệt mỏi phờ phạc, áo quần xốc xếch và hiện rõ trên khuôn mặt là sự sợ hãi, mặt không còn một giọt máu. Gặp vị thầy bói nọ, ông thốt lên rằng:

  • Thầy đoán đúng quá, trên đường đi buôn tôi gặp một toán cướp, may mà bỏ hết của cải, bỏ chạy thoát thân, không thì tính mạng chẳng còn.

     Ông này xin thầy giải thích về chuyện hai người cùng vẽ một con vật, mà sự việc xảy ra lại khác nhau…? Thầy bói nhẹ nhàng phân tích:

  • Khi anh kia vẽ con chuột, tôi thấy một người đi buôn gạo chuyển hàng qua. Có một con chuột, mà ngần ấy gạo thì đương nhiên dư thừa no đủ và phát tài rồi. Còn khi ông vẽ con chuột thì vừa lúc có người gánh một chiếc sọt trong có một đàn mèo. Một con chuột của ông mà gặp đàn mèo kia, thì đương nhiên là sát khí quá nặng, giữ được tính mạng là may mắn đó !

    Vị khách buôn nọ phục là cao kiến rồi từ biệt thầy bói nọ.

    Mới hay, vạn vật có thể và có khí, có số ắt có tượng, có tượng ắt có vật. Có biểu hiện, triệu chứng thì sự việc có khả năng xảy ra. Thầy số nọ dùng thuyết ngoại cảnh để dự đoán cho người khác, ắt tâm đã trong không chút bụi gợn, trí sáng suốt, đánh giá vạn sự thật khách quan, đúng đắn. “Thiên nhân tương dữ”, dựa vào sự quan sát phân tích tỉ mỷ, những biểu hiện bên ngoài mà suy luận được bản chất bên trong, sự biến đổi tinh vi của vạn vật, vũ trụ mà dự đoán được suy – thịnh, cát – hung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: THUYẾT NGOẠI CẢNH TRONG DỰ ĐOÁN

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd