Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân

Một bài viết hay về kinh nghiệm của Tử Vân cho việc giải lá số Tử Vi. Mời các bạn tham khảo.
Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết chép lại của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

Phần 1: An sao của phái Tử Vân

Phép lập lá số tử vi đẩu số thủ công

1. Xét duyệt lại ngày sinh và giờ sinh.

a. Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc rất rộng lớn, đối với ngày giờ sinh ở những địa phương không thuộc Trung Nguyên, phương pháp là dùng ngày giờ âm lịch của địa phương nơi sinh ra.

b. Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, Quảng Châu là 113 độ kinh đông; mỗi độ 4 phút đồng hồ, như vậy người sinh ở Quảng Châu vào lúc 14h00, hoán chuyển thành thời gian Bắc Kinh thành ra 13h32'.

c. Theo Tử Vân tiên sinh nói, rất ít người sinh ra mà được đối chiếu chỉnh sửa ngày giờ cho chính xác, rõ hơn xin xem trong sách "Đẩu Số luận huynh đệ".

2. Vấn đề tháng Nhuận.

Tháng Nhuận đại thể lấy cùng tháng đó mà bài bố an sao, như tháng 10 Nhuận thì dựa vào tháng 10 mà bài bố; ngoai ra cứ phỏng theo như thế.

3. Định ngũ hành Dần thủ

Giáp Kỷ <Bính>; Ất Canh <Mậu>; Bính Tân <Canh>; Đinh Nhâm <Nhâm>; Mậu Quý <Giáp>.

4. An Mệnh Thân cung

Dần cung khởi tháng Giêng, đếm nghịch đến tháng sinh "Mệnh"; đếm thuận đến tháng sinh "Thân" (QNB chú: chắc ghi nhầm nhầm lẫn thuận với nghịch, tháng với giờ - tôi dịch nguyên văn.). An xong xuôi Mệnh Thân cung rồi sau đó có thể bài bố các cung vị khác.

5. Định ngũ hành Cục cùng với khởi Đại Hạn

Lấy Thiên Can Địa Chi của vị trí sở tại của Mệnh cung để tìm ra Ngũ hành Cục.

Ngũ hành Cục có tác dụng để khởi Đại Hạn: Dương nam âm nữ thuận đáo; âm nam dương nữ nghịch hành.

6. Định sao Tử Vi và Thiên Phủ

Định sao Tử Vi: phương pháp căn cứ vào ngày sinh chia cho số cục của ngũ hành cục.

[Ngũ hành cục số] ÷ [số ngày sinh] = thương số

6.1 Nếu chia chẵn, thì thương số tức là vị trí tọa lạc của sao Tử Vi. Như sinh ngày 27, Mộc tam Cục, thì thương số là 9, từ cung Dần khởi 1, đếm thuận đến 9 là cung Tuất, Tử Vi an tại Tuất.

6.2 Nếu không thể chia chẵn (tức là phép chia có số dư), thì lấy ngày sinh mà cộng thêm một số tự nhiên nhỏ nhất để có thể chia chẵn cho Cục số. Như sinh ngày 27, Kim tứ Cục, thì (27+1)÷4=7, lúc này từ Dần đếm thuận đến 7 là cung Thân, mà vốn dĩ sử dụng 27 cộng thêm 1, cho nên phải lùi lại 1 cung, tức là ngày 27 của Kim tứ Cục thì Tử Vi ở tại cung Mùi.

Chú: nếu như số tự nhiên mà được cộng thêm là số lẻ thì mới lùi ngược lại, còn là số chẵn thì tiến thuận, công thêm số nào thì lùi/tiến đúng bằng số ấy cung.

Định xong sao Tử Vi có thể định sao Thiên Phủ, mối quan hệ của chúng là 2 sao này đối xứng qua trục Dần Thân.

7. An các Chính Tinh cấp Giáp còn lại

Khẩu quyết:

Tử Vi, Thiên Cơ tinh nghịch hành,

Cách nhất Dương, Vũ, Thiên Đồng tình;

Hựu cách nhị vị Liêm Trinh đệ,

Không tam tiện thị Tử Vi tinh.

Thiên Phủ, Thái Âm thuận Tham Lang, (câu này viết nhầm chữ Âm thành Dương, QNB đã sửa lại)

Cự Môn, Thiên Tướng dữ Thiên Lương;

Thất Sát không tam Phá Quân vị,

Cách cung vọng kiến Thiên Phủ hương.

8. Miếu hãm của tinh diệu

(QNB chú: nguyên văn không ghi gì cả).

9. An lục sát cùng lục cát tinh

- Tả Phụ "Thìn" cung khởi chính nguyệt, thuận hành chí sinh nguyệt;

Hữu Bật "Tuất" cung khởi chính nguyệt, nghịch hành chí sinh nguyệt.

- Văn Xương "Tuất" cung khởi Tý thì, nghịch hành chí sinh thì;

Văn Khúc "Thìn" cung khởi Tý thì, thuận hành chí sinh thì.

- An Thiên Khôi, Thiên Việt

Khẩu quyết:

Giáp Mậu Canh ngưu dương < Việt >,

Ất Kỷ thử hầu < Việt > hương.

Bính Đinh trư kê < Việt > vị,

Nhâm Quý thỏ xà < Việt > tàng.

Lục Tân phùng mã < Việt > hổ,

Thử thị quý nhân hương.

- Kình Đà theo việc định Lộc Tồn của Thiên Can năm sinh rồi sau đó an bài, không nói rườm rà.

- An hai sao Hỏa Linh <lấy Địa Chi năm sinh và giờ sinh để tìm được>

Dần Ngọ Tuất: Hỏa < Sửu >, Linh < Mão > khởi giờ Tý thuận hành

Thân Tý Thìn: Hỏa < Dần >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành

Tị Dậu Sửu: Hỏa < Mão >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành

Hợi Mão Mùi: Hỏa < Mậu >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành

Quyết viết:

Dần Ngọ Tuất nhân sửu mão phương,

Thân Tý Thần nhân dần tuất dương;

Tị Dậu Sửu nhân mão tuất vị,

Hợi Mão Mùi nhân dậu tuất phòng.

(QNB chú: Hỏa Linh họ đều cho đi thuận cả, có khác biệt với Tử Vi Việt).

-

Địa Không từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, nghịch hành đến giờ sinh,

Địa Kiếp từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, thuận hành đến giờ sinh.

10. Khởi an Tứ Hóa theo thiên can năm sinh, không nói rườm rà. Chú: phái Tử Vân dùng can Quý thì Thái Dương hóa Khoa (QNB chú: dịch nguyên văn, có lẽ viết nhầm chữ Âm thành Dương).

11. An các tạp diệu còn lại

-

Thiên Hình < Dậu > cung khởi tháng Giêng, thuận hành đến tháng sinh;

Thiên Diêu < Sửu > cung khởi chính nguyệt, thuận hành đến tháng sinh.

Quyết viết:

Thiên Diêu sửu thượng thuận chính nguyệt,

Thiên Hình dậu thượng chính nguyệt luân;

Đếm đến tháng sinh đều dừng bước, liền an Hình Diêu hai tinh thần.

-

Hồng Loan < Mão > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh;

Thiên Hỉ < Dậu > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh.

Quyết viết:

Hồng Loan mão thượng Tý niên khởi,

Nghịch hành số chí sinh niên chỉ;

Đối cung ký thị Thiên Hỉ tinh,

Vận hạn mệnh phùng thiên hữu hỉ.

< Hai sao này vĩnh viễn ở tại đối cung >

- Hàm Trì < Đào Hoa sát >

lấy Chi năm sinh an bài, quyết viết:

Dần Ngọ Tuất, thỏ tòng mao lý xuất;

Thân Tý Thìn, kê khiếu loạn nhân luân;

Hợi Mão Mùi, thử tử đương đầu tọa;

Tị Dậu Sửu, dược mã nam phương tẩu.

- Thiên Mã

Căn cứ Chi năm sinh, quyết viết:

Thân Tý Thìn nhân mã cư dần,

Dần Ngọ Tuất nhân mã cư thân;

Hợi Mão Mùi nhân mã cư tị,

Tị Dậu Sửu nhân mã cư hợi.

- An Tam Thai, Bát Tọa

Lấy ngày sinh để an bài, quyết viết:

Tam Thai, Tả Phụ thuận sơ nhất,

Số chí sinh nhật thị Thai cung.

Bát Tọa, Hữu Bật nghịch sơ nhất,

Số chí sinh nhật định kỳ tung.

- An Long Trì, Phượng Các

Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Long Trì, khởi Tý thuận hành Thìn,

Sinh niên tiện thị phúc nguyên chân;

Phượng Các, Tuất thượng nghịch số Tý,

Ngộ chí sinh niên thị cát niên.

(Long trì từ Thìn khởi, hô Tý đếm thuận đến chi năm sinh. Phượng Các từ Tuất khởi, hô Tý đếm nghịch đến Chi năm sinh).

- An Thai Phụ, Phong Cáo

Khúc tiền tam vị thị Thai Phụ, Khúc hậu tam vị Phong Cáo hương.

(Vị trí thứ 3 trước Văn Khúc là Thai Phụ, Vị trí thứ 3 sau Văn Khúc là Phong Cáo).

Khởi lệ: Giả như Văn Khúc tai Tý thì cung Dần an Thai Phụ, vị trí thứ 3 sau Khúc chính là Tuất cung an Phong Cáo. Ngoài ra phỏng theo như thế, nhưng lấy bản cung của Văn Khúc mà khởi số.

- An Thiên Quý, Ân Quang

Quyết viết:

Văn Xương thuận số chí sinh nhật,

Thối hậu nhất bộ thị Ân Quang;

Văn Khúc thuận số chí sinh nhật,

Thối hậu nhất bộ Thiên Quý tràng.

QNB chú: không rõ là ở chỗ Thiên Quý bị chép nhầm chữ "nghịch" thành ra "thuận" hay là có sự khác biệt an sao với cách chúng ta vẫn dùng.

- An Cô Thần, Quả Tú

Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Dần Mão Thìn nhân an Tị Sửu < tị cô >

Tị Ngọ Mùi nhân phạ Thân Thìn < thân cô >

Thân Dậu Tuất nhân cư Hợi Mùi < hợi cô >

Hợi Tý Sửu nhân Dần Tuất điền < dần cô >

QNB chú: xem cách chú thích trong bài này để rõ hơn về cách chú thích của họ trong bài quyết an Khôi Việt.

- An Thiên Hư Thiên Khốc

Quyết viết:

Thiên Khốc, Thiên Hư, khởi ngọ cung,

Ngọ cung khởi Tý, lưỡng phân tung;

Khốc nghịch tị hành hư thuận vị,

Sinh niên tầm đáo tiện cư trung.

Khởi lệ: phàm mệnh đều lấy 12 Chi năm sinh làm chủ. Giả như người sinh năm Thìn, thì từ Ngọ cung khởi năm Tý, nghịch hành qua Tị cung, cho đến Dần cung là đếm tới Thìn, liền an Thiên Khốc. Lại từ Ngọ cung khởi năm Tý, thuận hành qua Mùi cung cho đến Tuất là đếm tới Thìn, liền an Thiên Hư. Ngoài ra phỏng theo như thế. Như người sinh năm Tý thì Khốc Hư nhị tinh đều liền an tại cung Ngọ.

- An Đại Hao sát

Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Thử kỵ dương đầu thượng,

Ngưu sân mã bất canh.

Hổ hiềm kê uế đoản,

Thỏ oán hầu bất thanh.

Long tăng trư diện hắc,

Xà kinh khuyển ngọa khuẩn.

Hữu nhân phạm thử sát,

Tài thực tán linh đình.

=

Chuột ghét Dê trên đầu

Trâu giận Ngựa chẳng cày

Hổ ngại Gà mỏ ngắn

Mèo oán Khỉ không kêu

Rồng hận Lợn mặt xám

Rắn sợ Chó nằm thiu

Có người phạm Sát ấy

Của cải tiêu tán luôn.

QNB chú: sao Đại Hao này được an với Địa Chi tuổi, khác với Đại Hao theo vòng Lộc Tồn/Bác Sĩ, cũng khác với Đại Hao an theo Địa Chi trong môn Thất Chính Tứ Dư.

- An Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách, Quan Phù

Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Thái tuế nhất niên nhất thế hoán,

Tuế tiền thủ tiên thị Hối Khí.

Tang Môn, Quán Sách cập Quan Phù,

Tiểu Hao, Đại Hao, Long Đức Kế.

Bạch Hổ, Thiên Đức liên Điếu Khách,

Bệnh Phù cư hậu tu đương ký.

Phần lời răn và quan niệm về đẩu số

* Phương pháp và nguyên tắc của việc định cung vị trọng điểm (lấy việc đầu tư làm thí dụ):

a, Muốn dùng việc đầu tư ròng để kiếm tiền, cung vị trọng điểm tất định tại cung Phúc Đức.

b, Xem xét thật kỹ mức độ cát hung của tam đại phúc đức cung, so sánh tính toán tương quan nặng nhẹ của chúng.

c, Tam đại Kị giao hội mạnh hơn so với lưỡng đại Kị, lưỡng đại Kị mạnh hơn so với nhất đại Kị.

Lộ trình tương tự, xem cho kỹ tác dụng mạnh yếu của Lộc tinh, cũng với so sánh như thế.

d, Bất luận là cát hay hung, miễn là tạo thành được "Cách cục", đều lấy tác dụng của "cách cục" mà so sánh sự mạnh mẽ. Bởi vì mức độ của cát hung, đầu tiên lấy cái việc thành cách của "cách cục" ra để mà luận. Khi không thành "các cục", sẽ tùy thuộc vào Lộc cát Kị hung để so sánh tính toán mức độ mạnh mẽ của chúng.

e, Mức độ của cát với hung, còn cần phải chú ý tới cung vị trọng điểm cùng các tình huống miếu vượng hãm nhược của các Tinh diệu ở tam phương. Tinh diệu ở vượng cung thì Lộc cát rất tốt đẹp, còn hãm địa thì Lộc cát cũng chỉ là hư phát. Ở vượng cung thì Kị hung là yếu tố xung kích, chỗ hãm địa thì Kị hung cực kỳ hiểm ác.

* Vận hạn của một người nào đó khi tiến nhập niên phần sáng sủa lại có đới hung sát thì <sự sáng sủa là do chỉ trông cậy vào mỗi cường vượng của chủ tinh mà nói> sẽ thường gặp phải những phán đoán sai lầm lớn.

* Đẩu số luận mệnh, khi gặp cát hung hỗn tạp, sẽ không vì cái hung mà làm tổn hại đến cái cát, cũng sẽ không vì cái cát mà làm giảm cái hung của nó. Bởi vậy mà mệnh bàn xuất hiện cát hung tương bạn thì nhất định phải "Cát hung phân đoạn" (Phân chia rõ cát hung mà phán đoán).

* Bản đại hạn mà hung ác, nhưng đại hạn sau lại tốt đẹp, sẽ khiến cho cuối đại hạn này có xu hướng chuyển sang tốt dần lên, lại tham chiếu tình huống của 3 năm lưu niên cuối cùng của bản đại hạn sẽ càng nghiệm.

* Luận đoán lưu niên của Đẩu số, nhất định phải căn cứ trên cát hung sở thuộc của đại hạn, coi như là căn cứ quyết định. Vừa lưu niên Tứ Hóa tinh, lại vừa lưu niên Kình Đà Lộc Tồn, thông thường đối với đại hạn sản sinh ra tác dụng dẫn động, mà tác dụng ấy thường thường hướng vào các tinh diệu của cung vị lưu niên (bao hàm tam hợp phương) làm ảnh hưởng càng thêm trọng yếu. Ngoài ra cần xem và xâu chuỗi mối quan hệ nhân quả của các năm liên tiếp gần hạn lưu niên đó để mà suy đoán cho kỹ tính chất liên quan trước sau. Dựa vào phân tích ở tại thời gian một năm nào đó trước đấy là "nhân" và ở tại thời gian một năm sau đó có khả năng phát sinh "quả".

Tiền nhân hậu quả của tính liên tục loại này, cùng với phép luận của lưu niên dẫn động đại hạn, có thể lấy mà phân tích mệnh bàn đẩu số, từ trạng thái tĩnh dẫn đến trạng thái động, từ đó có thể tìm hiểu sự tình diễn biến tiền nhân hậu quả.

* 30 năm đầu thì chú trọng vào tiên thiên Mệnh cung, 30 năm sau chú trọng vào Thân cung (ước chừng từ giữa đến nửa cuối đại hạn thứ 3 là bắt đầu tính).

* Ở trong đẩu số truyền thống, luận đoán nam mệnh, ngoại trừ các cách cục ở Mệnh Thân cung, thì còn phải lấy 2 cung Tài Quan làm trọng điểm. Nhưng với nữ mệnh, ngoại trừ Mệnh Thân cung thì lấy 2 cung Phu Tử làm trọng điểm.

* Nếu như muốn đi sâu vào nghiên cứu phán quyết đối với mệnh bàn, nhất thiết đầu tiên là bắt buộc phải thông thuộc và thấu triệt tính chất của tinh diệu, cùng với tác dụng "cách cục" của tổ hợp các tinh diệu đặc thù tạo thành. Nếu chỉ dùng sự dẫn động cát hung của Tứ Hóa, hiện tượng cát hung của sự suy luận thường giới hạn ở biểu hiện bên ngoài mà thôi, chứ đối với bản chất của nó thì rất khó mà thâm nhập lý giải.

* Người bình thường chỉ khán đại hạn mà không để ý đến khuyết tật thói xấu của tiên thiên Mệnh cung với các cung vị tiên thiên khác của nó, rồi cho rằng một ngày nào đó hành nhập đại hạn thì có thể bỏ mặc bàng quan với tương quan cung vị của tiên thiên, thì đó là quan điểm trái với thực tế khách quan.

* Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc to lớn trải rộng, trong việc bài bố mệnh bàn của những người sinh ra ở các địa khu không thuộc Trung Nguyên thì phương pháp là: Đem thời gian tại địa phương nơi sinh ra, từ dương lịch hoán đổi thành âm lịch. Thời Thần của lúc sinh là hoán chuyển theo "giờ địa phương" (tức là Địa Chi giờ sinh lấy theo giờ địa phương nơi sinh).

Thêm một phương pháp: Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, tra cứu xem độ số của địa phương nơi sinh ra là bao nhiêu độ kinh, sau đó lấy thời gian Bắc Kinh hoán chuyển thành thời gian địa phương nơi sinh. Như Quảng Châu là 113 độ kinh đông, thì giảm trừ đi 8 độ, mỗi độ là 4 phút đồng hồ, cho nên phải chậm đi 28 phút đồng hồ.

* Ở trong lý luận ứng dụng của Tứ Hóa tinh, cần phải chú ý đến: kết quả "liên Kị" mạnh hơn so với với "liên Lộc"; hay là "liên Lộc" mạnh hơn so với "liên Kị". Trong lý luận, đại hạn hiện tại cùng với song Kị của tiên thiên giao hội thì cung vị của song Kị giao hội sẽ có tác dụng rõ ràng mạnh mẽ. Cái đạo lý này, đồng dạng có thể ứng dụng đối với việc luận tam hóa "Khoa Quyền Lộc". Đặc biệt là hai sao Kị đó đối với cung vị nào đó của tiên thiên mà hình thành tác dụng giao hội thì, chính là hàm nghĩa, Kị tinh của đại hạn này xuất ra, tất nhiên sẽ phải đối với cung vị tiên thiên này tạo thành tác dụng kị hại rất rõ ràng mạnh mẽ. Lấy sự thụ hại tổn thất của cung vị tiên thiên đó để mà làm lúc phân biệt, nhưng cần khảo sát sự cường nhược của tinh diệu ở cung vị đó làm căn cứ luận đoán.

* Vận hạn nhập "cung không" thì, vận mệnh thông thường đều luận là nhược.

* Loại tác dụng tiếp diễn của hành vận <phép tắc dẫn động liên tục>, bất kể là tính lành hay tính ác, đều có thể hiện ra rõ ràng mạnh mẽ về tính xu thế của nó, vì vậy cũng đều lần lượt tham gia các bước phát triển về sau. Tính liên tục ấy tại hai đại hạn thì sẽ có tác dụng hiển lộ tính xu thế ở đại hạn đầu và kết quả cát hung thông thường biểu hiện tại đại hạn thứ hai. Nếu như tính liên tục tại ba đại hạn thì tính xu thế ảnh hưởng sẽ càng lớn, kết quả cát hung biểu hiện tại đại hạn thứ ba và biểu hiện mạnh hơn ở đại hạn thứ hai.

* Câu <Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung> của Đẩu Số, hàm chứa cái sự xung chiếu của Sát tinh và Kị tinh đối với Lộc tinh, nhưng cát hung phía sau của Kị Sát tinh xung phá Lộc tinh thì thường là dựa vào <cung vị sự việc> mà có chỗ khác biệt: Bản hạn cung mà vượng, Kị <hàm Sát> xung hai cung <Tài Quan> thì không xung không... (QNB chú: chữ gì đó bị mất). Nếu bản cung mà nhược yếu thì <Tài Quan> đã bị Lộc Kị xung lại luận đoán là bất lợi. Nhưng Kị <Sát> Lộc xung chiếu các cung lục thân cùng với cung Nô Bộc, Tật Ách thì chủ nhân đều bất lợi.

* Trên mệnh bàn chỉ hội cát mà <lục sát hoàn toàn không hội chiếu>, loại tổ hợp mệnh bàn này, ảnh hưởng trực tiếp tích cực: là một dạng cả đời sự nghiệp bày ra không có trở ngại, cách cục không bị phiền nhiễu bởi các biến hóa; nhưng đối với mặt tiêu cực thì bởi vì không thấy chư sát kị tinh, khiến cho mệnh cách ở trong mệnh lý tiên thiên là không được trang bị <ý thức về sự gian khổ>. Dạng mệnh cách này nếu như ở vào những người với những công việc ổn định, khuôn phép, sáng cắp ô đi tối cắp về thì dần dần cũng tiến tới được thành quả nhất định; nhưng đối với những công việc mang tính khai phá hoặc chiếm lĩnh, sáng tạo, thì không phải khả năng mà mệnh cách này có được.

* Về tiêu chuẩn cách cục <cát hung tương bạn> nếu mà ứng với nó thì sẽ tiên thịnh hậu suy (trước thì tươi tốt thinh vượng nhưng càng về cuối càng suy vi sút kém).

* Đối với Thân cung tại vận hạn hậu thiên, một khi đã bị <dẫn động>, sẽ khiến cho tâm lý của đương số xuất hiện <sự điều chỉnh tác dụng> phù hợp.

* Trong luận đoán cát hung, mọi thứ đều cần lấy <cách cục> làm trọng, cũng chính là do <cách cục> hình thành sau cùng nên nhất định trước tiên phải khán cách cục. (Chú thích: cát cách > hung tượng; hung cách > cát tượng. Cát cách; hung cách cùng tồn tại là cát hung tham bán, sẽ cần phải khán sự dẫn động của Thiên Can vận hạn).

* Đẩu số <Tam Thai> lý luận, ngay trong hung hạn liên tục 3 cung: ba hạn lưu niên <hoặc đại hạn> thì thường hội tại cái cung hạn thứ hai dần biểu lộ hung tượng, trễ nhất thì ở cung hạn thứ ba sẽ hoàn toàn hiển lộ hung tượng.

* Các sao Bắc đẩu: cương (mạnh mẽ); khoái (nhanh chóng); nguyên lai (vốn dĩ sẵn có)

các sao Nam đẩu: nhu (mềm dẻo); mạn (chậm); tân lai (vừa mới xảy đến).

* Cách cục ở Mệnh Thân cung, chính thị đại biểu cho tình hình tính chất đặc biệt về mệnh lý của đương số đó, kết quả chính là thánh hiền, tài năng, ngu đần hay là bất tài.

* Lục sát, tuy rằng liệt vào nhóm hung tinh sát diệu, nhưng sáu sao này ngoài tính chất dẫn hung thành ác, hoặc là có thể chuyển hung thành cát, thường thường dựa vào các tinh diệu cấp Giáp, có thể không dựa vào sự cường vượng mà được <chế sát vi dụng> để mà luận định.

* Thân cung đối với vận thế sau thời kỳ trung niên, có ảnh hưởng điều chỉnh tương đối lớn. Một người nào đó suốt cuộc đời cho đến trước lúc già cuối đời, càng từng trải càng tốt hay càng hỗn tạp bó buộc càng hỏng, sự cường vượng hay yếu nhược và cát hung của Thân cung chính vốn có tác dụng điều chỉnh mạnh mẽ tương xứng.

* Căn cứ vào Mệnh cung làm lý luận đầu mối then chốt tổng quát cho mệnh bàn, sau khi một người nào đó đi vào vận trình đại hạn, cần phải suy luận ở bản cung vận hạn, cũng cần lấy cách cục của mệnh cung tiên thiên làm cơ sở, tiếp đó hãy đánh giá xem đại hạn đó tinh diệu có khả năng phát sinh ảnh hưởng hay không. Giả dụ như người "Sát Phá Lang" mà hạn vận hậu thiên lại đi đến cung cũng gặp cách cục loại ấy thì anh ta đương nhiên sẽ có những khuynh hướng lớn của sự thay đổi hoàn cảnh. Giả dụ như người "Cơ Nguyệt Đồng Lương" mà khi nhập hạn vận "Sát Phá Lang" thì anh ta trong loại hạn kiểu này sẽ có khuynh hướng chủ biến động ở trong vận trình, dù cho có cả sự thay đổi hoàn cảnh, nhưng biến động của anh ta sẽ gặp phải là rất ít. Cùng là loại hạn vận tại cung vị "Sát Phá Lang" nhưng mà do sự không giống nhau của đương số nên không thể có cùng một loại nhận định, chỉ cần hạn nhập cung vị loại nào, đều chủ có sự biến động hoàn cảnh lớn nhỏ tương ứng.

* "Phép tắc liên tục dẫn động" chẳng qua chỉ là một loại phương pháp suy đoán đối với một sự việc nào đó. Lợi dụng phương pháp này, có thể giúp lý giải quá trình và những động thái biến hóa của sự việc. Nhưng bản chất cát hung của sự việc lại không đơn giản chỉ là áp dụng phương pháp này mà có thể phân biệt rõ ràng được.

Mệnh Thân và ảnh hưởng của Thái Tuế

Có thể ứng dụng quan niệm [Biểu, Lý] trong lý luận của Đông Y để mà giải thích về Mệnh lý đẩu số đối với Mệnh Thân và tác dụng của Thái Tuế (QNB chú: theo Đông Y thì cặp [Biểu, Lý] gắn liền với lý luận cặp Âm Dương, Biểu là biểu lộ bày tỏ biểu hiện ra bên ngoài, Lý là nội tại ở bên trong). Cách cục của Mệnh Thân hình thành bộ khung và phong cách biểu hiện của một cá nhân, cho nên nó thuộc về [Biểu], còn cung vị Thái Tuế ví như sự ảnh hưởng mạnh tới mức độ nào đó, thường thường là động lực căn bản của các mưu đồ hành vi tư tưởng, mà cái động lực căn bản đó chính là thông qua biểu hiện tác phong hành sự của Mệnh Thân cung mà biểu lộ ra bên ngoài. Cho nên, ảnh hưởng của cung vị Thái Tuế thuộc về [Lý].

Trong kinh tế học có câu danh ngôn nói [sự vận động của kinh tế, chính là bị thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó], thực ra thì đối với mệnh lý mà nói, sự hưng suy khởi phục của cả cuộc đời một cá nhân, cũng là một phần thuộc về ở tự bản thân mình điều tiết, nhưng vừa tự điều tiết vừa có sự thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó.

Tương tự thì loại [cung vị Thái Tuế] thuộc về cung vị có tính ẩn tàng của [Lý], cách cục tinh diệu của nó chính là như bàn tay vô hình tự điều tiết kia. Vô hình trung mưu chước thao túng lại thông qua Mệnh Thân cung và vận trình đại hạn mà xuất hiện phong cách hành sự. Đối với biểu hiện hành vi của một đương số thì cách cục cung vị Thái Tuế có ảnh hưởng tác dụng mang tính mấu chốt.

Đây là một hạng mục quan niệm, trên thực tế, cùng loại này thuộc về ảnh hưởng tác dụng của [Lý] lại vốn có ảnh hưởng của tính chất mấu chốt của cung vị có tính chất đặc biệt, [cung vị Thái Tuế] chỉ là một trong số đó, cũng không phải là cung vị duy nhất.

(Trích từ "Đẩu Số đàm Phụ Mẫu tình" của Tử Vân, P036)

Trước khi vận dụng "Thái Tuế nhập quái tượng", đối với với tính chất tác dụng của Thiên Can năm sinh và Thiên Can vốn có của cung vị, nếu sử dụng quan niệm "Biểu Lý" của Đông Y để mà thuyết minh, thì Thiên Can năm sinh chính là "Biểu", còn Thiên Can cung vị chính là "Lý". Tác dụng ảnh hưởng của "Biểu" thường thường biểu hiện qua những xử sự cá nhân của chỗ Thái Tuế của người ấy tọa thủ, còn biểu hiện của "Lý" chính là đem Thái Tuế nhập cung và giữa nó với mệnh tạo (đương số) sản sinh ra một mối quan hệ hỗ động lợi hại ghê gớm ở một mức độ nào đó thì biểu thị cho thấy tình hình.

Lấy mệnh bàn của ông chủ Lâm (nam mệnh, nông lịch năm 1936 tháng 2 ngày 7 giờ Tị) làm ví dụ để thuyết minh. Năm Giáp Thìn (1964) sinh con trai, cùng với phụ thân anh ta sống chung với nhau, thân tình giữa cha con không hề sút kém, chẳng qua là trong sự tham gia công việc nhà máy với phụ thân anh ta sau này thì cách xử sự e rằng hiếm khi thấy nhận được sự đồng thuận của cha anh ta. Rồi năm Bính Ngọ (1966) sinh con gái, vì năm sinh có can Bính khiến cho Liêm Trinh hóa Kị tại Tuất là Mệnh cung của cha cô ta, cung Tuất lại xung hội vào Ngọ và Thìn có chư sát tinh, hơn nữa lại có cả Kình Đà của năm Bính tại Ngọ và Thìn cung. Bởi vậy đối với mối quan hệ thân tình cha và con gái xem ra biểu hiện dường như không thể nào mà tốt đẹp được. Nhưng bởi vì cung Ngọ vốn có Thiên Can khiến cho Liêm Trinh hóa Lộc vào Tuất là Mệnh cung, và Phá Quân hóa Quyền tại Thân là Thân cung, còn Vũ Khúc hóa Khoa ở Dần cung là cung Quan Lộc. Bởi vậy mà cô ta đi làm ở nhà máy của cha mình, biểu hiện công tác của cô thường nhận được sự ưng thuận đồng tình trọn vẹn.

(Trích từ "Đẩu số luận tử nữ" của Tử Vân, P256).

Thái Tuế của người khác nhập cung, nếu như các tinh diệu cấp Giáp ở chỗ sở tọa của Thái Tuế cùng với tinh diệu của cung Mệnh của đương số tạo thành hiện tượng sinh khắc khác biệt, tương sinh thì hợp, tương khắc thì không hợp.

(Trích từ "Đẩu số luận tử nữ" của Tử Vân, P256).

Quan niệm

Luận đoán mỗi một hiện tượng mệnh lý của các hạng mục cung vị, nhất định cần phải kết hợp tham khảo với Mệnh cung (hoặc bản cung Đại hạn) mà luận đoán. Cung Nô Bộc tiên thiên mà tốt, cung Nô Bộc đại hạn hội sát kị hung tinh, nhưng cung Mệnh tiên thiên ở trong vận trình này mà nhận được cát hóa khiến cho cách cục của cung Mệnh tăng cát, đồng thời bản cung đại hạn lại hội cát diệu, tự nhiên sẽ khiến cho tính hung của cung Nô Bộc đại hạn giảm hẳn đi.

Vẫn theo mệnh lý mà nói, vận trình lúc về già cao tuổi, trong trường hợp đi vào đại hạn có cách hung, nếu bất cập thì nên rút lui, còn xuất đầu lộ diện thì e rằng chẳng có gì tốt đẹp đâu.

Với mệnh lý mà nói, có thể trong hoàn cảnh thời thế tạo anh hùng với người bộc lộ tài năng, tự nhiên phải vốn có sẵn một chút điều kiện mệnh lý chính xác tương xứng. Một người thành công, dĩ nhiên có điều kiện mệnh lý của họ, nhưng cũng nhất định cùng với hoàn cảnh thời đại của xứ sở của anh ta có liên quan, chứ cũng chẳng phải là hoàn toàn do nhân tố mệnh lý tạo thành.

Tổ hợp tinh diệu của Mệnh Thân cung tạo thành cát cách, ở Thiên Di cung lại có nhóm cát tinh tụ tập, dạng đương số kiểu này cả một đời vận trình gặp được không chỉ là sự thuận lợi chẳng có sự ngăn trở, mà còn dễ dàng nhận được sự dìu dắt đề bạt của quý nhân. Nói cách khác, dẫu không được quý nhân đề bạt, chủ yếu là dựa vào sự phân định nghiên cứu những dấu hiệu mệnh lý biểu hiện ở Mệnh Thân cung và Thiên Di cung. Ngược lại, nếu như người mà tổ hợp ở Mệnh Thân với Thiên Di cung mà kém đẹp, trong đời khó mà gặp được quý nhân đề bạt, mà dẫu cho có may mắn gặp được quý nhân khen ngợi đề bạt thì cũng e rằng là chẳng dễ có được cách cư xử tốt đẹp.

Phần cung Phu Thê với tình cảm hôn nhân <<Tử Vân luận hôn nhân>>

Lời nói đầu

Cận đại có rất nhiều người tìm hiểu mệnh lý đẩu số, thường đem những bài ca phú của các bậc tiên hiền, mà họ thuộc như cháo chảy, mỗi khi gặp lúc suy đoán hoạt bàn mệnh lý là thường dẫn dụng các câu văn lời phú để mà làm căn cứ luận đoán.

Thí dụ như, đàm luận về phương diện Phu Thê cung, thì khả năng gặp sự viện dẫn:

"Thái Vi phú":

Thái Âm đồng Văn Xương vu Thê cung, thiềm cung chiết quế.

(Thái Âm cùng với Văn Xương ở cung Phu Thê thì như bẻ cành nguyệt quế cung trăng, ám chỉ việc lấy vợ đẹp lại là con nhà danh giá, được nhờ vợ mà công danh thăng tiến).

Hay là như:

Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung, hàn lâm thanh dị.

(Thái Âm hội hợp với Văn Khúc ở cung Thê thì như giới hàn lâm thanh cao khác thường, cũng ám chỉ tương tự như trên).

Dường như người mà cung Phu Thê có cách cục loại này, chẳng những trong đời sẽ lấy được vợ xinh đẹp như các mỹ nhân tiểu thư, mà sau khi cưới được người vợ vượng phu ích tử, khiến cho con đường quan lộ được đắc ý, từng bước thăng tiến cao, việc buôn bán cũng như sự nghiệp đều như chim hồng chim hộc bay cao, của cải sinh sôi dồi dào.

Lại như "Ngọc Thiềm phát vi luận":

Thiên Diêu Phu Thê cung tắc tà dâm nhi đam tửu;

Sát lâm Phu Thê cung, định Phu Thê bất hòa.

(Thiên Diêu đóng ở cung Phu Thê thì tà dâm và mê hoa luyến tửu; Sát tinh lâm vào cung Phu Thê thì xác định là vợ chồng bất hòa).

"Nữ Mệnh Cốt Tủy phú":

Tam phương tứ chính hiềm phùng sát,

Cánh tại Phu cung họa hoạn thâm

Nhược trị bản cung vô chính diệu,

Tất chủ sinh ly khắc hại chân.

(Tam phương tứ chính mà gặp sát tinh

Gặp thêm ở tại cung Phu là tai họa càng nặng

Nếu gặp bản cung mà vô chính diệu

Thì nhất định chủ sinh ly khắc hại).

Nếu căn cứ vào những thuyết pháp này, người nam mà có cách hung ở cung Phu Thê thì không những là kẻ phóng đãng tham luyến tửu sắc, mà hôn nhân cũng chắc chắn còn bị xáo trộn kiểu chó nhảy gà bay. Nữ mệnh thì không những trong quãng thời gian trung niên chủ bị hôn nhân có sự sinh ly tử biệt, mà còn cả một đời cũng phải trải qua những chuỗi ngày khó nhọc.

Bởi vì quan niệm mệnh lý truyền thống cho rằng, một cá nhân mà cung Phu Thê có dạng như thế nào thì nhất định là trong cuộc sống hôn nhân sẽ xuất hiện những trạng thái tình huống đúng với dạng đó. Nếu cung Phu Thê cát, tất nhiên cả đời hôn nhân sẽ mỹ mãn, tình thâm nghĩa nặng, sát cánh kề vai. Còn như cung Phu Thê hung, nếu không nửa đường đứt gánh vì phải chịu tang người phối ngẫu, thì cũng là chia lìa đôi ngả, đường ai nấy đi.

Nếu căn cứ quan niệm mệnh lý dạng này của Tử Vi truyền thống để mà luận đoán tình hình hôn nhân của một cá nhân thì hoàn toàn phụ thuộc vào cung Phu Thê. Như thế thì chỉ cần người nào đó có cùng mệnh bàn lá số (cùng năm cùng tháng cùng ngày giờ sinh, hoặc là người có tổ hợp mệnh bàn tương tự gần giống) sẽ gặp những tình huống phát sinh như sau:

Thứ nhất, lý ứng vào cùng năm (tuổi) kết hôn hoặc ly hôn.

Thứ nhì, lý ứng về tình hình hôn nhân tương đồng, hoặc đều có nhân duyên mỹ mãn, hoặc cùng là các đôi vợ chồng bất hòa.

Thứ ba, đều có sự tương đồng về sinh ly hay tử biệt, cũng đều có số lần tái hôn và kết quả tái hôn tương đồng với nhau.

Nhưng căn cứ vào kinh ngiệm tích lũy mà bút giả biết, ảnh hưởng của cung Phu Thê dĩ nhiên là cung vị trọng yếu của luận đoán cát hung về hôn nhân. Nhưng nên biết là nó không phải cung vị trọng điểm duy nhất của đời sống hôn nhân trên thực tế.

Bút giả cho rằng, cung Phu Thê ấy, lý ứng tiêu biểu cho một người đương số ấy. Trong một dạng "hình thái ý thức" của hôn nhân và tình cảm nam nữ, thường thường chi phối đương số ấy về phương diện hôn nhân và tình cảm, theo các tiêu chuẩn và quan niệm của đương số xử lý như thế nào. Cái cung vị này lại như một bàn tay vô hình nào đó âm thầm thao túng, tạo thành động lực gốc của cá nhân ấy xử lý vấn đề tình cảm hôn nhân như thế nào.

Nếu theo quan điểm này để mà tìm hiểu về cung Phu Thê, công năng của nó trong mệnh lý đẩu số chẳng qua là phản ứng của một cá nhân trong phương diện tâm lý hoặc ý nguyện về tình cảm với hôn nhân. Chứ không thể tiêu biểu cho trạng huống đời sống hôn nhân và tình cảm thực tế của một cá nhân.

Bởi vậy, trong truyền thống đối với nhận thức về tác dụng của cung Phu Thê, cũng không thể sử dụng để mô tả giải thích hết được về đời sống hôn nhân với tình cảm trên thực tế được.

Bút giả phát hiện nghiệm lý được qua vô số kinh nghiệm luận mệnh, có nhiều lá số với cung Phu Thê gần như là tương đồng về cát hung vậy mà xuất hiện kết quả về hôn nhân với tình cảm hoàn toàn không tương đồng. Một cung Phu Thê khán thấy dường như "đại cát", lý ra ứng với hôn nhân mỹ mãn, bạch đầu giai lão, nhưng mà kết quả cuối cùng thì lại là sinh ly với tử biệt. Ngược lại, cung Phu Thê có Kị sát giao xung khắp nơi đầy hung tượng, nhưng hôn nhân cả đời lại êm ả chẳng có sóng gió gì cả, thành tựu nhân duyên tốt đẹp. Cát hung của cung Phu Thê ấy, cùng với hôn nhân thực tế hình thành ví dụ thực tế trái ngược lại về mệnh lý. Phàm những người vốn có kinh nghiệm về mệnh lý, chắc cũng đều đã gặp những trường hợp như thế.

Nhưng đáng tiếc là đối với vấn đề mâu thuẫn này, trong các các tác phẩm cổ thư hình như chưa thấy đề cập, trong các tác phẩm mệnh lý đẩu số gần đây càng không thấy đàm luận. Thật không rõ là do các cao nhân tiền bối từ xưa tới giờ rốt cuộc là vì giữ kín không nói ra, hay là vì chưa từng suy nghĩ đến cái đó, hay là không có cách nào khai giải câu đố ấy mà không đi sâu hơn nữa?

Bởi vì, về cung Phu Thê, vừa không thể dùng trọn vẹn nhưng vừa phải dùng trên thực tế để khảo sát vấn đề của trạng huống đời sống hôn nhân chân thực, do đó mà trở thành thiên cổ huyền án.

Chỗ học về mệnh lý đẩu số truyền thống, dĩ nhiên có cái tinh túy của nó để khai thác lập luận, trong luận đoán mệnh lý cũng có sự mở rộng các chỗ độc đáo ở khắp nơi đều rất chuẩn tắc. Nhưng mà trong phương diện kỹ xảo suy diễn và lý luận cũng có nhiều sơ xuất thiếu xót, cứ như là cái kiểu hết giấy khó viết rõ ra được. Cái môn Đẩu Số bao nhiêu năm nay toàn là dậm chân tại chỗ mà đình trệ chẳng có bước tiến, nghiên cứu nguyên nhân của nó, thực chính là do bản thân chúng ta, không thể không khiến cho trong lòng than thở không nguôi!

Tại đây, bút giả đề xuất phương pháp ứng dụng và lý luận của "Thái Tuế nhập cung" hay là "Thái Tuế nhập quái" cùng với "Nguyên lý tương khế" (tương ứng tương hợp qua lại lẫn nhau). Khả dĩ sử dụng để giải quyết thiên cổ huyền án, nhưng một sự phát hiện với lý luận mới sơ khai thì khó mà tránh được những chỗ khiếm khuyết, do đó rất mong các tiền bối cao nhân đồng nghiệp có thể chỉ giáo, thì hậu học thật là may mắn! Môn học đẩu số cũng thật là may mắn!

Phu Thê cung và hôn nhân tình cảm

Mấy năm gần đây, tốc độ viết sách và ra sách liên tục vào mỗi năm một quyển, dù không dám nói ngoa là các công trình chắc chắn tinh tế sống động, nhưng độc giả cần hiểu cho là, trong khi đã đặt bút viết thì bút giả có thái độ rất cẩn thận tỉ mỉ.

Mỗi khi một bản sơ thảo của một quyển nào đó được hoàn thành, điều quan trọng đầu tiên là mang nhờ một hai vị chuyên gia cùng giới (đẩu số) trợ giúp duyệt bản thảo. Tra soát xem những ý chính luận đàm trong cách hành văn có gì khó hiểu, để tránh phạm vào cảnh vừa đá bóng vừa thổi còi (tự thuyết tự đạo, tức là cảnh vừa tự hát lại vừa tự khen) mà có thể gây khuyết điểm khiến độc giả không biết là đang nói những gì.

Khi bản sơ thảo của quyển "Đẩu Số luận nhân duyên" này hoàn thành, tôi cũng mời hai vị chuyên gia trong giới đẩu số là các tiên sinh Chu, Triệu trợ giúp duyệt bản thảo, nhằm mong nhận được những ý kiến khách quan. Nhân đây cũng đặc biệt xin gửi lời cảm tạ tới hai vị ấy.

Sau khi xem trọn vẹn tất cả bài viết, các ông ấy chẳng hẹn mà cùng bày tỏ rằng: Đây vừa là một quyển có lập luận so với truyền thống là mang luận điểm rất lạ mà cũng rất kỳ thú. Độc giả phổ thông, nếu như trước khi vào đọc tác phẩm mà không có một chút khái niệm nào, thì khi đọc sẽ có thể bị phương pháp suy diễn và lập luận của sự độc đáo này khiến cho xây xẩm mặt m*y, lăn quay ra đất.

Ngay sau đó, các ông ấy đưa ra một số vấn đề, yêu cầu tôi phải thuyết minh trước.

Vượt qua 12 cung vị (siêu việt thập nhị cung vị)

Triệu tiên sinh nói: "Trong cuốn <<Đẩu số luận cầu tài>> anh đã công khai xác nhận giải thích đầy đủ thông qua cái lý cung vị trọng điểm của việc đắc tài lộc không chỉ ở Tài Bạch cung mà còn ở Phúc Đức cung. Chuyện như thế khác với luận điểm truyền thống, sau đó khiến cho rất nhiều đồng đạo của giới đẩu số rất kinh ngạc. Rồi lần luận đàm này về tình cảm và hôn nhân, lại không lấy dùng <<cung Phu Thê>> như truyền thống, e rằng sắp tới sẽ tạo thành sự chấn động lớn hơn nữa. Nếu như mà không có những lời nhắn nhủ trước khi vào đàm luận các ví dụ mệnh lý thì e rằng khiến cho các độc giả theo luận điểm của quan niệm truyền thống sẽ đối với loại này sẽ cảm thấy mê hoặc, không thông suốt được!"

Chu tiên sinh cũng bổ sung nói: "Nghe qua anh giải thích mở ra về tác dụng và bản nghĩa của 12 cung vị hạng mục sự tình, cũng đã biết được rằng, với suy luận của anh về các cung vị hạng mục sự tình đó đã sớm thoát ly được ra khỏi cái vai trò khuôn mẫu vốn có 12 cung vị. Nhưng mà những điểm trọng yếu về suy luận và quan niệm dạng này, làm cho các đồng đạo mới ban đầu đọc đến cái tác phẩm này, e rằng không những là sự chấn động mà còn khiến cho cho đẩu số mệnh lý sinh ra sự hoài nghi triệt để, thậm chí vì nó mà có thể gây ra sự mất lòng tin!".

Đối với tôi (QNB chú: chữ "Tôi" ở đây tức là ông Tử Vân), mặc dù trong phương pháp suy luận và lý niệm về đẩu số có rất nhiều phương diện khác với truyền thống. Nhưng coi như là một người nghiên cứu nghiệp dư yêu thích đẩu số, trộm nghĩ truy cầu diện mạo thực sự của mệnh lý đẩu số chứ cũng bất kể là so với lý niệm và phương pháp suy luận có cái gì sai biệt lớn. Bởi vì văn minh của nhân loại vốn ngay trong quá trình tiếp diễn đều không ngừng mong muốn có những bước tiến bộ. Nếu như mà quá sùng cổ phi kim (yêu cái cổ xưa mà không lý gì đến cái hiện đại) thì là một trở ngại của sự tiến bộ, còn nếu mà quá phi cổ sùng kim (bỏ cái cổ mà sùng bái cái hiện đại) thì cũng khiến cho văn minh tạo thành sự đứt đoạn từng khúc.

Bởi vậy mà, với tôi mặc dù trong phương pháp suy luận mệnh lý đẩu số, có chút khác biệt với phương pháp truyền thống, nhưng trên cơ bản thì chút lý niệm mới của tôi vẫn là có nguồn gốc từ quan niệm đẩu số của truyền thống. Chẳng qua chỉ là đem cái quan niệm truyền thống này mà một lần nữa làm sự đột phá vào cái khuôn mẫu sẵn cũ đó để giải thích và vận dụng, khiến cho nó có thể thêm phù hợp để mà tìm hiểu cái đạo, cái lý của mệnh lý trong sự phức tạp đan xen lẫn lộn của đời người.

Ảnh hưởng tác dụng và bản ý của cung Phu Thê

Triệu tiên sinh: "Trong truyền thống, nắm cát hung của cung Phu Thê thì coi như nắm được căn cứ luận đoán về hôn nhân suốt đời của đương số. Anh hình như là không thực hiện theo khán pháp loại ấy?".

Quan niệm loại này, nói một cách nghiêm túc thì cũng chẳng có cái gì là sai khác lớn. Bất quá thì nếu như đem cung vị ấy khán được đương số ấy, nó khác với một dạng "hình thái ý thức" trong tình cảm và hôn nhân, có lẽ càng thêm bổ khuyết.

Chu tiên sinh: "Nếu được thì anh có thể nó cụ thể hơn chút nữa chăng?"

Thí dụ như nói, người mà cung Phu Thê có tổ hợp "Sát Phá Lang", vì ảnh hưởng tính chất được phú cho thuộc loại cương cường rõ rệt và ảnh hưởng về tính động của nó cũng rõ rệt. Do đó mà đương số dạng này, anh ta trong sự lựa chọn đối tượng tình cảm cho mình, thường hội khuy hướng ở sự lựa chọn những người mà có cá tính tương đối mạnh và có tính linh hoạt rõ rệt. Còn nếu như là cung Phu Thê lại thuộc loại "Cơ Nguyệt Đồng Lương", anh ta sẽ có khuynh hướng lựa chọn người có cá tính hòa nhã thuộc dạng ôn hòa rõ rệt.

Hành động và biểu hiện của một cá nhân, ngoại trừ chịu sự tác động ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài, thì chủ yếu nhất vẫn chính là chịu sự dẫn dắt của quan niệm và tư tưởng của người đó. Chuyện như thế thuộc về quan niệm và tư tưởng của cá nhân cũng chính là "hình thái ý thức" của anh ta. Đem vận dụng lý luận như thế vào cung Phu Thê, đối với ảnh hưởng tác dụng của cung vị này trên mệnh bàn vốn có thì có thể thu được thêm sự ứng dụng và giải thích hợp lý và trọn vẹn hơn nữa.

Chân tướng cát hung theo phản ánh của cung Phu Thê

Chu tiên sinh: "Có một số cung Phu Thê dường như cát, nhưng hôn nhân cũng không phải là rất tốt đẹp. Có một số cung Phu Thê dường như hung, nhưng hôn nhân cả đời lại chẳng có trở ngại. Rốt cuộc thì là do cái gì?"

Một cá nhân khi mà chưa kết hôn, thì không khỏi luôn mong chờ một cuộc hôn nhân mỹ mãn, do đó đều dựa vào cái lý tưởng trong "hình thái ý thức" để mà đi lựa chọn đối tượng. Nhưng "ý thức" của con người, trong cuộc đời thường gặp sự hiệu chỉnh và cải biến tùy rõ rệt theo tuổi tác và hoàn cảnh.

Thí dụ như nói, người ta lúc còn trẻ, gặp chuyện là hăng hái xông lên mạnh mẽ thập phần; đến khi trung niên thì xử sự ổn trọng, biết chỗ tiến thoái; đến lúc lão niên thì phong mang nội liễm (mũi kiếm đã tra vào trong bao, ý nói sống hướng nội hơn khi trẻ) chẳng mảy may chút nào với được mất. Diễn biến của thái độ xử sự dạng này, ngoại trừ do sự tăng trưởng của tuổi tác con người ra, thì thường cũng do sự biến hóa thay đổi của hoàn cảnh, khiến cho tâm thái, hình thái ý thức, của cá nhân đó nảy sinh ra sự biến hóa thay đổi hoặc là điều chỉnh cực lớn. Cho nên con người ta trong phương thức xử sự ở đời mới có những khác biệt quan trọng về giai đoạn tuổi tác.

"Hình thái ý thức" của một cá nhân trong phương diện hôn nhân cũng có những hiện tượng điều chỉnh hoặc là thay đổi theo tuổi tác kiểu đó.

Bởi vậy để mà nói, vì sao chỉ với mỗi mình cung Phu Thê tiên thiên cũng có lúc không thể xem được đối với đương số ấy về nguyên nhân của các trạng huống của hôn nhân thực tế.

Khi đem suy diễn các trạng huống hôn nhân thực tế, ngoại trừ quyết định bằng cách lấy hiên tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên ra, còn phải lưu ý đến những hình thưc biểu hiên cát hung của cung Phu Thê hậu thiên lúc hành hạn như thế nào, khả năng đối với hôn nhân tạo thành ảnh hưởng ra làm sao.

Thí dụ như nói:

Thứ nhất, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng trong đại hạn sau khi kết hôn lại không ngừng khiến cho Kị tinh xung kích từ Quan vị này, khiến cho cát tượng vốn có của cung Phu Thê tiên thiên chuyển thành hung, mà khiến cho hôn nhân phải chịu sự phá hoại.

Thứ hai, cung Phu Thê tiên thiên kém đẹp, nhưng liên tục mấy đại hạn sau khi kết hôn, lại thường xuyên có Hóa Lộc chiếu vào cung vị đó, cái sự hội tụ đó khiến cho sự kém đẹp ở cung Phu Thê tiên thiên lại chuyển từ hung thành cát.

Thứ ba, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn liên tục biểu hiện hung tượng thì sự hòa hợp của vợ chồng mỗi ngày một giảm đi.

Thứ tư, cung Phu Thê tiên thiên không tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn lại liên tục biểu hiện cát tượng, thì sự tương hội của hôn nhân như là chuyển thành cảnh khổ tận cam lai, càng về sau càng ngọt ngào.

Hoàn cảnh có khi cũng hội những ảnh hưởng đến sự hài hòa hay không của hôn nhân. Tục ngữ vốn có câu nói "bần cùng phu thê bách sự ai" (nghèo khó thì vợ chồng trăm sự đều bi thương). Người như thế một khi cung Phu Thê tiên hậu thiên mà kém đẹp, lại vì gia cảnh quẫn bách, thì gặp sự hung ác hóa tăng nặng thêm về quan hệ hôn nhân. Do đó mà luận hôn nhân, có khi hoàn cảnh gia đình cũng là một điều kiện mà không thể bỏ qua được.

Tảo Hôn và Trì Hôn (kết hôn sớm / muộn)

Triệu tiên sinh: "Tảo hôn hoặc trì hôn thật rõ rệt (trên thực tế), từ xưa tới nay trong mệnh lý dường như cũng rất là trọng thị, cái đạo lý này là do đâu? Giới hạn tuổi tác của sự kết hôn sớm muộn là như thế nào?"

Thông thường đều theo hiện tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên để mà phân định có hay không việc có thể kết hôn sớm hoặc là nên kết hôn muộn.

Trạng thái tâm lý của con người có thể tùy vào tuổi tác mà có sự điều chỉnh hoặc biến hóa thay đổi trước rõ rệt. Con người ta gần năm 20 tuổi đều đã có nhu cầu mạnh mẽ trong tâm lý và sinh lý về tình dục đối với người khác giới tính. Nhưng người trẻ tuổi ở cái độ tuổi này, khí huyết đương còn cương mãnh, sinh lý thì thành thục có thừa, mà tâm lý thì chưa đủ ổn định. Ở độ tuổi đó mà kết hôn thường khiến cho hai người vợ chồng trẻ đó thiếu sự tương kính với nhau, trong đời sống sinh hoạt chung thì phối hợp khó mà ăn ý.

Còn nếu kết hôn khi mà tuổi đã nhiều một chút, thì dầu cho hai vợ chồng trong sinh hoạt chung có chút khó khăn về sự ăn ý nhưng vì tuổi đã lớn một chút nên tâm lý đã chín chắn, thì cũng dễ dàng nhân nhượng mà thích ứng qua lại với nhau.

Cung Phu Thê tốt đẹp, vợ chồng cư xử với nhau dễ hòa hợp vui vẻ, tảo hôn sẽ không được như vậy. Nếu cung Phu Thê mà xui xẻo, rất cần phải kết hôn muộn mới hợp.

Tuổi của sự kết hôn sớm với kết hôn muộn, thời xưa và ngày nay có một sự chênh lệch rất lớn. Vào thời đại của lão tổ mẫu (bà cố), thông thường thì người trẻ tuổi ngoại trừ những ông có nguyên nhân đặc thù hoặc là hoàn cảnh hạn chế ra, thì thường thường vào khoảng 20 tuổi là kết hôn. Nhưng mà vào thời nay thì đâu đâu cũng thấy nam nữ đến 25, 26 tuổi mà vẫn chưa kết hôn. Xưa nay thì sự khác biệt về số tuổi kết hôn có nguyên nhân chính là do bối cảnh thời đại không giống nhau, chứ nó chẳng liên quan gì đến nhân tố mệnh lý cả.

Người xưa tảo hôn, người nay trì hôn.

Chu tiên sinh: "người xưa tảo hôn, người nay trì hôn, vì sao tình huống hôn nhân của người nay biến đổi nghiêm trọng hơn so với người xưa?"

Vào thời đại của bà cố ngoại thì hôn nhân của người nhi nữ là thường do mệnh lệnh của cha mẹ, theo lời mai mối mà thành hôn. Con cái được nàng dâu chính là dựa vào việc lo toan liệu làm hỉ sự thì con cái mới có vợ. Do đó hôn nhân đại sự của người nhi nữ, cũng chính là đại sự của gia đình. Cái chuyện hôn nhân như thế đã được quyết định bởi cha mẹ trong nhà, cho nên một khi có chuyện gì mà tình hình hôn biến xảy ra, dĩ nhiên là có sự định đoạt từ bàn tay quyền lực của cha mẹ ở trong nhà.

Nhưng thời đại gần đây, cái việc hôn nhân gần như là đều do người trẻ tuổi tự làm chủ đạo. Đôi thanh niên nam nữ, bất kể là trải qua một cuộc ái tình dài thượt lắm cảnh lâm li lệ rơi ướt áo trường bào hay là yêu nhau sét đánh từ cái nhìn đầu tiên, một khi đôi bên tình cảm đã ưng thuận thì có thể kết thành vợ chồng. Nhưng mà hôn nhân dạng này, cũng thường tồn tại cái sự không ưng thuận giữa đôi bên, và rồi xảy ra cái hiện tượng sống với nhau thì nảy sinh mâu thuẫn khiến cho vợ chồng đường ai nấy đi chia lìa đôi ngả.

Hôn nhân nếu nư thuộc về đại sự của gia đình, xả thân vì nó, thì người trẻ tuổi không được phép muốn làm cái gì thì làm, nên hôn nhân tự nhiên không dễ gì mà phát sinh biến đổi được. Nếu như hôn nhân chỉ dựa vào cảm tính của đương sự chỉ vì bản thân thì tính ổn định của hôn nhân rõ ràng là bạc nhược đó mà.

Cùng mệnh bàn, không cùng hôn nhân

Triệu tiên sinh: "Xưa nay, đối với việc cùng lá số mà không cùng hôn nhân, hình như chưa từng có sự giải thích rõ ràng hợp lý. Anh lần này có phát biểu sáng kiến mang tính đột phá, nhưng mà sự công bố đó của anh dường như vẫn chưa phải là toàn bộ phương pháp suy luận trọn vẹn. Vì sao lại có sự bảo lưu vậy?"

Lý luận "Thái Tuế nhập quái", có thể dùng để giải thích vì sao người cùng mệnh bàn lá số (cùng năm tháng ngày giờ sinh) và nguyên nhân vì sao hôn nhân của họ không giống nhau. Do đó cũng có thể lợi dụng lồng vào phương pháp và lý luận để mà giải quyết cái huyền án mà thiên cổ lưu lại này.

Tôi chẳng kiêng dè gì mà nói, đối với phương pháp suy luận và ứng dụng của bộ lý luận này, mặc dù cũng đã từng có rất nhiều bài viết đều dẫn dụng nói rõ, nhưng những phần đã công bố có lẽ chính là như hai phần ba chiêu thức của một bộ quyền thuật, chứ không phải là toàn bộ chiêu thức.

Chẳng qua tôi rất tin tưởng rằng, đối với những người có ý chí quyết tâm về đẩu số, phải biết thu nhận được sự khai mở gì sau khi đọc kỹ cuốn này, nếu như mà dụng tâm điều tra nghiên cứu thêm thì có thể từ lý luận này mà thâm nhập sâu rộng thêm vào mệnh lý đẩu số.

Vấn đề ly hôn

Chu tiên sinh: "Trong khi thảo luận kín và giảng giải phân tích bàn bạc về trường mệnh cách ly hôn, anh thường có những suy luận và dự đoán đúng trọng tâm. Nhưng trong cuốn sách này thì dường như có ý tránh mở ra sự thảo luận về phương diện này. Mà việc này cùng với lúc bình thường anh cùng với người ta luận mệnh, cũng cố ý tránh cái chỗ luận về việc thế nào cũng ly hôn. Hình như là có cái khéo của sự dị khúc đồng công (cùng nốt nhạc nhưng trong giai điệu khác nhau, ý nói về sự khéo biến tấu), rốt cuộc thì là do cái gì?"

Trong truyền thống, người Trung Quốc thường quan niệm là khuyến khích hòa hợp chứ chẳng khuyến khích ly tán. Năm đó ân sư của tôi cũng đã đem cái sự việc ly hôn mà liệt vào một trong ba điều đại răn của việc đàm luận mệnh lý. Có thể nghe theo mà chịu sự ảnh hưởng này, do đó mà ngoại trừ những lúc tham khảo bên lề về lý học ra, đối với những sự việc mà có khả năng xảy ra ly hôn, thì tôi luôn luôn chỉ là điểm trúng thì ngừng. Nhắc nhở người ta phải cẩn thận cư xử cho phải đạo trong phương diện hôn nhân, chứ nhìn chung là không đoán chắc là sẽ ly hôn.

Tôi mặc dù cũng đồng ý với cái thuyết của người phương Tây "Một đôi vợ chồng ly hôn, có thể sau đó sẽ tạo ra 2 đôi có nhân duyên mỹ mãn". Nhưng mà tôi lại cũng cho rằng, con người ta đến lúc trung niên, có sự việc liên quan tới ly hôn, vẫn cần phải biết suy xét lo toan và xử lý thật kỹ càng. Huống chi đối với cuộc tình thứ hai, đã chắc gì nhận được sự mỹ mãn? kết hợp có hạnh phúc? Chẳng có ai có thể dám đứng ra đảm bảo được.

Một cá nhân khi đến tuổi trung niên, một khi phát hiện ra hôn nhân không được mỹ mãn thì dĩ nhiên là bị giảm mất một nửa hạnh phúc đời người rồi, nên sẽ truy tìm quyền lợi ở cuộc tình thứ hai. Nhưng đối với con cái mà nói, thì đúng là cần phải có sự cùng chăm sóc giáo dưỡng của cả cha lẫn mẹ. Nếu như mà cha mẹ ly hôn, thường gieo vào trong tâm hồn của con cái một sự ảnh hưởng xấu mà không gì có thể bù đắp lại được.

Con cái vì cớ gì mà bị ruồng bỏ, vì cái gì buộc chúng phải chịu cái chuyện như thế đến từ sự ly hôn của cha mẹ mà khiến cho cả đời bị ám ảnh vào tâm hồn!

Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, càng không muốn xem nhẹ cái việc luận đoán về ly hôn. Mệnh lý thường gặp cái việc vì một câu nói mà có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc hay bất hạnh của người khác. Do đó làm thế nào để đàm luận về vấn đề ấy, thường thường thì do quan niệm của người luận số bó buộc mà thôi!

Phần luận sự nghiệp

* Tổ chức thương mại mậu dịch quốc tế sinh sôi nảy nở, nếu như vận hạn hoặc cung Thiên Di của bản Mệnh (cung Mệnh gốc) có Lộc tinh cát hóa, thì đúng là vừa vặn ứng với ảnh hưởng tác dụng của [phát tài ư viễn quận], do đó rất có lợi khi buôn bán ở phương xa.

* Trong suy luận về phương diện khởi đầu của một sự nghiệp mới (của đương số), ngoại trừ cung Sự Nghiệp (cung Quan Lộc) có cát tượng của Hóa Lộc dẫn động ra, khi bản cung đại hạn hoặc lưu niên được cường vượng, nếu mà khi có song Hóa Quyền hội vào cung sự nghiệp, thì cũng chủ tại vận hạn hoặc lưu niên đó sẽ khai sáng sự nghiệp mới.

* Cung vị của phía đối tác cộng sự, thông thường sẽ thấy xuất hiện tại cung Thiên Di của đại hạn hoặc lưu niên. Hoặc là ở trên hai phương vị của [Tài], [Quan]. Với sao Hóa mà có lợi cho việc hợp tác, lấy [Lộc] và [Quyền] làm trọng yếu.

* Về cơ bản, tại vận hạn mà đụng tới cung Thiên Di có Kị Sát đối xung thì không nên hợp tác sự nghiệp làm ăn.

* [Dị lộ công danh] - bắt tay vào kinh doanh và sáng lập sự nghiệp với đủ mọi thể loại mà có tính chất không giống nhau. (Hai sao Không Kiếp xuất hiện ở cung Sự Ngiệp).

* Nếu khi làm ăn buôn bán xuất hiện cạnh tranh, thì cung Thiên Di tiên hậu thiên chính là cung vị của đối thủ cạnh tranh. Cung Sự Nghiệp thì chính là cung vị quyết định sự nghiệp làm ăn được thông thuật trôi chảy hay không. Cung Tài Bạch trở thành cung vị then chốt quyết định có kiếm được tiền hay không. (Chú thích: Điền Trạch - chủ có tích trữ được tiền tài hay không; Phúc Đức - chủ có được thụ hưởng tiền tài hay không).

* Cung Thiên Di, chính là một cung vị trọng điểm của việc đàm luận về mối quan hệ nhân tế xã giao, cũng là hành động trong quan hệ nhân tế, đối với người lãnh đạo chóp bu thì chính là một mấu chốt rất trọng yếu.

* Cung Mệnh Thân tiên thiên mà cường vượng, đồng thời cung Sự Nghiệp lại thành cát cách, khi mà các Thiên Can của vận hạn liên tiếp được hóa cát lại vừa dẫn động cung Sự Nghiệp tiên thiên này, trong biểu hiện sự nghiệp của các vận trình ấy thường thường phải căn cứ vào cung sự nghiệp của tiên thiên để mà luận đoán.

* Sự nghiệp mới hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới của một người, rất khó trong khoảng dăm ba năm mà làm được thăng quan tiến chức vùn vụt, của cải thu nhập to lớn. Bởi vậy nhất định phải chú ý đến cát hung của vận hạn trong tương lai, mới có thể coi như là căn cứ trọng yếu để mà xem có hay không cái lợi về sự chuyển biến của tân sự nghiệp hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới.

* Bắt đầu khởi công nhà máy, xưởng sản xuất đều cần đầu tư rất nhiều tiền bạc kinh phí, mà cái dạng tiền bạc đầu tư kiểu này thu hồi vốn cũng rất chậm. Bởi vậy, đối với sự nghiệp đầu tư sản xuất thì ngoại trừ chú trọng xem 2 cung Tài Quan trên mệnh bàn có vượng hay không, còn cần phải đồng thời xem cung Điền Trạch (Tài Khố) có miếu vượng sung túc hay không.

* Về phương diện luận đoán mệnh lý sự nghiệp:

A, Mệnh lý phản ánh về các loại nghề nghiệp khác nhau, chẳng qua là có khuynh hướng theo một loại nào, nhưng quyết chẳng phải nhất định là sẽ tham gia vào ngành nghề đó.

B, Trong khi luận đoán về ngành nghề hành vận biến hóa sự hưng suy khởi phục, thì nhất định phải dựa vào tính chất ngành nghề trong thực tế đương số tham gia, thậm chí phải dựa vào chức vụ đương số đang đảm đương hay tình trạng của chức vụ để mà làm căn cứ nghiên cứu suy luận.

C, Tính chất ngành nghề của đương số tham gia thường hội tụ ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình cũng như do bối cảnh thời đại.

D, Không được bỏ qua tài năng bẩm phú vốn có theo mệnh lý tiên thiên cũng như tình hình tài nghệ sở học hậu thiên của đương số, cái này gọi là sự thích nghi để sinh tồn, là cái lý vượt trội thì thắng mà yếu kém thì bại vậy.

* Đầu tư ròng có thể thu được lợi nhuận hay không, phải xem cung Phúc Đức tiên hậu thiên như thế nào? Cung vị tốt đẹp thì hiển nhiên có thể khiến cho việc đầu tư sẽ kiếm được tiền, nếu mà (các cung ấy) dở thì tiền vốn sẽ một đi không trở lại. Nhưng nếu tham dự kinh doanh, ngoài việc khán hai cung Tài Quan, còn cần phải khán cát hung của cung Thiên Di tiên hậu thiên của (người) hợp tác. Cát thì hợp tác tốt đẹp, hung thì hợp tác chẳng được hài hòa, chẳng chóng thì chày cũng sẽ cãi nhau mà không được thoải mái rồi giải tán, chứ nói gì đến việc kiếm tiền được hay không.

* Kị Lộc xung vào cung Sự Nghiệp, biểu thị một dạng sóng gió của sự nghiệp, vừa có nghĩa cát hung tham bán, khi mà bản cung đại hạn hoặc lưu niên cường thì kết quả chuyển hung thành cát; khi bản cung hãm nhược thì chẳng có cách gì chế ngự được sự mất ổn định của sự nghiệp, sau cùng sẽ chuyển cát thành hung.

* Tử Vi và Thiên Hình, ảnh hưởng tính chất vốn có của nó về dụng cụ khám chữa bệnh, nếu như hội nhập Thân Mệnh hay cung Sự Nghiệp thì sẽ khiến cho có khuynh hướng về nghề nghiệp là tham gia hay có liên quan đến Y Dược.

Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần Điền Trạch>

* Hung tượng của cung Điền Trạch trên mệnh bàn (lá số), chỉ cần không quá <ứng hung> thì không nhất định phát sinh hung tượng <ảnh hưởng làm tổn hại>. Miễn là không quá dấn thân thì đủ để giảm nhiều sự thảm bại trong đầu tư buôn bán làm ăn (tức, yếu mà không cố quá thì đỡ quá cố). Đối với chức nghiệp thì chỉ cần an phận thủ thường, sẽ không gặp phải phản ứng từ hung tượng trong cung Điền Trạch. Trong phương diện buôn bán bất động sản, ngoại trừ nhu cầu cư trú của mình, không nên có đầu tư vào bất động sản hoặc các hoạt động liên quan tới bất động sản để hòng thu lợi nhuận. Nếu không sẽ đem tiền đầu tư vào đất đai vô giá trị, chẳng những tiền vốn vì vậy mà bị ứ đọng, giam hãm, chẳng đem lại lợi gì, mà thậm chí còn khiến cho tiền vốn sẽ một đi không trở lại.

* Thiên Di vượng, Điền Trạch hung <phá>, thường có phát sinh tượng ly hương.

* Kị Sát cùng đến cung Điền Trạch, thông thường người ta gặp cách ấy mà đi mua nhà thì hầu hết đều gian khổ khó khăn, phần lớn số tiền mua nhà đều là do đi vay mượn mà có.

* Buôn bán bất động sản, nếu như lấy kiếm tiền làm mục đích, trong đẩu số mệnh lý và việc mua nhà thuần túy, là có sự phân biệt với mục đích dùng để tự mình ở hoặc dùng để làm bảo đảm giá trị tiền gửi.

Buôn bán bất động sản với mục đích kiếm tiền cần coi kỹ cùng với giao dịch làm ăn, trọng điểm của nó vẫn cùng giống như Sự Nghiệp một dạng, nhất định phải chú trọng đến hai cung <Tài> <Quan> phải đẹp mới hợp.

Nếu như với tư cách tự mình dùng để ở hoặc dùng để đảm bảo giá trị tiền gửi, thì trọng điểm lại ở cung Điền Trạch.

Không được lẫn lộn, không phân biện những điều ấy.

* Cung Điền Trạch có Lộc Kị xung thì thông thường chủ bất động sản được bán ra.

* Cung Điền Trạch có vững như bàn thạch hay không, có được như tường đồng vách sắt hay không, trong mệnh lý đẩu số dùng làm điều kiện trọng yếu của sự phân biện về vận thế có khuynh bại hoàn toàn hay không.

* Điền Trạch hung mà cát hung tương tạp, thường thường biểu thị đúng thực tế về bất động sản có cát hung tham bán. Nếu có sự đầu tư, thì tốt xấu đều có cả. Mà tỉ lệ của tốt/xấu thì lại quyết định ở cát hung của cung điền trạch của đại hạn và bản cung đại hạn, cùng với điều kiện cát hung của cung điền trạch của đại hạn kế tiếp.

* Hung tượng của cung Điền Trạch đại hạn, trong phân tích suy luận việc đầu tư hay mua sắm bất động sản, cũng có nghĩa là về mặt nguồn vốn cũng không được hùng hậu đâu. Do đó, trong phương diện xây dựng mua bán bất động sản thì ngoài ý nghĩa không có đủ vốn, nhất định cần phải dựa vào khoản vay bên ngoài. Nếu như lại hi vọng vào kế mua nhà để đảm bảo giá trị tiền gửi hay là muốn lợi dụng đầu tư vào bất động sản để kiếm lợi nhuận, thì thường thường đều gặp sự trái với nguyện vọng.

Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần cầu tài>

* Nếu hai cung [Tài] [Phúc] của đương số mà phá bại, trong đời sống thực thế là quân nhân, công chức, viên chức, giáo viên - những người không cần sử dụng đến nguồn tiền vốn lớn trong nghề nghiệp riêng của mình. Cũng có thể là thuộc tầng lớp đơn vị phục vụ trong dân gian, với lương bổng không cao, do túng bấn với kinh tế mà khiến cho cuộc sống tương đối nghèo khổ.

* Được hay mất của việc buôn bán cổ phiếu, ngoài khán bản cung vận hạn ra thì còn phải trọng thị hai cung [Tài] [Phúc], phải có cát nhập thì mới tốt đẹp.

* <Lý Tài> của cung Phúc Đức (QNB chú: tức là ám chỉ cái Lý về sự quản về tiền tài của cung Phúc Đức), chính là rốt cuộc về sau có được tiền tài hay không, khảo sát xem (nó) như thế nào để mà vận dụng. Còn tác dụng của cung Tài Bạch lại ở phương diện biểu thị phương pháp hay thủ đoạn được áp dụng để sự cầu tài (tức, đường lối mưu cầu kiếm chác về tiền tài vật chất), cho nên cung Tài Bạch chính là biểu hiện rõ rệt cho phương thức của hành động <cầu tài>.

* Cung Tài Bạch tiên thiên có Kị Sát <Kị hoặc Sát> đồng cung, một khi gặp cung Tài Bạch của vận hạn hậu thiên đi đến chỗ có Kị Sát đồng cung thì trong thu nhập của tiền tài sẽ có chứa khuynh hướng mang <tính chất đánh bạc>.

* Khi đem tiền cho bạn bè mượn hay là đem cho vai lấy lãi, ngoài việc cần phải lưu ý đến cung Phúc Đức có khuyết điểm gì hay không, còn cần phải chú ý đến cung Nô Bộc của vận hạn có hung tượng hay không. Cung Phúc Đức nếu như bị phá, gặp hung sát, thường sẽ khiến cho khoản tiền đã cho vay một đi không trở lại.

* Cung Phúc Đức có thể cho ta thấy được tâm tính căn bản của nhu cầu đối với tiền bạc và khả năng xoay xở xử lý nó như thế nào.

* Ông nào mà tích trữ được tiền hay không, có thể dựa vào công việc nghề nghiệp hay tiền lương được lĩnh khi đi làm. Loại tiền dạng này, nhiều hay ít, khó hay dễ, có thể căn cứ vào cung Tài Bạch để luận đoán.

* Tài Bạch cung là cung vị của chỗ phát sinh ra tiền tài lợi nhuận, còn sau khi thu tiền tài lợi nhuận thì cung vị của phương thức xử lý xoay xở cũng như cách tiêu dùng thì cần xem ở Phúc Đức cung.

* Đại hạn với cung Phúc Đức của tiên thiên mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.

* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,...).

* Cung Phúc Đức của tiên thiên và của đại hạn mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.

* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,...).

* <Lợi nhuận tiền tài> của cung Tài Bạch, dường như có xu hướng từ sự từng trải qua vất vả cực nhọc của chính bản thân mà kiếm được. Nếu như là trải qua việc đầu tư, để người khác giúp mình kiếm tiền thì cung Phúc Đức lại trọng yếu hơn. Bởi vì cung vị này cũng đại biểu cho <phúc phận> của một cá nhân là lớn hay nhỏ, là dày hay mỏng.

* Đầu tư ròng là đã có tiền rồi, cũng là tiền của cung Phúc Đức. Bởi vậy, cung Phúc Đức mà hung thì chẳng có cách gì trông cậy vào việc từ đầu tư ròng mà thu được tiền tài lợi nhuận lớn được. Còn tiền của việc đầu tư tự kinh doanh lại đến từ tiền tài ở 2 cung Tài Quan, trường hợp này lại khó coi ở cung Phúc Đức. Những cái đó có sự khác biệt vậy!

* Luận đoán về mưu cầu tài lợi, ngoài cung Mệnh và cung Tài Bạch ra, một cung vị trong điểm khác chính là ở ngay cung Phúc Đức. Còn cung Tài Bạch thì coi như là cung vị luận đoán về <phương thức cầu tài> (phương thức gồm có: lương bổng, buôn bán, tay nghề khéo, cách kiếm tiền là chính hay bất chính,...). Cũng có thể nói cách khác: Mọi thứ lấy con người ta làm chủ, mà tích tượng mệnh lý của nó là lấy sự lao tâm lao lực để mà cầu đắc tài lợi, sẽ dùng tổ hợp tinh diệu của cung Tài Bạch để tiến hành phân định nghiên cứu. Mà tác dụng ảnh hưởng của cung Phúc Đức trên phương diện mưu cầu tiền tài lại <thuộc về dấu hiệu biểu hiện của một dạng dục vọng mạnh hay yếu đối với tiền tài>. Nếu như cung Phúc Đức mà đã cường với vượng, thì đương số có tâm thái tính nết đối với việc mưu cầu tiền tài vật chất sẽ là cực kỳ mãnh liệt. Do đó, sau khi anh ta có tiền vốn dư dả thì anh ta càng tích cực lợi dụng cái nền tảng tiền vốn này để mà sinh lợi nhuận. Người mà cung Phúc Đức nhược hãm, cho dù có tiền cũng dường nhu không có cái tâm tính mãnh liệt của dạng <dụng tài cầu tài> (dùng tiền để mưu cầu sinh ra thêm tiền).

* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.

* Thông thường, người có Mệnh cách mà tương tối cương cường mà lại hội sát tinh thành cách cục, thì đều vốn có sẵn cái tính mạo hiểm. Loại người này thường liều lĩnh, một khi có cơ hội là hành động đem tiền vốn tập trung đưa vào loại có <tính chất đầu cơ>.

Còn người mà Mệnh cách nhu nhược, lại không có sát tinh, cũng lại không thành cách cục, thì bản tính trời sinh là dường như rất bảo thủ. Do đó khi anh ta muốn lợi dụng <dùng tiền kiếm tiền> thì sẽ lựa chọn phương thức mà không mang tính chất vụt đến vụt đi. Cho nên phương pháp cầu tài của dạng người này là lựa chọn loại có <tính chất đầu tư>.

* Tiền tài của cung Tài Bạch, chủ về phương pháp của việc cầu tài, kiếm tiền khó hay dễ, đạt được nhiều hay ít.

Tiền tài của cung Phúc Đức, chủ về lợi dụng cái tiền tài sẵn có để lấy tiền mà đẻ ra tiền, cũng là một dạng bỏ tiền vốn ra để sinh lợi nhuận <đầu tư ròng>.

Tiền tài của cung Điền Trạch, là chủ về người đầu tư đem tiền vốn của mình có đầu nhập vào trong cái nghề kinh doanh của chính mình.

Nếu như Khố vượng thì tài tụ, biểu thị khả năng kinh tế hùng hậu giàu có của đương số, có thể thực hiện những việc đầu tư về đại ngạch mà mang tính chất lâu dài. Vì tiền vốn không ít cũng chẳng thiếu và không gặp phải lo ngại về khó khăn trong việc xoay vòng vốn, cho nên trong sự nghiệp kinh doanh thì đương số rất hiếm gặp phải khó khăn trong việc điều động tiền vốn.

Nếu như Khố vị mà bị phá mà lại muốn đầu tư sự nghiệp to lớn thì nhất định sẽ đến lúc sự nghiệp kinh doanh có xu hướng gặp phải tình huống khó khăn về xoay vòng vốn mà dẫn đến sụp đổ. Cho nên người mà Khố vị vận hạn hung sẽ không hợp với việc đầu tư kinh doanh quá lớn, càng bất lợi ở những ngành nghề sản xuất mà thu hồi vốn đầu tư quá chậm.

Hung tượng của <Mệnh với Tài cung cấu thành nên> của <Tài dữ tù cừu>, cùng với cung Phúc Đức và cung Điền Trạch bị phá tổn bại tài, là bị tài vụ ứ đọng gây ra nhưng chúng không quá giống nhau. Vấn đề tài vụ của <tài dữ tù cừu> có nguyên nhân từ mối tranh chấp kiểu <không từ thủ đoạn> gây ra. Còn cái việc Phúc Điền bị phá thì dường như thuộc về nguyên nhân do thiếu tài chính mà gây ra khốn cảnh.

Cùng một dạng vấn đề về quản lý tài sản nhưng mà lại có tính chất với nguyên nhân khác nhau rất lớn.

* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.

Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần tạp luận>

* Người mà Mệnh Thân kiến Sát Kị, được gọi là Mệnh lao lực (Lưu Vĩ Vũ).

* Người mà Mệnh Thân mà gặp nhiều sao trong số lục cát tinh, có Khoa Quyền Lộc cát hóa, có thể nói là quý khí ổn trọng rõ ràng (Đàm chú: Nếu mà Mệnh Thân cung có Đế tinh thì càng thêm nghiệm). Ngược lại, nếu người mà Mệnh Thân mà gặp ít sao trong số lục cát, lại tụ các sao thuộc lục sát, lại không có Khoa Quyền Lộc cát hóa, thì dù cho trong nhất thời có được lên vị trí cao phong vân tế hội, cũng không được bền lâu. (Lưu Vĩ Vũ)

* Với các câu phú liên quan đến chết chóc như:

A, Cự Hỏa Dương -- chung thân ải tử; (cuối đời tự vẫn)

B, Xương Linh La Vũ -- hạn chí đầu hà; (hạn đến thì đâm đầu xuống sông)

C, Xương (Khúc) Tham --- phấn thân toái cốt; (tan xương nát thịt)

D, Phá Khúc -- khủng lâm thủy dĩ sinh tai; (ngại gặp nước vì sẽ sinh tai họa)

E, Điếu Khách Tang Môn -- Lục Châu hữu trụy lâu chi ách (Nàng Lục Châu gặp tai ách phải nhảy lầu).

* Liên quan đến tự sát như:

A, cắt cổ tay, mổ rạch bụng, đâm đầu vào tường, mà thấy máu: Hồng Loan + Dương Nhận;

B, Nằm đường ray, sự cố giao thông: (không thấy ghi gì cả)

C, Uống thuốc/hóa chất: Cự Môn hội Kị Sát;

D, Ngạt khí gas, hơi độc: Kim hỏa tương khắc (Lưu Vĩ Vũ).

* Từ mệnh bàn đẩu số khán về tích tượng (dấu tích và hình tượng) của phương diện sự cố về sức khỏe. Ngoài cung Tật Ách ra, còn cần phải cân nhắc đến cung Mệnh Thân, trong kết cấu của các tinh diệu có các hung ác sát cách hay không. Rất nhiều người từ bé thì đã vì ác tật hoặc sự cố ngoài ý muốn, mà hình thành khuyết tật trở ngại cả đời, về đại thể thì cung Mệnh Thân và cung Tật Ách đều có xuất hiện kết cấu các cách hung sát và ác cách.

* Trên phương diện luận đoán về sức khỏe, cung Tật Ách tiên hậu thiên chỉ là một trong những cung vị trọng điểm, chứ không phải là căn cứ duy nhất về cung vị của vấn đề luận luận đoán sức khỏe. Các cung Mệnh Thân tiên hậu thiên và bản cung đại hạn, cũng thường có thể lấy làm căn cứ của luận đoán về tình trạng sức khỏe.

* Trên cơ bản, tinh diệu của cung lục thân, nếu mà có thể [nhu hòa] rõ rệt hay là [cương nhu tương tế] thì được coi như là lý tưởng.

* Cung Phúc Đức cũng hàm ý [Duyên Phúc] của một cá nhân là là dày hay mỏng.

* Cung Mệnh Thân tiên thiên nếu không hội cát diệu thì ít được trợ lực. Nếu như mà lại hội Kị Sát thì ứng với việc đời lại là:

A, Không chỉ thiếu đi sự trợ giúp, dìu dắt của quý nhân, mà ngay cả những người bằng vai phải lứa cũng như những thuộc hạ cũng chẳng có được nhiều trợ giúp. Loại này rất hay gây sự xích mích với lãnh đạo cũng như với đồng nghiệp.

B, Không hội cát mà chỉ hội sát, chỉ cần mệnh cung mà không cường vượng thì các Kị Sát sẽ phát huy tác dụng ảnh hưởng của kẻ tiểu nhân, loại tiểu nhân này thường sẽ những việc thành công thì chẳng đủ nhưng những việc phá bại thì có dư.

* Liêm Trinh hóa Kị viết [Tù], lại hội Lưu Hổ, lưu niên Quan Phù, thường sẽ khởi quan tụng. (Đàm chú: Cự Môn hóa Kị mà hội với hai sao Lưu đó cũng ứng nghiệm).

* Điêu khắc gia, bác sĩ ngoại khoa, thông thường thì ở Mệnh cách hội các sát diệu Kình Đà.

* Chính tinh phân làm 2 loại:

A, Tử Phủ Liêm Vũ Tướng Sát Phá Lang;

B, Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.

Loại A thì đầu tiên coi trọng Tả Hữu, vì loại A có thể phân làm 2 loại là [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] và [Sát Phá Lang]. Đối với [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] nếu mà không có Tả Hữu thì không thành cách [Quân thần khánh hội] chỉ được luận là cô quân, chẳng có cách nào để mà phát huy trọn vẹn tính chất đặc biệt của Đẩu chủ chủ ti hiệu lệnh. Đối với loại [Sát Phá Lang] mà không thấy Tả Hữu thì không thể thi triển được trọn vẹn tính khai mở sáng tạo của nó, mà thành ra rối loạn không ổn định.

Loại B thì trước tiên coi trọng Xương Khúc. Về phần Khôi Việt thì bất kể tinh diệu như thế nào, bất kể cách cục ra làm sao, đều mừng tương hội hoặc đồng cung với chúng. (Loại B thực sự dễ cấu thành Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân)

* Cung Điền Trạch tiên thiên tốt đẹp, thì phương pháp phân biện cát hung của cung Điền Trạch hậu thiên là: quyết định ở cát hung của bản cung đại hạn như thế nào, nếu như bản cung đại hạn mà cát, thì cát tượng của Khố của Điền Trạch thì chính là trong gian khó có được sự tích lũy; nếu như bản cung đại hạn hung thì Điền khố biểu hiện tượng là có gian khổ nữa thì cũng không cách gì tích lũy được.

* Thảo luận suy xét về vận cần kiểm tra xem Mệnh cung trước tiên. Nếu như có Kị Sát giao xung nghiêm trọng lại không thấy cát diệu, đại khái từ nhỏ đã khó có được thành tựu tốt. Cái đó là đạo lý tự nhiên. Hơn nữa, chiểu theo việc kiểm tra sự biến hóa của đại hạn, nếu như vận hạn quá yếu nhược hoặc là có Kị Sát giao xung nghiêm trọng, cũng không dễ để mà hạ quyết tâm đọc sách. Hiểu rõ những cái này sẽ dựa vào sự dẫn động của lưu niên cùng các loại kiểm soát khác để mà suy luận. (Lưu Vĩ Vũ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân

Tiểu hạn hành vận và Lưu niên hành vận

Một bài viết diễn giải về Tiểu hạn và Lưu niên trong việc giải đoán vận hạn. Mời các bạn cùng đọc tham khảo.
Tiểu hạn hành vận và Lưu niên hành vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiểu hạn và Lưu niên đều chủ về cát hung họa phúc của một năm. Tiểu hạn dựa vào niên chi và giới tính năm sinh quyết định mỗi một tuổi trong cuộc đời là thuộc Cung nào. Mỗi năm chủ về một Cung, sau 12 năm lại quay về vị trí ban đầu. Lưu niên là lấy niên chi của năm hiện tại, quyết định năm đó là Cung nào trong mệnh bàn, một năm đổi một cung. Cung của Tiểu hạn và Lưu niên là cung Mệnh của năm đó, dựa vào đó xác định 11 cung: Huynh đệ, Phu thê, Tử nữ, ... , của Tiểu hạn và Lưu niên, sau đó dựa vào mệnh bàn của Tiểu hạn và Lưu niên, tổng hợp phán đoán vận khí của năm đó.

Năm của Tiểu hạn và Lưu niên chỉ bắt đầu từ mồng 1 tháng 1 âm lịch (đoán mệnh theo Bát tự là bắt đầu từ Lập xuân). Số tuổi của Tiểu hạn là tuổi giả, tức khi sinh là 1 tuổi, sau đó cứ đến mồng 1 tháng 1 năm âm lịch tiếp theo tính thêm 1 tuổi.

Tiểu hạn và Lưu niên đều có thể dùng để phán đoán vận khí của một năm, nhưng Tiểu hạn chủ Thể, Lưu niên chủ Dụng, cả hai phải hòa hợp, hài hòa. Mà ứng nghiệm với thiện - ác của sự việc thì luôn luôn phát sinh ở Lưu niên. Nhưng bất luận là Tiểu hạn hay Lưu niên đều quy về Đại hạn, tức lấy Tiểu hạn, Lưu niên làm chủ đạo còn Đại hạn là phụ, tham khảo Mệnh cung và Thân cung.

Nói cách khác, thì cát hung của Tiểu hạn hay Lưu niên chịu ảnh hưởng của Đại hạn, đồng thời bị hạn chế trong một phạm vi cát hung cố định, và không tách rời Thân cung và Mệnh cung. Đợi hành vận đến Tiểu hạn hoặc Lưu niên, một khi thời cơ chín muồi, cát hung tự nhiên sẽ ứng nghiệm.

Bốn Hóa tinh cũng có vai trò quan trọng để phán đoán cát hung của Tiểu hạn và Lưu niên, lần lượt dựa vào cung Can của cung Lưu niên và Tiểu hạn trong mệnh bàn, sắp xếp ra bốn hóa tinh của Tiểu hạn và Lưu niên để phán đoán cát hung.

Tiểu hạn của Tử vi Đẩu Số, mệnh nam hành vận thuận theo chiều kim đồng hồ, mệnh nữ hành vận ngược chiều kim đồng hồ. Lưu niên của nam hay nữ, đều hành vận thuận theo chiều kim đồng hồ. Do đó, tiểu hạn và lưu niên của mệnh nữ có cơ hội cùng cung, tiểu hạn và lưu niên của mệnh nam không có cơ hội cùng cung.

Khi Đại hạn và Tiểu hạn cùng cung, hoặc Đại hạn và Lưu niên cùng cung, thì cát hung họa phúc của cung này hiển lộ rõ. Khi Tiểu hạn và Lưu niên của mệnh nữ cùng cung thì cát hung họa phúc của cung này càng rõ hơn, nếu lại gặp Đại hạn cùng cung, thì năm đó hành vận cần đặc biệt chú ý.

Ngoài ra, khi phán đoán cát hung của Lưu niên, bên cạnh việc cần xem cung của Tiểu hạn và Lưu niên, còn dựa vào niên can của 10 lưu tinh: Lưu lộc, Lưu dương, Lưu đà, Lưu khôi, Lưu việt, Lưu xương, Lưu hóa lộc, Lưu hóa quyền, Lưu hóa khoa, Lưu hóa kị. Tính chất của những lưu tinh này, giống các sao Lộc tồn, Kình dương, Đà là, ... , sau đó lại căn cứ vào những lưu tinh này để phán đoán vận khí của năm đó.

(Nguồn: blog tử vi tinh quyết)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiểu hạn hành vận và Lưu niên hành vận

Giải mã mơ thấy phật bà quan âm là điềm gì? –

Giấc mơ được xem là sự phản ánh lại những suy nghĩ, nhưng sự việc trong tiềm thức của bạn. Do đó, không có gì ngạc nhiên nếu bạn bạn đi chùa, hình ảnh Đức Phật cùng với niềm tôn kính của bạn đối với Ngài đã tác động sâu sắc lên tâm thức nên khi ngủ t
Giải mã mơ thấy phật bà quan âm là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã mơ thấy phật bà quan âm là điềm gì? –

Kiến thức phong thủy. Cách bố trí ánh sáng phòng khách sang trọng –

Nguyên tắc phong thủy đặc biệt cấm kỵ phòng khách thiếu ánh sáng. Phòng khách đầy đủ ánh sáng sẽ mang đến cho gia đình bạn may mắn, hài hòa và yên bình Hãy tham khảo những gợi ý bài trí ánh sáng dưới đây để tìm được giải pháp hợp lý cho căn phòng! Ph

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyên tắc phong thủy đặc biệt cấm kỵ phòng khách thiếu ánh sáng. Phòng khách đầy đủ ánh sáng sẽ mang đến cho gia đình bạn may mắn, hài hòa và yên bình

Hãy tham khảo những gợi ý bài trí ánh sáng dưới đây để tìm được giải pháp hợp lý cho căn phòng!

Phòng khách có tầm quan trọng đặc biệt trong ngôi nhà bởi đây không chỉ là không gian sinh hoạt chung cho cả nhà mà còn là nơi để chủ nhân tiếp đãi khách quý, do vậy không gian này luôn cần được đảm bảo sao cho đủ sáng. Nhưng bố trí ánh sáng thế nào cho hợp lý, đẹp mắt nà hợp phong thủy vẫn còn là băn khoăn của nhiều người.

1847161e7370

Ánh sáng tự nhiên tỏa đều đồng thời có yếu tố có lợi cho sức khỏe vì vậy bạn nên tận dụng nguồn sáng tự nhiên càng nhiều càng tốt. Nếu ngôi nhà của bạn ít mặt thoáng, bạn có thể sử dụng kính hoặc gạch kính thay cho những bức tường gạch thông thường. Giếng trời cũng là một giải pháp cung cấp ánh sáng hiệu tuyệt vời cho nhà thiếu sáng.

39c6a42e7370

Ngoài ra, bạn cũng nên sử dụng song song các loại đèn chiếu sáng. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều chủng loại đèn như đèn chùm, đèn hắt, đèn âm trần, âm tường với nhiều mẫu mã đa dạng, đẹp mắt, giúp tạo ra điểm nhấn trong ngôi nhà. Nếu muốn ánh sáng trong phòng được tự nhiên, bạn có thể sử dụng loại đèn âm trần. Loại đèn này được đặt trong khoang trần, tạo ra ánh sáng sẽ tương phản với trần nhà và mang đến cảm giác như chính bề mặt đó đang phản chiếu ánh sáng.

2b24f5dentran1cfd6

Nếu bạn muốn nhấn mạnh một chi tiết trong phòng khách, hãy sử dụng ánh sáng để làm điểm nhấn cho chi tiết đó. Những chiếc đèn chiếu thẳng hoặc đèn huỳnh quang đặt phía sau đồ nội thất trong phòng sẽ làm nổi bật những bức tranh, bức điêu khắc… bạn muốn hướng đến. Nguồn ánh sáng trang trí ở những góc đặc biệt cũng đem lại cho phòng khách cái nhìn độc đáo hơn.

e64462dentran1b8bbc

Trên thực tế, chỉ cần 2 đến 3 loại đèn được bố trí hợp lý là phòng khách của bạn đã rất đẹp và đủ sáng. Nếu tham sử dụng quá nhiều loại đèn cũng như bố trí quá nhiều điểm nhấn ánh sáng, căn phòng của bạn rất dễ bị rối. Do vậy trước khi tiến hành bố trí lắp đặt hệ thống chiếu sáng, bạn nên lên ý tưởng về ánh sáng.

a46447dentuongb8bbc

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Cách bố trí ánh sáng phòng khách sang trọng –

Ăn tết ta theo ngày dương, nên hay không ?

Trong thời gian gần đây, tại Việt Nam có một cuộc thảo luận thu hút sự quan tâm của nhiều người, xung quanh chủ đề : Có nên nhập Tết âm lịch với Tết dương lịch, hay nói cách khác ăn Tết ta theo ngày dương. Sự thay đổi đụng đến ngày Tết, đụng chạm đến nếp sống và đời sống tinh thần của hàng chục triệu người Việt Nam, nhận được nhiều ý kiến hết sức trái chiều.
Ăn tết ta theo ngày dương, nên hay không ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý kiến thay đổi thời gian Tết cổ truyền theo tấm gương của Nhật Bản cách đây hơn 1 thế kỷ của Giáo sư Võ Tòng Xuân nhận được nhiều ý kiến chỉ trích, nhưng cũng không ít người đồng tình. Gần đây nhất, VTC - một trang mạng ở Việt Nam, đăng tải ý kiến của Giáo sư Xuân và một số ý kiến tiêu biểu - đã nhận được khoảng 60.000 bình luận.

Tết cổ truyền hay Tết nguyên đán vào dịp đầu tháng Giêng âm lịch hàng năm là một dịp hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Vì sao nhà nông học Võ Tòng Xuân đã đưa ra ý tưởng này ? Các phản ứng phản đối và đồng tình ra sao ?

Đến với tạp chí Cộng đồng của RFI lần này có nhà sử học Dương Trung Quốc, các nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền, Vương Trí Nhàn, nhà văn Tạ Duy Anh, nhà kinh tế học Đỗ Tiến Long, giáo sư Võ Tòng Xuân cùng các bạn Ngô Thị Hồng Nhung và Thái Dzuy.

Đã từng có người muốn thay đổi thời gian Tết âm lịch

Mở đầu tạp chí, nhà sử học Dương Trung Quốc cho chúng ta biết sơ qua một cái nhìn chung về lịch sử các đề nghị thay đổi lịch Tết cổ truyền ớ Việt Nam và các phản ứng của xã hội.

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Đúng là, có lẽ là giáo sư Võ Tòng Xuân bắt đầu từ thực tiễn của nước Nhật Bản, bước vào công cuộc Duy Tân ở đầu thế kỷ XX, đã có một quyết định rất dứt khoát, tức là lấy ngày dương lịch làm ngày đầu năm. Như thế là, theo truyền thống của nhiều nước Á Đông, vẫn sử dụng âm lịch, thì coi như là từ bỏ. Vấn đề tương tự như thế, tôi thấy ở Việt Nam chưa đặt ra (trước ông Võ Tòng Xuân), nhưng đặt ra theo một cách khác.

Cách đây 10, 15 năm, có một vị giáo sư về dinh dưỡng học, cũng là người rất có uy tín xã hội, và cũng có một băn khoăn trước tình hình, thực trạng ngày nghỉ Tết nó ảnh hưởng đến nếp sống, hoạt động của kinh tế phát triển, cho nên đưa ra một dự kiến rằng, phải chăng cứ sau ba năm thì ăn Tết một lần, tức là cộng tất cả những ngày nghỉ của ba năm ấy thành một thời gian khá dài, để như ông nói là, « để ăn Tết cho ra Tết », « chơi cho ra chơi », « còn lúc làm thì ra làm ». Tôi nhớ rằng hồi đó, các phản ứng cũng rất gay gắt.

Chuyện đó cũng bẵng đi, cho đến lúc giáo sư Võ Tòng Xuân có đưa ra một phương thức, đó là ta chấp nhận ngày Tết dương lịch, còn ngày Tết âm lịch, có lẽ cũng giống Nhật Bản thôi, bỏ hẳn thì không bỏ hẳn, nhưng dành cho một bộ phận dân cư, những người có tuổi, có thời gian, còn phần lớn những người đang tham gia lao động xã hội, thì chủ yếu ăn Tết theo dương lịch.

Ngày càng đông người ủng hộ ăn Tết ta theo ngày dương

Tiếp theo đây là tiếng nói của giáo sư Võ Tòng Xuân, điểm lại quá trình gần 10 năm kể từ khi ông nêu ra ý tưởng ăn Tết âm lịch theo ngày Dương và một số ý kiến chung của ông trong vấn đề này.

Giáo sư Võ Tòng Xuân : Đúng là cái ý kiến của chúng tôi, khi nêu ra lần đầu tiên, trong mục Chào buổi sáng trên báo Thanh niên, ngày 14/02/2005, đã có rất nhiều ý kiến phản hồi, và có thể nói, đại bộ phận không đồng tình với ý rằng ăn Tết ta theo ngày dương lịch. Sau đó, bẵng đi một thời gian, thì tới 2008, có một số ý kiến trên một số blog cũng nêu ra vấn đề này, và cũng đã gây ra những tranh luận cũng sôi nổi. Qua đến năm 2009, 2010 cũng thế, và nhất là trong năm 2012, tôi bỗng thấy rất nhiều bà con nêu ra. Nhưng rồi cũng bị phản kháng rất nhiều. Rồi các blog cũng đưa ra những ý kiến phản hồi, vừa ủng hộ, vừa không ủng hộ.

Trên trang web của VTC, thì các anh VTC yêu cầu tôi nêu vấn đề này lại. Tôi và cả các anh biên tập VTC rất ngạc nhiên, vì lần này phản hồi rất đông đảo. Theo các anh, thì có hơn 60.000 phản hồi. Và bản thân tôi, thấy cái số không đồng tình nó bớt đi, và số đồng tình thì tăng lên. Tuy nhiên, số đồng tình vẫn còn là thiểu số, khoảng chừng lối hơn 30%-40% trong số các ý kiến phản hồi lại. Nói cách khác qua thời gian gần 10 năm, cái số người Việt Nam, có ý thay đổi ngày ăn Tết ta của chúng ta để thực hiện trong ngày dương lịch, thì mỗi ngày một đông hơn.

Tôi thấy cái này là một khuynh hướng rất là tất yếu, vì chúng ta hiện nay đang trong cái thời hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời ở trong nước, số người có công ăn việc làm cũng tăng lên, trừ trường hợp bà con nông dân ớ nông thôn, thì công việc ở nông thôn thì cũng ít. Phải nói rằng, nghĩ tới ăn Tết, ở nông thôn rất là muốn ăn Tết theo kiểu cổ truyền của mình, vì bà con mình có rất nhiều thời giờ. Thành ra tôi cũng nghĩ rằng, qua các ý kiến của độc giả trên mạng không đồng tình (với việc ăn Tết ta theo ngày dương lịch), thì gồm những người mà chắc chắn tôi biết, có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Và đặc biệt là bà con của chúng ta có ước muốn duy trì các tập quán cổ truyền của mình, họ nêu ra những cái như là : « Hạ nêu » như thế nào, rồi « đưa ông Táo »…

Bên cạnh đó, trong ý kiến của rất nhiều độc giả, kể cả các nhà doanh nghiệp, và rất nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa, tôi thấy khuynh hướng « ăn Tết hội nhập », tức là ăn Tết ta theo ngày dương lịch được rất nhiều người ủng hộ.

Thay đổi ngày ăn Tết không gây mất mát gì cả

Thành ra tôi nghĩ, ăn Tết âm lịch với các tập quán cổ truyền, đẹp, có từ lâu, mình thực hiện nó vào ngày dương lịch, thì không bị mất mát gì cả. Chỉ có cái lạ là, bây giờ mình ăn Tết vào ngày Tây. Tôi chắc chắn là, trong khuynh hướng xã hội Việt Nam chúng ta mỗi ngày kinh tế một tốt hơn, ai cũng có việc làm hết, và ai cũng bận rộn vì công việc của mình, để làm thế nào mình làm thật nhiều, để mình có nhiều tiền, để gia đình mình khấm khá hơn, cho đất nước mình là phát triển kịp năm châu.

Một tập quán cổ truyền vào ngày âm lịch mà đổi sang ngày dương lịch, thì chắc chắn nó kỳ quá, nó không giống ai hết, nhưng mà từ từ chúng ta tập riết cho nó quen, thì tôi nghĩ chắc mình cũng quen theo. Như bây giờ, có một điều mà bây giờ mình cũng không thể thay đổi được về ngày âm lịch là ngày chết của người thân của mình. Ngay bây giờ, đám giỗ của bác Hồ, kỷ niệm ngày sinh cũng như ngày chết của bác Hồ, là mình cũng theo dương lịch hết chứ không theo âm lịch. Cái đó mình thấy không có gì. Tại vì mình nghĩ quen rồi, đảng chúng ta, Nhà nước chúng ta làm theo dương lịch, thì bây giờ tất cả đều theo dương lịch, mình thấy quen quá. Nhưng bây giờ, biểu một gia đình nào đó ở nông thôn, làm đám giỗ của ông nội vào ngày dương lịch, thì họ chống đối ngay.

Thành ra, tôi thấy mình đưa vấn đề này ra, thì tôi nghĩ rằng là vào năm 2005, nó còn quá sớm. Bây giờ tới năm 2013, thì tôi thấy khuynh hướng cũng có chiều đi theo cái ý là, chúng ta phải làm gọn lại cái tập quán cổ truyền của mình. Mình cử hành nó vào ngày thuận lợi hơn, tức là ngày dương lịch, thì khuynh hướng này từ từ nó tăng lên. Tôi cũng mong rằng là, khi xã hội Việt Nam chúng ta phát triển mạnh hơn nữa, và mọi người đều có công ăn việc làm ra tiền, làm ra nhiều tiền, thì chúng ta sẽ thấy rằng là việc chúng ta cử hành các tục lệ cổ truyền theo dương lịch cũng không có trở ngại gì về mặt tâm linh, mà trái lại, nó còn thuận lợi cho công việc của chúng ta, hội nhập với cả thế giới.

Đề xuất của giáo sư Võ Tòng là rất can đảm, nhưng cần cân nhắc cách làm

Phản hồi đề xuất của ông Võ Tòng Xuân, nhà văn Tạ Duy Anh cho biết :

Nhà văn Tạ Duy Anh : (...) Trước hết, tôi coi đề xuất của giáo sư Võ Tòng Xuân là một sự can đảm rất lớn, nếu xét trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Can đảm, vì giáo sư Võ Tòng Xuân chắc chắn biết rằng mình phải đối mặt với nhiều ngàn năm truyền thống, tôi nghĩ như vậy, của một dân tộc, mà theo tôi, ngại thay đổi vào loại nhất thế giới. Càng sống, càng nghiệm ra điều đó. Tôi cũng đọc khá nhiều phản hồi. Có lẽ đây cũng là một vấn đề mà nhiều cư dân mạng quan tâm vào loại nhất.


Điều tôi bất ngờ không phải là con số quá nửa, thậm chí 60-70% phản đối, mà là cách phản đối của những người thuộc quá nửa số ý kiến. Tiện đây, tôi cũng muốn nói đến cái văn hóa bình luận ở người Việt đang có vấn đề. Nó khiến cho nhiều tâm huyết bị coi rẻ. Tôi có đọc vài chục bình luận về ý kiến của giáo sư Võ Tòng Xuân, tôi thấy rằng nhiều người bình luận, thiếu cả cái văn hóa tối thiểu.

Giáo sư Võ Tòng Xuân đặt vấn đề nhập Tết ta với Tết tây trước hết là xuất phát từ trách nhiệm của ông với đất nước. Tôi nghĩ ông không có bất cứ động cơ vụ lợi nào khác cả. Bởi vì ông chả được cái gì. Nếu là vì cá nhân, thì ông đã không làm, ông ấy sẽ không chuốc họa vào thân như vậy.

Nhưng những lý lẽ mà giáo sư Võ Tòng Xuân đưa ra, để bảo vệ lập luận của mình, chỉ dựa trên những quan sát thuần túy về mặt kinh tế. Và tôi nghĩ, có thể sẽ có một số phiến diện. Cũng có một vài ý kiến chỉ ra, ví dụ như tôi thấy ý kiến của giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, cũng là một ý kiến đáng chú ý để nó cho thấy là, có thể có những phiến diện trong lập luận của giáo sư Võ Tòng Xuân, nó chưa thật thấu đáo. Nhưng mà tôi nghĩ cái ý kiến của giáo sư Võ Tòng Xuân rất cần cái sự bàn bạc, nên được xem xét một cách nghiêm túc, từ nhiều học giả, từ nhiều bạn đọc, chứ nó không đáng và không nên có sự miệt thị đối với một ý kiến chân thành như vậy.

Tôi ủng hộ giáo sư Võ Tòng Xuân về mục đích mà ông mong muốn. Khi đưa ra vấn đề như thế, quả thật là có những vấn đề như giáo sư nói. Thế nhưng mà cái cách làm của giáo sư, thì có lẽ nên phải cân nhắc trong bối cảnh một xã hội thuần « phương Đông » như Việt Nam, một xã hội lệ thuộc vào những phong tục tập quán. Tôi nghĩ rằng, việc bỏ cái ngày Tết cổ truyền là thiếu khả thi.

(…) Các hủ tục đâu phải chỉ có trong tết cổ truyền, mà nó có sẵn trong đời sống xã hội Việt Nam, trong đời sống hàng ngày. Ngày nào, giờ nào cũng xảy ra những chuyện như thế, thậm chí ngày càng gia tăng, có chiều hướng phức tạp thêm. Chỉ có điều ở dịp Tết, do thời gian nghỉ, do sự sung túc về vật chất..., những hủ tục ấy tăng cường về mức độ và cường độ, và thể hiện của nó rõ nét, đậm đặc hơn. (…) Các hủ tục phải được loại bỏ ra khỏi đời sống tinh thần của người Việt, đấy là cái gốc của vấn đề. Làm cái này, nếu chỉ những hoạt động cá nhân, ngăn chặn đơn lẻ, bằng pháp luật, bằng cấm đoán, bằng kỷ luật công chức chẳng ăn thua gì cả, không giải quyết được vấn đề căn cốt của nó. Nhiệm vụ này theo tôi, phải giao cho nền giáo dục quốc gia. Mà nếu nền giáo dục quốc gia, thực sự bắt tay vào ngay từ bây giờ, thì tôi nghĩ phải hàng trăm năm nữa mới có thể khắc phục được tình trạng hiện nay (...).

Chủ trương cải cách phong tục từ đầu thế kỷ XX vẫn còn dang dở

Nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn ủng hộ quan điểm của ông Võ Tòng Xuân, và đặc biệt nhấn mạnh đến những sức ỳ của nền văn hóa Việt Nam, cũng như các nỗ lực đòi hỏi thay đổi vẫn còn dang dở của nhiều thế hệ các nhà cải cách văn hóa, từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn : Tôi có theo dõi ý kiến của giáo sư Võ Tòng Xuân, và tôi thấy rất tán thành, chỉ có điều khó thực hiện, vì trong xã hội có xu hướng tâm lý là thích quay trở về Tết cổ truyền. Đa số người mình, bước vào xã hội hiện đại, vẫn mang tâm lý nông dân, tâm lý nông thôn, hướng về làng quê, hướng về những người cùng huyết thống. Thế và, vẫn như ngày trước, rất nhiều người đi làm ăn ở khắp nơi, vẫn thích về quê, mua lấy một chân gì ở trong làng, rồi thì tết nhất quay về làng hưởng lại không khí ngày trước chẳng hạn...

Tôi thấy, hiện nay, có xu thế, cứ thích lặp lại bằng được, đúng như phong tục tập quán, và coi như thế là một điều đáng tự hào. Tôi thấy không được, vì một là, việc đó không bao giờ có thể làm được, vì chúng ta đã sang một xã hội khác với xã hội cổ rồi. Hiện nay, có một sự trái ngược như thế này : một mặt thì rất thích quay trở về, một mặt lại không có sự tìm hiểu một cách nghiêm túc. Cái việc ăn cả hai Tết, cả âm lịch và dương lịch, theo tôi là một sự nghỉ ngơi quá dài, và nó cản trở lao động sản xuất bình thường của xã hội.

(…) Ngày trước (nhà văn) Thạch Lam có lần đã nói, chúng ta hình như quá lo cho những người chết, mà quên cả những người sống. Cái chuyện tết nhất bây giờ cũng thế, tôi thấy là, tôi đọc lại năm 1946, (nhà thơ) Xuân Diệu, ăn cái Tết độc lập đầu năm 1946, đã nói đến hiện tượng bây giờ chúng ta phải giã từ « cái Tết trung cổ » đi, ăn Tết thật tiết kiệm, nhanh và chuẩn bị làm các việc khác. Bài của Xuân Diệu in trên tạp chí Tiên phong (1946). Thế thì tôi thấy cái điều Xuân Diệu nói từ năm 46, đến nay phải nói là chúng ta vẫn còn phải phấn đấu, nhưng mà…

Có cái chết là, bây giờ tôi thấy là, đề ra cái này, nhưng tôi thấy không có khả năng thực hiện được, vì tôi thấy là cái tâm lý nó phổ biến trong toàn bộ xã hội rồi. Người ta cứ thấy cái việc là làm như ngày trước là niềm vui, và niềm tự hào. Thì tôi cho là không phải thế. Đối với phong tục, phải có hai điều, như Phan Kế Bính : Một mặt thì phải mô tả, phải hiểu, nhưng thứ hai là phải phê phán, phải tìm cách vượt qua nó. Tôi thấy là, trong các nhà nghiên cứu về văn hóa, văn học, thì chính là Phan Kế Bính là người đi đầu, từ năm 1915, đã viết trên Đông Dương Tạp chí, viết về phong tục, thì bao giờ ông cũng có phần vượt qua, phê phán, nhất là những cái hội hè, mà ông cho rằng, nhiều cái dông dài quá, không được việc gì cả. Chính cái tinh thần của Phan Kế Bính, mà sắp tới sẽ là (kỷ niệm) 100 năm (tác phẩm khảo cứu) Việt Nam phong tục, thì cái tinh thần ấy, bây giờ chúng ta vẫn khó lòng thực hiện được.

Mặc dầu như thế, tôi nghĩ, những đợt này rất là nên có sự nêu lên. Tôi có cảm tưởng cái này nằm trong trào lưu chung, tức là đặt vấn đề tâm lý người Việt trên bước đường hiện đại hóa. Hiện đại hóa thứ nhất là trước 1945, nửa đầu thứ kỷ XX. Và cái hiện đại hóa thứ hai là hiện nay. (Tìm hiểu về) Những cản trở, những điều chúng ta phải vượt qua, chúng ta phải tìm cách làm dần dần. Để đến lúc nào đó, cái điều này mới được thông, được hiểu trong số đông. Khi đó, chúng ta sẽ bước sang một kỷ nguyên mới của hiện đại hóa.

Xung đột giữa nếp sống truyền thống và nhu cầu phát triển

Chia sẻ ở một mức nhất định quan điểm của ông Võ Tòng Xuân, tuy nhiên nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định dịp Tết cổ truyền theo ngày tháng âm lịch không những quan trọng đối với nhiều người, mà còn hàm chứa ở mức độ nhất định bản sắc của nền văn hóa Việt Nam. Và để hạn chế những tiêu cực gắn liền với dịp Tết, cần phải có các biện pháp từ nhiều phía.

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ rằng phản ứng xã hội có nhiều ý kiến khác nhau. Cá nhân tôi thấy rằng là, trước hết ngày Tết nguyên đán, nó gắn với âm lịch, gắn với đời sống và cái nông vụ của người nông dân. Đó là một yếu tố từ truyền thống xa xưa. Ngày Tết còn là nơi gửi gắm nhiều nhu cầu tín ngưỡng, và đặc biệt là hướng về tổ tiên và gia đình.

Đúng là khi mà người Pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam, cũng là đưa văn minh phương Tây vào, thì cái ngày Tết dương lịch đã trở thành một tập quán đối với một bộ phận cư dân ở đô thị, đặc biệt là công chức. Nhưng mà rõ ràng là cái Tết âm lịch vẫn gắn một cách sâu sắc và lâu bền, không chỉ tâm lý của những người nông dân, mà ngay cả những bộ phận thị dân vốn có những mối quan hệ rất bền chặt với gốc gác của mình. Cho nên, ngày Tết âm lịch là ngày Tết thực sự, còn ngày Tết dương lịch chỉ là ngày nghỉ của những người ăn lương nhà nước mà thôi.

Nhưng khi xã hội phát triển và cái đời sống đô thị như hiện nay, thì rõ ràng nó tạo ra những độ chênh, hay những xung đột ở trong những nếp sống của truyền thống, và những nhu cầu phát triển của hiện tại, đặc biệt là trên lĩnh vực tổ chức quản lý xã hội và quản lý sản xuất, và có lẽ nhân tố khiến nhiều người hướng tới sự thay đổi, chính là nguồn lao động. Những người lao động, phần lớn xuất thân từ nông thôn, thậm chí là ở những vùng miền rất xa xôi, tới nơi làm việc, thường có nhu cầu nghỉ lễ tết, tạo ra các áp lực không những chỉ về giao thông, đi lại, mà còn tạo ra áp lực đối những nhà sử dụng lao động nữa, khi tập quán, thói quen, lễ tục gắn kết với đời sống nông thôn vẫn còn rất là sâu sắc. Vì thế tôi nghĩ rằng là, những ý tưởng như của giáo sư Xuân đưa ra, thì nghe rất hợp lý, nhưng vượt được qua thói quen, tập quán là hết sức khó. Bởi vì, dẫu sao thì đối với người Việt Nam, thì ngày Tết âm lịch mới là quan trọng, bởi vì nó giải quyết những vấn đề về tinh thần, về tín ngưỡng, về tập quán và có thể nói phần nào là bản sắc văn hóa của người Việt. (…)

Nếu tổ chức xã hội tốt, thì sẽ dung hòa được

Tôi thì nghĩ rằng phải có sự hài hòa, diễn ra cùng sự phát triển theo xu thế chung. Thí dụ, ngày lao động ngày càng ngắn lại theo sự phát triển, cũng như quyền của con người. Cái thứ hai là, một nguồn gốc của vấn đề gây bức xúc hiện nay là việc phân bố lao động không hợp lý lắm. Ở thời kỳ đầu, chúng ta thấy, vùng phía bắc nông thôn đông dân ở đồng bằng Bắc Bộ người lao động rất nhiều, công việc rất ít, trong khi đó ở các tỉnh phía nam các doanh nghiệp thu hút nhân lực rất nhiều. Nên luồng di cư từ bắc vào nam tạo nên áp lực về nghỉ Tết, đi lại. Bây giờ, theo quan sát chúng tôi thấy tình trạng ấy ngày càng cân bằng hơn. (…) Cái tâm lý gắn kết với quê cha đất tổ có điều kiện để giải quyết thuận lợi hơn. Tôi nói như thế có thể phần nào là thụ động, vì tình trạng đó phải có thời gian mới khắc phục được, nhưng tôi cho là xu thế đó sẽ phù hợp hơn. Chứ còn ngay một lúc mà ta thay đổi, nhất là động vào cái tập quán, cái tín ngưỡng, tôi cho rằng sẽ rất là khó, và cái phản ứng sẽ dẫn tới cái gọi là « lợi bất cập hại ». Cuối cùng, cả hai nhu cầu, vừa bảo đảm cho sự phát triển của xã hội công nghiệp hiện đại, quản lý xã hội hiện đại, với việc duy trì những giá trị truyền thống đều không đáp ứng được. (…)

Vấn đề còn lại có lẽ là cái tâm lý nông dân trong người lao động công nghiệp, thì nó đòi hỏi là phải có nền tảng vật chất, để thực sự con người thay đổi được nếp sống, thì cũng thay đổi được tâm lý. Cộng với việc ta giải quyết một cách hài hòa, ví dụ như việc giảm khoảng cách địa lý giữa nơi làm việc và quê quán. Ngay bây giờ thôi tâm lý của vùng nông thôn cũng thay đổi nhiều, quá trình đô thị hóa cũng đang diễn ra, việc kéo dài thời gian lễ hội, hay những sinh hoạt theo tập quán, tôi nghĩ tự thân nó cũng có những biến động. (…) Truyền thống cũng phải phát triển, chứ không phải cứ y nguyên như cũ. (…) Quan sát ngay trong các lễ tết ở nông thôn bây giờ cũng giản tiện hơn trước rất nhiều. Còn chúng ta hay đưa ra con số hàng mấy nghìn cái lễ hội, thật ra nó chỉ là các sinh hoạt trong cộng đồng làng xã thôi, chứ còn một số lễ hội đã chuyển hướng từ đi hội sang du lịch rồi. Tôi nghĩ, nếu tổ chức xã hội tốt, thì sẽ giải quyết được.

Thực ra là, nhìn vào cái tâm lý gọi là truyền thống ấy, quan trọng nhất vẫn chỉ là trở về với gia đình, và có một số sinh hoạt quan trọng nhất, như là mồ mả tổ tiên, hay lễ hội của làng mình thôi, còn sự kéo dài (thời gian nghỉ Tết), tôi cho rằng là do quản lý lỏng lẻo thôi, hoặc do người lao động chưa thiết tha với lợi ích mà họ được hưởng trong các doanh nghiệp mà họ làm việc thôi. Chứ tôi quan sát thấy không ít doanh nghiệp họ quản lý rất chặt, nhưng với điều kiện là họ phải tạo ra cho người lao động những lợi ích tương xứng, thì tôi thấy họ vẫn làm rất nghiêm chỉnh. Chính tình trạng (bê trễ ngày Tết) nên lên đấy, hoặc là công chức do tình trạng buông lỏng như hiện nay, và thứ hai là người lao động « đơn giản », nên thu nhập của họ không đáng kể, nên họ sẵn sàng bỏ việc lúc nào cũng được. Cái tâm lý ấy và quản lý ấy đúng là nó phương hại đến việc quản lý tổ chức và phát triển xã hội công nghiệp hiện đại. (…)

Tôi thấy cũng không nên coi cái tập quán hay cái văn hóa ngày Tết âm lịch của người Việt Nam là cái bất biến, nên tôi thấy, nếu quy định trong một khoảng thời gian nghỉ thích hợp nào đó, cộng với cách quản lý sử dụng cũng như đãi ngộ cho người lao động, thì tôi cho là về căn bản có thể khắc phục được.

Muốn thay đổi ngày Tết âm lịch phải đến thế hệ sau

Về đề xuất của nhà nông học Võ Tòng Xuân, giáo sư Trần Lâm Biền chê trách sự vội vã và khẳng định cần phải tìm hiểu kỹ những mặt tiêu cực có trong các phong tục tập quán, trước khi muốn phê phán và sửa bỏ.

Giáo sư Trần Lâm Biền : Cái Tết âm lịch rõ ràng là có nhiều cái không hay, nhưng mà, khi người ta chuẩn bị cho cái Tết, thì người người vui vẻ, người người háo hức. (Tất cả mọi người) Già trẻ, có một cái gì đấy, để người ta tìm lấy hạnh phúc, mà họ thiếu ở trong năm. Còn cái năm dương lịch, thì chả có cảm xúc nào với họ cả. (…)

Bây giờ mình chỉ hỏi ông một điều như thế này. Tức là khi những người ở bên Châu Âu, bên Mỹ, họ về đây họ ăn Tết, để làm cái gì, trong khi họ đã quá quen với cái Tết dương lịch. Tại sao họ lại về ? Nó phải có một cái gì đấy không thể thay đổi nhanh được đâu. Cái nền kinh tế nó phải phát triển đến một mức độ nhất định. Nếu mà muốn thay đổi, thì phải thế hệ sau, chứ không phải thế hệ này.

Tập quán lạc hậu thì phải giáo dục, chứ không phải là cấm đoán, phải giải thích cho người ta. Nó lạc hậu đâu, ta bỏ đấy. Còn cái gì là tích cực, cái gì là văn hóa, thì ta sẽ giữ. Nếu chưa nói được những điều xấu xa của nó, và chưa hiểu nó, thì đừng bàn đến chuyện xóa bỏ nó.

Những gì thuộc về truyền thống và tốt đẹp thì nên giữ

Bạn Ngô Thị Hồng Nhung, trưởng nhóm từ thiện Tình nguyện niềm tin, chia sẻ các tâm sự vì sao bạn lại gắn bó với dịp Tết cổ truyền :

Chị Ngô Thị Hồng Nhung : Em cũng có đọc thông tin về đề nghị làm Tết dương lịch, chứ không ăn Tết âm lịch. Em thì, chắc là cũng hơi là người truyền thống một chút nên là, nên là em vẫn thích là có thời gian, mình có cái Tết nguyên đán riêng, và sẽ ăn Tết vào âm lịch, chứ không vào dương lịch. Tại vì nó là ngày Tết cổ truyền, vì nó có cái đặc sắc riêng. Em nghĩ rằng là, những cái gì thuộc về truyền thống và những điều tốt đẹp thì mình nên gìn giữ. Còn nếu vì lấy lý do, cho rằng việc hội nhập khi mình ăn Tết âm, thì nó sẽ ảnh hưởng đến các công việc giao dịch kinh doanh, với các bạn đối tác nước ngoài… thì em nghĩ mỗi dân tộc sẽ có những bản sắc riêng, sẽ phải (được) tôn trọng và thích nghi.

RFI : Bạn có thể cho biết, bản sắc riêng trong ngày Tết âm lịch, cụ thể là gì ?

Chị Ngô Thị Hồng Nhung : Em thấy là, khi tất cả mọi người, khi đi làm ăn xa, khi chuẩn bị Tết âm lịch, sẽ tính toán để thu vén công việc, để làm sao được về nhà quây quần với gia đình, được đi chúc Tết họ hàng, đi tảo mộ ông bà, đi thăm hỏi nhau những ngày Tết, và ăn những món ăn truyền thống.

RFI : Giả dụ như tất cả những sinh hoạt đó vẫn được duy trì, chỉ có điều được chuyển sang một thời điểm khác, ví dụ như đầu năm dương lịch, thì bạn thấy thế nào ?

Chị Ngô Thị Hồng Nhung : Em nghĩ là thời điểm giữa Tết âm lịch và Tết dương lịch nó cũng khác nhau. Có thể vì em ở ngoài miền bắc, thì cái cảm nhận về mùa xuân, về không khí Tết nó sẽ khác hẳn, ví dụ như trong nam chẳng hạn, khi chỉ có hai mùa thôi. Em nghĩ rằng, đến tầm khoảng tháng 1 dương lịch, thì đào chưa nở đâu. Em nghĩ rằng, còn có cả yếu tố về mặt tâm linh, tức là nó là truyền thống, những điều tốt đẹp từ xưa để lại. Nó còn cả về mặt thời tiết, mùa màng, rồi nhiều yếu tố khác nữa… Thực ra thì, ngày Tết âm lịch, bây giờ lớn rồi, thì nhiều khi cảm thấy lo lắng và mệt mỏi nhiều, khi mà nghĩ đến Tết, phải lo Tết, một số vấn đề chi tiêu trong gia đình, hoặc một số vấn đề khác. Nhưng mà em vẫn thích ngày Tết âm lịch, bởi vì có một cái rất là đặc biệt, mà em rất là mong muồn, là mỗi năm, đến ngày cuối năm được về quê, song là đi tảo mộ, cùng với các bà, các bác ở quê, để ra mộ, thăm ông bà, thắp hương và mời ông bà về ăn Tết.

Chủ động lưu giữ, tốt hơn là để mai một

Nhà kinh tế Đỗ Tiến Long là một trong những người ủng hộ ý tưởng ăn Tết âm theo ngày Dương từ nhiều năm gần đây. Theo anh, đối thoại là con đường hết sức quan trọng để có thể tìm ra một giải pháp cho phép bảo tồn những gì tinh túy trong truyền thống và có các thay đổi hướng đến hội nhập với thế giới.

Nhà kinh tế học Đỗ Tiến Long : Bản thân tôi thì vẫn cảm nhận thấy những cái nét đẹp, cũng như cái hân hoan, cảm xúc của ngày Tết, nhưng đồng thời, thì tôi cũng nhận thấy là, dù muốn hay không muốn, thì nó cũng sẽ mất đi một cách tự nhiên (?!). Thế thì nếu mà, để nó mất đi một cách tự nhiên, chúng ta chán ghét nó, thấy nó hoàn toàn không phù hợp nũa, chúng ta bỏ đi, thì có thể chúng ta mất tất cả.

Cả hai thứ đều quan trọng : Bảo tồn các giá trị văn hóa, đồng thời văn hóa nó chỉ phát triển được trong một đời sống kinh tế lành mạnh, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, năng suất của các doanh nghiệp, của người lao động Việt Nam, nhìn chung vẫn còn rất là thấp. Thế rồi, để hai ba tháng (nghỉ Tết) như vậy, rồi kéo theo một tâm thế chuẩn bị Tết, rồi sau Tết. (…)

Nó (việc thay đổi ngày ăn Tết) là sự chuyển biến thay đổi không phải nho nhỏ, mà đây là sự thay đổi mang tính nhận thức. Chính vì thế tôi gọi là "một tiếp cận mềm", nó đòi hỏi tất cả mọi người cảm thấy cần thiết, và đồng thời trong chính sách đưa ra, có cái giải pháp cho cái việc bảo tồn như thế nào. Mọi người cùng thấy là chúng ta không mất mát gì cả. Rồi thì, trong các hoạt động kinh tế, ví dụ như các doanh nghiệp có các thưởng cuối năm dương lịch lớn hơn âm lịch chẳng hạn, để hướng các hoạt động kinh tế và các hoạt động văn hóa nó mang tính trọng tâm hơn, tìm thấy cái tiếng nói chung trong hoạt động kinh doanh toàn cầu, nhưng đồng thời, bảo tồn được một cách tốt nhất các giá trị truyền thống tốt đẹp.

Tôi nghĩ rằng, những hành vi vẫn quan trọng với người Việt Nam, như thăm mộ ông bà trong trước ngày Tết, hay là cái việc cúng tiễn năm cũ, rồi giao lưu chia sẻ thăm hỏi, chúc mừng trong ngày Tết, tôi nghĩ những hoạt động đó vẫn mang tính tích cực và nó vẫn in sâu vào trong đầu mỗi người. Tôi nghĩ những việc đó chúng ta vẫn có thể duy trì được. Tôi nghĩ rằng, đây là quá trình nhận thức, có bề dày trầm lắng, có thể nói rất phức tạp, nên là nó cần có các diễn đàn cởi mở để chúng ta trao đổi với nhau. Cá nhân tôi không bao giờ nghĩ, sau khi trao đổi như vậy, thì mọi thứ sẽ thay đổi trong một năm, một tháng, hay sau một quyết định cả. Bản thân quá trình trao đổi đó nó cũng cho chúng ta một cách học lẫn nhau. Sự chủ động tích cực bao giờ cũng giữ lại, lưu truyền một vẻ đẹp tốt hơn. Như là một ví dụ ai cũng nhìn thấy là, cái cái áo dài không phải là một hình ảnh đặc truyền thống, mà bản thân nó cũng tiếp nhận rất nhiều giá trị, nét đẹp của những văn hóa khác, hay trang phục khác, nhưng nó vẫn là niềm tự hào và được coi à truyền thống. Điều đó cho thấy, sự chủ động lưu giữ sẽ tốt hơn là để cho nó mai một đi. Đó cũng là tâm sự của tôi trong ngày cuối năm.

Vấn đề chủ yếu là sử dụng thời gian và tài chính hiệu quả, hợp lý

Để khép lại tạp chí, chúng tôi xin chuyển đến quý vị tiếng nói của bạn Thái Dzuy, thành viên sáng lập nhóm từ thiện Người tôi cưu mang.

Anh Thái Dzuy : Cái chủ đề này được bàn luận rất là nhiều, trên tất cả các diễn đàn. Thực ra là rất khó khi nói lên quan điểm của cá nhân, vì nó sẽ đụng chạm đến rất nhiều thứ, vì cái truyền thống của dân tộc mình rất là lâu rồi.

Nói chung là, những người trẻ như tụi mình, lớn lên sau này, sống trong thế giới hiện đại, và tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, nên chắc chắn trong tư tưởng nó sẽ bị ảnh hưởng những « luồng gió mới ». Thực ra là, mình cũng đi làm cho các công ty nước ngoài, từ rất sớm, từ ngay khi tốt nghiệp đại học. Quan điểm của mình rất là thoáng.

Mình nghĩ rằng là, Tết tây hay Tết ta không quan trọng lắm với mình. Mình xác định rằng, miễn là mỗi dịp nghỉ đó chúng ta thực hiện được những điều tốt, thí dụ là về sum họp với gia đình là một, thứ hai là làm những điều tốt, cầu mong những điều tốt đẹp cho người khác, cho người thân, cho bản thân, cho mọi người. Và thứ ba là, mình sử dụng quỹ thời gian, cũng như là cái tài chính một cách hiệu quả hợp lý, thì Tết tây hay là Tết ta nó đều mang ý nghĩa tốt đẹp cho mỗi người. Còn quan điểm của mình là gộp chung Tết tây hay là Tết ta, thì thực sự là một vấn đề lớn, xin phép mình không trả lời ở đây. Còn quan điểm cá nhân của mình, thì Tết nào mình cũng trân trọng nó cả, mình không lãng phí, mình sử dụng cái quỹ thời gian, cũng như tài chính một cách hợp lý.

Mang lại các hỗ trợ cho nhiều người bất hạnh trong suốt năm, vào dịp Tết, các thành viên của nhóm Người tôi cưu mang, cũng như rất nhiều nhóm và các tổ chức từ thiện khác, lại hướng đến những người nghèo khổ, tật nguyền, bị bỏ rơi, để mong sao làm vơi bớt phần nào những cảnh đời bất hạnh. Sum họp, Trở Về, mở lòng hướng đến người khác, phải chăng là những điều làm nên sự kỳ diệu của ngày Tết mà nhiều người mong ước ?

RFI xin chân thành cảm ơn các vị khách mời đã dành thời gian cho chương trình và cảm ơn quý thính giả đã theo dõi. Xin chúc quý vị một Năm mới hạnh phúc. Hẹn gặp lại quý vị trong tạp chí lần tới.

Trích từ: viet.rfi.fr


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ăn tết ta theo ngày dương, nên hay không ?

Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Thìn –

Tuổi Thìn: Gồm các tuổi sinh năm: 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000. Đối với những người tuổi này họ cần chọn treo tranh nào để hợp phong thủy. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về tuổi Thìn nhé! Tranh phong thủy hợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Thìn: Gồm các tuổi sinh năm: 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000. Đối với những người tuổi này họ cần chọn treo tranh nào để hợp phong thủy. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về tuổi Thìn nhé!

Tranh phong thủy hợp với người tuổi Thìn

tranh-hoa-mau-don

Tuổi Thìn khi muốn chọn tranh phong thủy để mang lại may mắn, thì nên chọn một trong các loại tranh sau:

a- Hoa mẫu đơn, Rồng xanh hí thuỷ, Hầu vương hiến thuỵ, Bách mã đồ, Nhật xuất thiên sơn, Hồ quang sơn sắc.

b- Hoa mẫu đơn: Kích hoạt nhân duyên với người độc thân và mang đến sự thuận thảo cho các thành viên trong gia đình. Long – Mã tương phối, tinh thần bậc quân tử, trụ cột quốc gia. Tượng quẻ mã thuộc trời, ngũ hành thuộc hoả; đại biểu hưng vượng, thành công nối tiếp, cao quý hơn người, trên dưới trong ngoài phối hợp nhịp nhàng, trật tự quy củ.

c- Nếu là tranh ngựa hoặc hoa, cấm kỵ treo phương Nam, vì sẽ tạo ra “Hoả thiêu thiên môn”, con cái khó dạy, chủ hay đau đầu hoa mắt. Tốt nhất treo phương Đông hoặc phía bên trái của phòng khách (kể từ trong nhà nhìn ra phía trước).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Thìn –

Muốn biết vận đào hoa vượng hay không hãy nhìn tướng mặt

Những người có tướng mặt vuông vắn thì tính cách khoan dung, độ lượng, nhân duyên tốt. Bên cạnh đó, tình cảm của họ ổn định, không dễ thay lòng đổi dạ nên đời sống hôn nhân hài hòa, hạnh phúc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ánh mắt “biết nói”

Ánh mắt của mỗi người khác nhau và đều là “độc nhất vô nhị” bởi nó là cửa sổ phản ánh cảm xúc trong tâm hồn. Những người yêu nhau chỉ cần dùng ánh mắt để giao tiếp cũng có thể hiểu được đối phương muốn nói gì.

Không cần xét mắt to hay nhỏ, quan trọng là ánh mắt phải có thần, có sức sống, hay nói một cách đơn giản là “ánh mắt biết nói”. Chủ nhân của tướng mắt này thường có đời sống nội tâm phong phú, tính tình phóng khoáng, nhiệt huyết và vận đào hoa rất vượng.

Muon biet van dao hoa vuong hay khong hay nhin tuong mat hinh anh 2
 
2. Tướng mũi thẳng

Tướng mũi cũng tiết lộ tài vận tốt xấu của mỗi người. Mũi thẳng, không nghiêng lệch hay khuyết hãm, đầu mũi đầy đặn chứng tỏ vận khí của chủ nhân rất tốt, nhân duyên hài hòa và rất vượng vận đào hoa.

Tuy nhiên, người này khá chung thủy, cuộc sống sau hôn nhân hài hòa, hạnh phúc. Đặc biệt, họ biết tiết chế cảm xúc, không vì phút hồ đồ nhất thời mà phạm sai lầm tình ái khiến gia đình tan nát.

Thêm ưu điểm nữa ở người này chính là sự tự tin, phong cách sống phóng khoáng, biết quan tâm và suy nghĩ cho người khác.

Muon biet van dao hoa vuong hay khong hay nhin tuong mat hinh anh 2
 
3. Lông mày rộng

Đôi lông mày rộng nhưng không quá rậm rạp hay lộn xộn được coi là một trong những nét quý tướng của con người. Chủ nhân của tướng lông mày này dễ gặt hái được thành công trong sự nghiệp. Hơn thế, họ lại là “trợ thủ đắc lực” cho sự nghiệp của nửa kia.

Thông thường, tài vận của người này hanh thông, nhân duyên tốt, đặc biệt là nhân duyên khác giới. Tuy vượng vận đào hoa nhưng người này lại thủy chung, có tinh thần trách nhiệm với gia đình, là hình mẫu lí tưởng mà ai nấy đều ao ước có được.

4. Khuôn mặt vuông vắn


Những người có tướng mặt vuông vắn thì tính cách khoan dung, độ lượng, nhân duyên tốt. Bên cạnh đó, tình cảm của họ ổn định, không dễ thay lòng đổi dạ nên đời sống hôn nhân hài hòa, hạnh phúc.

5. Dái tay dày dặn

Đây là đặc trưng thường thấy ở những người có tính cách thật thà, phúc hậu, tuổi thọ cao. Thêm vào đó, người sở hữu đặc điểm này có tài vận hanh thông, vượng vận đào hoa và nhân duyên tốt đẹp.

Hồng Loan (Theo MGSP)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn biết vận đào hoa vượng hay không hãy nhìn tướng mặt

Những lưu ý về phong thủy khi chọn sofa phòng khách

Sofa là điểm nhấn chính trong phòng khách, là nơi tiếp khách và là bộ mặt của cả ngôi nhà cũng như mức độ chăm sóc của chủ nhà với căn phòng của mình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bởi vậy, không phải cứ một bộ sofa đẹp hay đắt là đủ. Người sử dụng sofa phòng khách cần chú ý tới các quy tắc phong thủy để mang lại sự may mắn, thịnh vượng cho ngôi nhà.

Vậy, đâu là điểm cần lưu ý cho một bộ sofa phòng khách đẹp cả về hình thức và ý nghĩa?

Nên đặt sofa ở đâu?

Các bộ sofa phòng khách thường ở giữa phòng hoặc được đặt ở một góc phòng tạo vẻ ấm cúng, tùy thuộc vào tính cách của chủ nhà. Tuy nhiên, phải đảm bảo các nguyên tắc về vị trí như sau:

Sofa nên được đặt tựa vào tường.

Theo phong thủy, đó là thế “hạo sơn”, tức tựa lưng vào vách núi. Điều này ngầm ý xây dựng một chỗ dựa vững chắc cho người ngồi, từ đó vận mệnh cả căn nhà cũng bền vững, không biến động.

Nếu không thể đặt sofa dựa tường, bạn có thể dùng tủ hoặc kệ sách lớn thay thế, miễn sao không để sofa trôi giữa phòng.

Nên đặt sofa dựa vào tường

Sofa nên kê ở hướng cát của nhà để mang lại sự bình an.

Tuyệt đối không đặt sofa ở hướng đối diện cửa chính. Điều này sẽ dẫn tới việc gia chủ ly tán theo góc độ tâm lý.

Sofa nên hướng vào hướng vượng, gồm có hướng chính Đông, hướng Đông Bắc, hướng chính Tây và hướng chính Nam. Đảm bảo điều này đồng nghĩa sẽ đem lại tài lộc cho bạn.

Chọn sofa phù hợp

Khi chọn sofa phòng khách, nên chọn 1 bộ hoàn chỉnh, cân đối về kích thước và đồng màu. Ngoài ra, cần chú ý kích thước phù hợp cho sofa, cân đối với độ lớn căn phòng, điều này làm điểm tựa tâm lý cho một sự hài hòa.

Về màu sắc, kích cỡ, bạn có thể lên các diễn đàn rao vặt bất động sản, đồ trang trí nội thất… để tham khảo hình dáng, mức giá.

Một bộ sofa đẹp cách mấy nếu không tương xứng với màu sắc, chất liệu đồ đạc trong nhà thì cũng không đẹp về thẩm mỹ và không hợp phong thủy.

Tuyệt đối không đặt sofa ở hướng đối diện cửa chính

Về kiểu dáng, dù chọn sofa hình chữ gì cũng phải đầy đủ một bộ. Không nên dùng sofa nửa bộ, hoặc thay thế vài phần của sofa lấy từ bộ khác, sẽ tạo sự bất ổn về mặt phong thủy.

Để đảm bảo sofa vẫn là một bộ khi lỡ hư vài phần, bạn có thể tìm mua lại ở các cửa hàng nội thất giá rẻ.

Chú ý lưng sofa

Sofa phòng khách khi được đặt chắc chắn sẽ phải kết hợp với các dụng cụ khác để phối cho diện mạo phòng. Tuy nhiên nên chú ý không đặt những thứ sau đây vào lưng sofa để đảm bảo phong thủy phòng khách.

Kể cả khi đặt sofa dựa lưng vào tường, vẫn phải đảm bảo sát tường, không để lộ khoảng không.

Sau lưng sofa không đặt bể cá hoặc bể nước trang trí. Phong thủy cho thấy nước là đặc trưng cho sự luân chuyển, ngược lại hoàn toàn với quy tắc cần sự vững chắc cho lưng sofa.

Sau lưng sofa không đặt gương soi. Thứ nhất phần gáy của gia chủ sẽ lộ, tạo tâm lý bất an. Thứ hai, sự phản xạ của gương không tốt cho các buổi nói chuyện, không phù hợp để tiếp khách.

Thứ ba về góc độ tâm linh, người chủ sẽ không muốn ai thấy tất tần tật những điều họ không muốn đưa ra ngoài.

Khi đặt sofa dựa lưng vào tường, vẫn phải đảm bảo sát tường, không để lộ khoảng trống

Phía trên sofa

Phía trên sofa không được có ảnh đèn trực tiếp rọi xuống. Về sức khỏe, đèn chiếu thẳng vào đầu trong thời gian dài là không tốt. Chưa kể sofa còn có tác dụng nằm ngủ, và đèn rọi thẳng mặt không hề tốt.

Về mặt thẩm mỹ, bạn cũng sẽ thấy khó chịu nếu chiếc đèn đặt lệch trung tâm - khoảng không của bộ sofa.

Về phong thủy, đèn chiếu thẳng vào đầu gọi là có sát khí, sẽ khiến gia chủ căng thẳng thần kinh.

Sofa phòng khách cũng đặc biệt chú ý không nên để sofa ở vị trí có xà ngang trên đầu. Phong thủy cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến toàn bộ thành viên trong gia đình.

Việt Tuấn (Tổng hợp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý về phong thủy khi chọn sofa phòng khách

Mơ thấy chia xa người thân và đồng nghiệp: Sẽ có chuyện buồn lo –

Mơ thấy chia xa người khác, sẽ có chuyện buồn lo. Chồng mơ thấy chia xa vợ, sức khỏe bản thân ngày càng sa sút, có thể xuôi tay nhắm mắt bất cứ lúc nào; vợ mơ thấy chia xa chồng, nguyên nhân đa phần do thu nhập của chồng giảm thiểu, bản thân sẽ mệt
Mơ thấy chia xa người thân và đồng nghiệp: Sẽ có chuyện buồn lo –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chia xa người thân và đồng nghiệp: Sẽ có chuyện buồn lo –

Xem hình thể biết bệnh

Vậy thì, thế nào là thân hình khoẻ mạnh và đẹp đẽ ? Các chuyên gia cho rằng, một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ, cân đối phải là: Cơ bắp của người nam giới vạm vỡ đẫy đà, cân đối, còn nữ giới thì phải có thân hình phốp pháp.
Xem hình thể biết bệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vậy thì, thế nào là thân hình khoẻ mạnh và đẹp đẽ ? Các chuyên gia cho rằng, một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ, cân đối phải là: Cơ bắp của người nam giới vạm vỡ đẫy đà, cân đối, còn nữ giới thì phải có thân hình phốp pháp, nở nang nhưng không béo phị; hai vai cân đối, vai của nam phải rộng, của nữ phải tròn, hơi thon; cột sống nhìn từ phía sau lưng phải thẳng, nhìn từ bên cạnh phải có đường cong sinh lý bình thường, xương bả vai không nhô lên như hai cánh; ngực phải rộng, nhìn từ chính diện phải như hình thang, nữ giới đôi bầu vú phải đầy đặn, chúm nhô ra mà không xệ xuống, nhìn từ bên cạnh phải có đặc trưng đường nét nữ tính rõ rệt, nữ giới lưng phải nhỏ ngắn, như hình trụ tròn, bụng phải phẳng dẹt, tay phải tròn trặn. Nam giới tai giữa hơi vểnh lên, nữ giới thì sa xuống, chân dài, cẳng chân dài và vị trí cơ bắp chân tương đối cao và hơi phình ra, nhìn về tổng thể, không có cảm giác mất cân đối về tỷ lệ.

Thân hình khoẻ đẹp không chỉ là một tiêu chí quan trọng để xác định thân hình đẹp của con người, mà còn là tượng trưng cho sự khoẻ mạnh của cơ thể con người nữa. Còn thân hình béo phị, gầy còm hoặc tỷ lệ giữa các bộ phận cơ thể mất cân đối, là đã mất đi một cảm giác đẹp bên ngoài của cơ thể. Hơn nữa, lại thường dự báo trong cơ thể đang ẩn náu bị một bệnh tật nào đó.

Dưới đây xin trình bày một số phương pháp nhìn thân hình để theo dõi bệnh:

1. Béo phì

Chất mỡ của cơ thể tích tụ nhiều gọi là béo phì. Béo phì thường chia làm hai loại: một loại là béo phì có tính kế phát, đó là béo do ự phân tiết bên trong mất điều hoà gây ra một số bệnh nào đó. Ví dụ: béo phì do chất insulin, béo phì do cơ năng của tuyến giáp trạng giảm xuống v.v... loại béo phì này rất ít gặp. Một loại khác là béo phì có tính đơn thuần, béo phì do các nhân tố di truyền, do ăn uống quá nhiều, ít vận động, tâm lý, tinh thần, nhân tố môi trường v.v... tất cả đều có tác dụng đối với loại béo phì này. Nhận xét một người có béo phì hay không, không thể chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài, mà còn phải có một tiêu chuẩn khách quan, chỉ có khi cân nặng của cơ thể vượt quá 20% cận nặng tiêu chuẩn của cơ thể, mới có thể coi là béo phì.

Chúng ta biết người béo phì dễ bị các chứng bệnh mạn tính như huyết áp cao, bị bệnh ở hệ thống vành mạch của tim, bị bệnh đái tháo đường v.v... Thống kê y học đã chứng tỏ, số người bị bệnh ở hệ thống mạch vành tim béo phì nhiều gấp 5 lần so với người bình thường, bị bệnh cao huyết áp nhiều gấp 8 lần so với người bình thường, bị bệnh đái tháo đường nhiều gấp 7 lần so với người bình thường. Tuổi thọ bình quân của người béo cũng thấp hơn nhiều so với người có thể trọng bình thường. Các tài liệu nước ngoài chứng tỏ, người già vượt quá từ 35 đến 40% thể trọng tiêu chuẩn thì tỷ lệ tử vong tăng cao rõ  rệt.

Gần đây các nhà khoa học phát hiện, người béo bụng nguy hiểm hơn người béo ở mông, và dễ bị bệnh tim hơn. Một công trình nghiên cứu của trường đại học San luisWashington của Mỹ chứng tỏ, người béo ở mông với người béo ở bụng, chất côlextêrôn chứa trong cơ thể họ có khác nhau. Hàm lượng các chất côlextêrôn, abumin, mỡ cao trong cơ thể của những người mông béo, eo lưng nhỏ cao, chất côlextêrôn .này sẽ thấp, vì thế khả năng bị bệnh tim lớn. Nói chung những phụ nữ béo, dẽ béo ở mông, nam giới dễ béo bụng, đó cũng là một trong những nguyên nhân vì sao nam giới dễ mắc bệnh tim hơn nữ giới.

Vậy thì xác định như thế nào là béo ở bụng? Ở đây có một phương pháp tính đơn giản là:

Đứng đo kích thướn vòng eo và vòng mông, vòng mông lấy ở chỗ mông to nhất làm chuẩn, sau đó lấy kích thước vòng eo chia cho số đo vòng mông thì được tỷ lệ giữa vòng eo và mông. Nếu vòng eo của một người nào đó là 79cm, vòng mông là 92cm thì tỷ lệ số giữa vòng eo và mông của người đó là 0,86, giới hạn trên của tỷ số giữa eo và mông của nam giới là từ 0,85 đến 0,9, của nữ giới là 0,75 đến 0,8, vượt quá phạm vi này thì xem là béo ở bụng. Do phương pháp này đơn giản, thực dụng, khả năng dự tính của nó rất nhanh, giống như đo huyết áp và chỉ tiêu côlextêrôn, cho nên nó được coi là một trong những chỉ tiêu  áp dụng phổ biến để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của tim mạch mọi người.

2. Gầy còm (sút cân)

Có thể người ta phát phì vất lợi cho sức khoẻ, nhưng nếu người ta cân nặng quá nhẹ, da dẻ thiếu tính đàn hồi, xương gầy như que củi, mặt mày, da dẻ khô khốc, yếu không chịu được gió máy, cũng là biểu hiện của sức khoẻ kém. Cơ thể con người do bệnh tật hay do nguyên nhân nào đó mà thể trọng giảm đi, sút tới trên 10% thể trọng bình thường thì gọi là gầy còm, (sút cân). Bác sỹ người Anh là Cayley, có nói một câu nổi tiếng là "Gầy là cửa sổ của bệnh tật". Nếu một người, trong trường hợp ăn uống sinh hoạt hàng ngày, tình thần, môi trường và cường độ làm việc tương đối ổn định, mà cơ thể trong thời gian ngắn ngày càng sút cân, gầy còm thì cần phải cảnh giácc với sự tồn tại của bệnh tật. Phải nhìn thấu qua các cửa "gầy" đó, mà tìm ra trong cơ thể có hay không có bệnh tật đang ở trạng thái ủ bệnh.

Thân thể thanh niên gầy yếu, thể hiện sức mạnh cơ bắp tương đối kém (nhất là cơ lưng) thường có thể xảy ra biến dạng cột sống, đường kính các bộ phận trong cơ thể ngắn, sức mạnh của cơ bắp, nội tạng chống đỡ yếu, các cơ quan nội tạng phát triển không tốt, đang tồn tại triệu chứng dinh dưỡng không tốt với mức độ khác nhau, dễ bị mắc bệnh.

Các chuyên gia cho rằng, thanh thiếu niên quá sút cân, gầy còm, đại thể có mấy nguyên nhân như sau:

Một là, ăn kém tiêu hoá không tốt.

Hai là, ngủ không theo nề nếp hoặc do thần kinh suy nhược mà sinh mất ngủ dài ngày.

Bà là, do thiếu dinh dưỡng lâu ngày mà mắc bệnh mạn tính.

Bốn là, vào thời kỳ cơ thể phát triển mà thiếu rèn luyện thể lực, cơ thể không được phát triển đầy đủ, các thớ sợi cơ bắp không tăng lớn lên được. Ngoài ra còn do cơ năng của tuyến nội tiết bị trở ngại, cũng làm cho cơ thể sút cân, gầy còm.

Người trung niên gầy còm tương đối ít thấy, đó là bởi vì nhiệt lượng ăn vào của người trung niên vượt quá lượng tiêu hao, chất năng lượng dư thừa được chuyển hoá thành chất mỡ tích trữ lại ở các tổ chức trong cơ thể và ở dưới da, cho nên bất kể nam hay nữ bươc vào thời kỳ trung niên, đại đa số là béo lên.

Những người trung niên nếu quá gầy còm, thường là triệu chứng xấu. Tuy nhiên là các chứng viêm hoặc loét các tạng như khoang miệng, dạ dày, ruột, gan, lá lách ... đều có thể gây trở ngại cho việc hấp thụ tiêu hoá mà dẫn đến gầy còm, nhưng phải đặc biệt cảnh giác với bệnh khối u ác tính, bởi vì sút cân, gầy còm là triệu chứng nổi lên của u ác tính. Gầy có kèm theo đau hoặc  có mụn sưng ở chỗ nào đó, đều phải nghĩ đến khả năng của khối u ác tính. Vì thế, những người trung niên, nếu bỗng nhiên gầy đi thì cần phải kịp thời mời thầy thuốc kiểm tra kỹ, không được coi thường.

Người ta tới 60 tuổi dần gầy đi, phần nhiều là bình thường lại có thể tránh được nhiều bệnh tật mạn tính do béo gây nên. Ngạn ngữ có câu: "Có tiền khó mua được cái gầy của tuổi già", nhưng cái gầy của tuổi già lại cũng không thể lạc quan mù quáng, điều mà tuổi già phải cảnh giác là một số bệnh tật khác như:

Gầy thông thường, tức là gầy có tính cấu tạo về thể chất. Loại gầy này không phải do bệnh tật trong cơ thể gây nên, mà là do lâu ngày ăn uống thiếu thốn và không thích vận động gây nên. Loại người gầy này có thể kèm theo các chứng bệnh thần kinh suy nhược như tiêu hoá không tốt, dễ cảm thấy mỏi mệt, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ ...

Gầy và có kèm theo chứng bệnh về đường tiêu hoá, nhất là bệnh ỉa chảy mạn tính không rõ ràng, thường thấy ở những người bị các bệnh như viêm dạ dày mạn tính, loét đường tiêu hoá, viêm kết tràng mạn tính không có tính đặc biệt khác ...

Mức độ gầy tăng dần lên nghiêm trọng và có kèm theo triệu chứng về bệnh đường tiêu hoá hoặc có các biển hiện về phiền muộn, lạnh lùng, tinh thần tuổi già rối loạn, thấp nhiệt (ít năng lượng) ... thường thấy ở những người công năng của tuyến giáp trạng cường đại (tăng lên quá mức bình thường).

Trước tiên là gầy, sau lại dần dần thấy có triệu chứng lắng đọng sắc tố niêm mạc trên da, thường thấy ở người công năng của màng tuyến thượng thận bị giảm sút.

Thời kỳ đầu phần nhiều là béo, nhưng sau thời gian dài, lại dần dần gầy đi, thường thấy ở những người có bệnh đái tháo đường của tuổi già. Ở đây cần nhắc nhở mọi người là có người bị bệnh đái tháo đường do tuổi già, tuy không có chứng bệnh "ba nhiều" (ăn nhiều, uống nhiều và đi tiểu nhiều), nhưng do bị rối loạn sự trao đổi đường lâu ngày, tất nhiên là gầy còm.

Gầy không có nguyên nhân, nhất là người gầy đi rõ trong thời gian ngắn gần đây thì cần phải cảnh giác với bệnh ung thư. Vì ung thư ác tính thời kỳ đầu đều thấy gầy không rõ nguyên nhân.

Gầy đến với tuổi già, ngoài các nguyên nhân nói trên, còn thường thấy ở những bệnh truyền nhiễm mạn tính, như bệnh lao của tuổi già, bệnh ký sinh trùng của tuổi ... Viêm gan mạnh tính của tuổi già thường thấy nhiều. Gầy do nguồn gốc thuốc gây nên, đó là do uống một số thuôc làm tăng khả năng trao đổi trông cơ thể gây nên, như uống các thuốc (dinitro phenol và thyroxin...)

3. Cao thấp.

Trong cuộc sống có người vì cơ thể thấp lùn mà sinh ra buồn lòng ngán ngẩm, có người thì vì mình có thân thể cao mà hớn hở tự vui mừng. Kỳ thực bất kể nam hay nữ, chỉ cần có thân hình lớn cân đối, rắn chắc, không cao quá hoặc thấp quá, đều là bình thường. Mà chỉ có những người cao lớn quá mức (chứng bệnh của người khổng lồ), quá thấp (chứng bệnh của người lùn) hộăc tất cả các anh chị em trong nhà tương đối cao, độc chỉ có một mình là thấp bé, gầy yếu, mới có thể xem là bị bệnh. Như:

Thân thể cao lớn khác thường: Nếu tự động sinh trưởng tương đối nhanh, đến xấp xỉ 10 tuổi đã cao như người lớn, đến thời kỳ thanh xuân phát triển, thế cao lớn càng rõ hơn, có thể từ sinh trưởng đến xấp xỉ 30 tuổi, người cao nhất có thể cao trên 240cm. Nhìn từ bề ngoài, nếu cơ thể tương đối cân đối, cơ quan giới tính phát triển tương đối sớm, cơ bắp nở nang, sức khoẻ vượt hơn người, đó là bị mắc chứng bệnh người khổng lồ. Chứng bệnh người khổng lồ là do ở thời kỳ nhi đồng, tế bào hormone sinh trưởng là trước tuyến yên của não tăng sinh hoặc hormone sinh trưởng của hệ thống phân tiết trong cơ thể quá nhiều gây nên. Công năng của các tuyến nội tiết ở thời kỳ đầu tăng lên quá mức bình thường, vào thời kỳ cuối thì giảm đi sau khi thành niên trên nửa số kế phát ra chứng to phì đầu các chi (chân tay).

Thân thể đặc biệt thấp bé: Nếu lúc đến tuổi thành niên mà người vẫn cao không tới 120cm, đó là mắc chứng bệnh người thấp bé hay chứng bệnh người lùn. Chứng bệnh thấp bé có thể do công năng tuyến yên dưới não giảm gây nên.. Nó có đặc điểm là: Thân hình đại thể bình thường, đầu và thân tương đối bé, chứng tích về giới tính thứ hai (lông nách, râu, tiếng nói ...) phát triển chậm, vì xương mềm phát triển không đều mà gây ra chứng thấp bé. Đặc điểm của chứng bệnh này là đầu và thân dù to, dù nhỏ, nhưng trông cũng y như người lớn, chỉ có là chân tay đã ngắn lại bị khòng khèo, lưng nhô lên cao. Ngoài ra, chứng bệnh thấp bé còn có thể do nguyên nhân về dinh dưỡng hoặc trao đổi chất bị rối loạn gây nên. Bệnh lùn ngô nghê có thể do công năng của tuyến giáp trạng lúc ấu thơ bị giảm gây nên.

Thân thể thấp bé, gầy yếu so với người cùng tuổi, mà lại không có cách gì giải thích được (ghi chú) về mặt quy luật di truyền và môi trường sống, thì cần phải xét tới khả năng bị bệnh mạn tính, như bị bệnh còi xương, bệnh lao cột sống, dị hình cột sống, bị bệnh tim bẩm sinh và bệnh thận mạn tính ... thân thể thường thường trở nên thấp bé, gầy yếu.

Ghi chú:

Một người cuối cùng có thể cao được bao nhiêu ? Đó là do nhân tố của nhiều mặt quyết định, như giống người, di truyền, môi trường sống, dinh dưỡng, rèn luyện thể thao ... trong đó điều có tác dụng quyết định là di truyền. Các tài liệu nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ, thân thể cao hay thấp, 75% phụ thuộc vào đặc tính di truyền của bố mẹ. Quy luật di truyền nói chung là: Cha mẹ đều cao thì con cái đều cao (cao cộng với cao, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ một cao một thấp thì con cái cũng cao (cao cộng với thấp, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ đều thấp thì con cái thấp (thấp cộng với thấp sinh ra thấp). Ngoài di truyền ra, giống người và môi trường sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến chiều cao cơ thể. Nói chung, giống người da trắng có thân hình cao to, còn người da vàng có thân hình tương đối thấp bé. Theo thống kê, Trung Quốc có 80% nam giới có thân hình cao từ 1,60m đến 1,75m; 80% nữ giới ở tuổi thành niên có thân hình cao từ 1,50 đến 1,64m. Ngoài ra, chiều cao bình quân của người lớn ở phương Nam và phương Bắc Trung Quốc cũng chênh lệch tương đối lớn. Người ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc tương đối cao, to, nam nữ bình quân cao lần lượt là 1,65m và 1,59; Người vùng Hoa Nam, Tây Nam tương đối thấp. chiều cao bình quân của nam nữ ở đó lần lượt là 1,65m và 1,55m.

4. Khung ngực:

Khung ngực, thường gọi là bộ ngực, nó bao gồm bộ phận dưới cổ và trên eo lưng, chủ yếu do xương ngực, xương sườn và tổ chức cơ ... tạo nên. Khung ngực bình thường, hai bên cân đối, đối xứng, đường kính trước sau ngắn hơn so với đường kính hai bên trái phải, có dạng hình cái thùng phẳng dẹt, cơ bắp bộ ngực nở nang mà giàu tính đàn hồi, thể hiện rõ một loại hình thể đẹp. Khung ngực khác thường, không những khó coi, mà còn thể hiện tồn tại của bệnh tật. Như:

Đường kính trước sau của khung ngực không đến một nửa đường kính bên trái bên phải, có dạng phẳng dẹt lệch và bộ phận cổ nhỏ dài, xương quai xanh nhô ra, y học gọi ngực đó là "ngực phẳng dẹt" (Ngực lép), nó thể hiện cơ thể rất gầy, cần phải tăng cường bồi dưỡng, cũng có thể là do bệnh mạn tính gây neê, như bệnh lao phổi ... Điều này đòi hỏi phải đến bệnh viện kiểm tra, chẩn đoán và kịp thời điều trị.

Đường kính trước và sau của bộ ngực tăng dài, có khi có thể ngang bằng với đường kính bên trái bên phải, độ nghiêng ở dưới về phía trước của cung xương sườn nâng lên, khe giữa các xương sườn tăng rộng, có khi đầy đặn toàn bộ ngực có hình cái thùng tròn. Y học gọi bộ ngực này là "ngực hình thùng". Ngực này thường thấy ở người bị bệnh hen suyễn nhánh khí quản, bị viêm nhánh khí quản mạn tính gây ra bệnh phúc hơi ở phổi.

Đường kính trước và sau của ngực dài hơn đường kính trái và phải, bộ ngực lồi ra phía trước và lại hẹp như ngực của gà. Y học gọi đây là "ngực gà", lại còn gọi là ngực của bệnh còi xương nữa. Đó là thể chứng riêng của sự thay đổi bộ xương do bệnh còi xương thiếu vitamin D gây nên. Bệnh này phần nhiều thấy ở nhi đồng và thiếu niên.

Bộ ngực một bên quá to hoặc quá nhỏ, làm cho hai bên trái và phải của ngực không cân xứng. Nếu bộ ngực một bên quá to (lồi lên cục bộ), chứng tỏ có thể là bị bệnh viêm màng ngực, bệnh ngực hơi ... Nếu một bên ngực nhỏ (lõm cục bộ), chứng tỏ khả năng bị bệnh lao phổi, viêm phổi, bệnh phổi bị suy thoái ... làm cho một bên phổi không căng lên được.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hình thể biết bệnh

Thất sát tinh quyết

Một bài viết rất hay về sao Thất Sát. Mời các bạn cùng đọc tham khảo.
Thất sát tinh quyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng luận

Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.

Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.

Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.

Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.

Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).

Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền” (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).

Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.

Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp.

Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.

Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.

Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.

Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.

Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.

Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.

Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên phủ”.

Biệt cách

Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.

Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:

- Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ khúc Thiên phủ”

- Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh

- Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”

- Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc

- Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm trinh Thiên phủ”

- Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi

Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.

Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.

Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm trinh Thiên phủ”, là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, thường khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.

“Thất sát Vũ khúc” đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc tài, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.

Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực

Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu tính toán phối hợp hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.

Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”. Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.

Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn khí. Ngày nay Y học đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.

Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức

Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chủ về không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm trinh Thiên tướng” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kĩ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kĩ, tỳ thiếp” thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ khúc là sao cô quả” nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”, đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn”?

Thất sát độc tọa Tý Ngọ

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.

Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại “khắc kị”.

Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính chất của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.

Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có tính chất “quyền uy”.

Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.

Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.

Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.

Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “quyền uy”.

Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.

Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).

Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.

Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể… để giảm thiểu tính “khắc kị”.

Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này là vận hung hiểm.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát “quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.

Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị” phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định hình sự nghiệp.

Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị “hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.

Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.

Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.

Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.

Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.

Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.

Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.

Thất sát và Liêm trinh đồng cung

Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “Tử vi Tham lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.

Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.

“Liêm trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với “Liêm trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.

Gọi là “cương bạo”, là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.

“Liêm trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện cơ bản.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo” nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.

“Liêm trinh Thất sát” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất “phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “phấn chấn”.

Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham lang”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm trinh Thất sát” có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm trinh Thất sát”. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” thành mệnh cách “phấn chấn”.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.

Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.

Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm trinh Thất sát”, bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm trinh Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.

Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.

Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.

Cung hạn “Tử vi Tham lang” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.

Thông thường “Liêm trinh Thất sát” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm trinh Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.

Ở lưu niên, nếu “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.

Nữ mệnh “Liêm trinh Thất sát” không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn” hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.

Thất sát độc tọa Dần Thân

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.

Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp “uy quyền”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.

Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao “uy quyền”, tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn bạn rất nghiêm khắc”.

Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại “cô độc cao ngạo”.

Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính “cô độc cao ngạo”.

Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không thành tính “quyền uy”.

“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “uy quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “cô độc cao ngạo”.

Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo” chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.

Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:

Thất sát nặng tính “uy quyền” mà nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:

- Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.

- Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.

- Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.

- Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.

- Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.

- Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.

- “Tử vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.

- Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.

- Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.

- Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.

Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.

Nếu bản chất Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.

Thất sát có bản chất “uy quyền” không nên đến những cung hạn sau đây:

- Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị

- Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.

- Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.

- Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.

- Thiên cơ Hóa Kị

- Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị

- Thái âm lạc hãm Hóa Kị

- Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị

- Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu

- Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.

- “Liêm trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình kị giáp ấn”.

- Thiên lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.

Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.

Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế.

Thất sát và Vũ khúc đồng cung

Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi Phá quân” và “Liêm trinh Tham lang”.

Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc loại “nông cạn”.

Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.

“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.

Luận giải tính chất của “Vũ khúc Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.

Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán sáng suốt”.

Hệ “Liêm trinh Tham lang” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm quan trọng.

Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.

Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.

Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.

Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.

Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.

Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.

Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.

Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.

Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.

Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.

Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên lương” tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên lương” hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.

Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm trinh Tham lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa mệnh.

Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì bất lợi.

Thất sát độc tọa Thìn Tuất

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.

Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.

Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện được mà thôi.

Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.

Ngoại trừ hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.

Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.

Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.

Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị Hình,, thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.

Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành “lý tưởng”.

Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.

Hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất thì có lợi hơn.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.

Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.

Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo tưởng” rất nặng.

Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa đến cung hạn “Thái dương Thiên lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại “ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.

Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”. Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.

Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi!

Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.

Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.

Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.

Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất quan trọng.

Tử vi và Thất sát đồng cung

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là “Vũ khúc Tham lang” và “Liêm trinh Phá quân” hội hợp.

Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh.

Muốn luận giải bản chất của hệ “Tử vi Thất sát” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan của chúng, là thuộc vào loại “quyền uy” hay thuộc vào loại “hoành hành bá đạo”.

Mệnh cách thuộc loại “quyền uy”, phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách “hoành hành bá đạo” dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ “Tử vi Thất sát” thủ mệnh, không có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong tính chất mà thôi.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” đã có tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “hoành hành bá đạo”. Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí “hoành hành bá đạo”, lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại “quyền uy”.

Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành tính chất “hoành hành bá đạo”, mà mệnh cách chủ về “quyền uy”.

Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “Hỏa tinh Đà la”, hoặc gặp hệ “Kình dương Linh tinh” đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ “Tử vi Thất sát” biến thành “hoành hành bá đạo”, đời người sẽ gặp nhiều trắc trở.

Cung đối diện là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể giải được tính chất “hoành hành bá đạo” của hệ “Tử vi Thất sát”. Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “quyền uy”, nhưng ít nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận lợi hơn.

Cung tam phương tương hội là hệ “Vũ khúc Tham lang”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “Tử vi Thất sát” nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được hưởng thụ.

Cùng một lý, hệ “Liêm trinh Phá quân” cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” dù không có tính chất “hoành hành bá đạo”, cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng khiến hệ “Tử vi Thất sát” thành “hoành hành bá đạo”, cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.

Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “quyền uy”, mà không phải thuộc loại mệnh cách “hoành hành bá đạo”. Khi có các sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “tương hòa”, khiến mệnh cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá.

Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách “hoành hành bá đạo”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều.

Cung hạn “Liêm trinh Phá quân”, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà không thích hợp với hệ “Tử vi Thát sát” loại “hoành hành bá đạo”, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.

Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “Hình kị giáp ấn” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “kho lộ”, “kho trống”, thì bất kể hệ “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.

Thiên phủ là “kho đầy”, lại không có Sát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình.

Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt.

Do tính chất không tương thích, vì vậy khi hệ “Tử vi Thất sát” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.

Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng độ, thông thường hệ “Tử vi Thất sát” ưa đến. Do hệ “Tử vi Thất sát” chủ về vất vả, khi đến cung hạn “Thiên đồng Thái âm” thì có thể được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ “Tử vi Thất sát” thuoock loại “quyền uy”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.

Hệ “tử vi Thất sát” đến cung đại vận “Thiên đồng Thái âm”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.

Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “Tử vi Thất sát” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.

Cung hạn “Vũ khúc Tham lang” đồng độ, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà không thích hợp với loại “hoành hành bá đạo”. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị phi, nếu thành cách “Hỏa Tham” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền.

Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.

Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh.

Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi.

Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng độ, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” không ưa Thái dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ “Thái dương Cự môn” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách “quyền uy” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn.

Nếu cung hạn “Thái dương Cự môn” có các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên chú ý.

Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “hiệu lệnh”, mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách “Hình kị giáp ấn”, đây là vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà gặp hạn “Hình kị giáp ấn” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi.

Gặp hạn “Tài ấn giáp ấn”, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại.

Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “Tử vi Thất sát” đến cung hạn này, đều nên “tĩnh” mà không nên “động”, nếu “động” sẽ gây tồn thất.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, cũng có lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà bất lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo”, thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” được cát hóa và có Cát tinh, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “bá đạo” càng dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân, bạn bè.

Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối với người có mệnh cách “bá đạo”, chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách “quyền uy” thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.

Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách “quyền uy” hay loại người mệnh cách “bá đạo”, đều không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách “quyền uy”, có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có mệnh cách “bá đạo”, vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa.

Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thất sát tinh quyết

Ở chung cư tầng nào tốt nhất?

Xu hướng hiện nay nhiều hộ gia đình trẻ lựa chọn căn hộ chung cư thay vì mua đất làm nhà. Lợi thế của căn hộ chung cư là cơ sở hạ tầng sẵn có, chỉ cần dọn về ở ngay trong khi giá cả lại thấp hơn so với việc mua nhà đất. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết và lựa chọn được một căn hộ chung cư ưng ý và tốt với mệnh của gia chủ.
Ở chung cư tầng nào tốt nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi xem xét lựa chọn một nơi ở nhà cao tầng thì cần phải xem xét các yếu tố về vị trí, yếu tố vật lí và phong thủy nơi ở. Tuy nhiên ở phương diện vật lí thì đa phần mọi người để ý hơn, còn phương diện phong thủy rất cần thiết thì mọi người đôi khi ít quan tâm hơn.

Xét một cách đơn giản, đối với môi trường vật lí của một tầng mà được coi là tốt nhất thì nếu tầng càng cao thì sẽ càng hấp thụ được những ánh sáng tốt. Còn tầng thấp hơn thì chất lượng không khí sẽ kém hơn, ô nhiễm âm thanh càng nhiều, chính vì vậy cần phải nhìn nhận xem ở những tầng nào sẽ là tốt nhất?

Nội thất cho nhà ở chung cư

Với một tòa nhà cao tầng thì thông thường phong thủy sẽ tập trung vào sự hài hòa về ngũ hành. Vì ở tầng cao do cách mặt đất xa nên thường thiếu yếu tố về đất trong ngũ hành. Những người có mệnh Thổ khá phù hợp ở những tầng cao như vậy. Tuy nhiên những người ở tầng cao không nhất thiết cứ phải là người mệnh Thổ. Trang trí nội thất căn phòng cần phải áp dụng các biện pháp bổ khuyết, hoặc tránh một số những chuyện cấm kỵ.

Phòng khách đối với một tầng nhà tốt nhất là giữa cửa chính và căn phòng cần bố trí cửa cái hoặc chiếc tủ thấp để che lấp. Nếu không có vách ngăn giữa cửa và phòng khách thì khí bên ngoài sẽ trực tiếp thâm nhập vào căn phòng, dương khí cũng sẽ thoát ra ngoài, không thích hợp để ở.

Cách hóa giải: Thiết kế cửa cái hoặc bố trí tủ thấp.

Lan can là một khu vực hết sức quan trọng trong phong thủy nhà cao tầng. Đó là nơi hội tụ ánh sáng, phù hợp với người mệnh Kim, giúp chủ nhà làm ăn phát tài. Vị trí ra vào cửa chính tuyệt đối không được đối diện với lan can, vì như vậy sẽ hình thành cái gọi là “ xuyên tim”, sẽ không có lợi cho việc tụ tài cho gia chủ và sẽ xảy ra những việc gây hao tài tốn của.

Cách hóa giải: Làm giống như đối với phòng khách, lắp thêm cửa hoặc bức bình phong để che.

Phòng bếp tương đương với mệnh Hỏa trong ngũ hành và khắc với Thủy hành trong phong thủy. Khi thiết kế căn phòng cần phải chú ý bếp không được đặt đối diện với lan can, cửa bếp hoặc cửa chính, vì nếu chẳng may hỏa khí có vào phòng thì sẽ gây tổn tại cho sức khỏe của chủ nhà.

Cách hóa giải: Dùng rèm cửa, có thể căn cứ vào hình dáng căn phòng để lựa chọn dùng rèm châu hay rèm vải.

Tầng chung cư hợp vị trí địa lý cũng như phong thủy

Thông thường, ngoài các tòa nhà cao tầng có từ 8 đến 11 tầng ra thì phân tích từ góc độ vị trí địa lí và phong thủy, lựa chọn tốt nhất khi ở nhà cao tầng như sau:

Đối với tòa nhà 15 tầng thì tầng 5 - 7 tốt nhất để ở.

Đối với tòa nhà 22 tầng thì tầng 5 - 7 và 14 - 17 tốt nhất để ở.

Đối với tòa nhà 24 tầng thì tầng 6 - 7 và 15 - 20 tốt nhất để ở.

Đối với tòa nhà 25 tầng thì tầng 6 - 7 và 15 - 20 tốt nhất để ở.

Đối với tòa nhà 26 tầng thì tầng 6 - 7 và 15 - 20 tốt nhất để ở.

Đối với tòa nhà 28 tầng thì tầng 6 - 7 và 15 - 22 tốt nhất để ở.

Đối với tòa nhà 39 tầng thì tầng 6 - 7 và 15 - 24 tốt nhất để ở.

Tóm lại, khi lựa chọn một căn nhà tầng tốt nhất cho mình và gia đình mình thì cần phải chạy theo lợi và tránh xa cái hại. Xử lí tốt các vấn đề về ngũ hành và đạt được những trạng thái hài hòa về môi trường là điều tốt đẹp nhất.

DiaOcOnline.vn - Theo Lao động

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ở chung cư tầng nào tốt nhất?

Mơ thấy chào hỏi người khác: Sẽ thăng quan tiến chức –

Một quân nhân đã xuất ngũ kể lại giấc mơ của mình: Trong mơ, tôi tìm về quân đội xưa, trở lại doanh trại với màu xanh quen thuộc, lòng tôi dâng tràn cảm xúc! Vài người lính nhiệt tình dẫn tôi đi thăm vị thủ trưởng già năm xưa. Vừa trông thấy ông, tô
Mơ thấy chào hỏi người khác: Sẽ thăng quan tiến chức –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chào hỏi người khác: Sẽ thăng quan tiến chức –

Cách bài trí phong thủy trong văn phòng –

Đầu tiên là chúng ta cần lựa chọn vị trí tối ưu trong phòng làm việc của bạn. 1 vị trí tối ưu phải được tính toán theo trạch vận, theo luật âm dương – ngũ hành, thường chỉ có các chuyên gia về phong thuỷ mới thẩm định chính xác được cho chúng ta. Tu
Cách bài trí phong thủy trong văn phòng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu tiên là chúng ta cần lựa chọn vị trí tối ưu trong phòng làm việc của bạn. 1 vị trí tối ưu phải được tính toán theo trạch vận, theo luật âm dương – ngũ hành, thường chỉ có các chuyên gia về phong thuỷ mới thẩm định chính xác được cho  chúng ta.

Tuy nhiên chúng ta cũng có thể lựa chọn được vị trí tốt cho riêng bản thân, theo những tiêu chí căn bản của thuật phong thủy văn phòng.

chon vi tri ngoi hop phong thuy Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

 

Bạn cũng nên sắp xếp đồ đạc thật gọn gàng trên bàn làm việc, việc để các vật dụng bừa bãi sẽ phát sinh âm khí làm giảm năng suất công việc. Ngoài ra, chúng ta nên dùng những pháp khí sau đây để bài trí trong văn phòng làm gia tăng hiệu quả trong công việc :

cau phong thuy bang pha le Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

qua cau pha le phong thuy Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

tuong ky lan dem lai su binh an Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

ngay xuan xem phong thuy nha 002 27052013 Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

dong tien co tuong trung cho tai loc Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

dong tien co Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

long quy de chieu tai loc va may man Cách bài trí phong thủy trong văn phòng

long quy Cách bài trí phong thủy trong văn phòng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bài trí phong thủy trong văn phòng –

Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh, Đặt tên cho con, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh, tu vi Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh, tu vi Đặt tên cho con

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh

Theo quan niệm ngày xưa thì việc đặt tên càng dễ nhớ thì càng dễ nuôi, nhưng ngày nay thì việc đặt tên cho con với ông bố, bà mẹ rất coi trọng. Cùng đặt tên cho con với những cái tên hay và ý nghĩa nhé. Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh

Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh

Những tên có gắn với từ nói nói về vật quý dùng làm trang sức đẹp như: Ánh Hà, Thái Hà, Đại Ngọc, Ngọc Hoàn, Linh Ngọc, Ngọc Liên, Trân Châu… cũng đã được các bậc cha mẹ khai thác nhiều với dụng ý con mình quý giá như chính các vật phẩm ấy.

Nếu chọn tên cho con gái mình một cái tên dễ gợi liên tưởng đến màu sắc đẹp, trang nhã, quý phái như: Yến Hồng, Bích Hà, Thục Thanh, Hoàng Lam, Thùy Dương… thì hẳn cô công chúa của bạn sẽ có được sắc đẹp của những sắc màu đó.

Dùng những chữ thể hiện phẩm hạnh đạo đức, dung mạo đẹp đẽ để đặt tên cho các bé gái như: Thục Phương, Thục Lan, Thục Trinh, Thục Đoan, Thục Quyên, Đoan Trang… cũng rất được ưa chuộng.

Ai cũng yêu thích những mùi hương ngọt ngào, quý phái. Vì vậy, dùng những từ gợi mùi hương quyến rũ như: Quỳnh Hương, Thục Hương, Hương Ngọc, Thiên Hương… là một gợi ý hay để đặt tên cho con gái của bạn.

Chọn tên cho con như thế nào?

Ngoài ý nghĩa tên theo vần, bạn có thể xem tuổi và bản mệnh của con để đặt tên cho hợp phong thủy. Một cái tên hay và hợp tuổi, mệnh sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho con bạn trong suốt đường đời.

Đặt tên cho con theo tuổi

Để đặt tên cho con theo tuổi, bạn cần xem xét tuổi Tam Hợp với con bạn. Những con giáp hợp với nhau như sau:
* Thân – Tí – Thìn
* Tỵ – Dậu – Sửu
* Hợi – Mão – Mùi
* Dần – Ngọ – Tuất

Dựa trên những con giáp phù hợp bạn có thể chọn tên có ý nghĩa đẹp và gắn với con giáp Tam Hợp. Ngoài ra cần phải tránh Tứ Hành Xung:
* Tí – Dậu – Mão – Ngọ
* Thìn – Tuất – Sửu – Mùi
* Dần – Thân – Tỵ – Hợi

Đặt tên con theo bản mệnh

Bản mệnh được xem xét dựa theo lá số tử vi và theo năm sinh, tùy theo bản mệnh của con bạn có thể đặt tên phù hợp theo nguyên tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc:

Dựa theo Tử Vi, các tuổi tương ứng sẽ như sau:
* Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cung Thổ
* Dần, Mão cung Mộc
* Tỵ, Ngọ cung Hỏa
* Thân, Dậu cung Kim
* Tí, Hợi cung Thủy

Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh

Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh

Lấy hình tượng sông để đặt tên: Hồng Hà, Hải Hà, Thu Hà, Ngân Hà, Nhị Hà, Thanh Hà; Trường Giang, Kim Giang, Thanh Giang, Hồng Giang, Thiên Giang, Lệ Giang, Cẩm Giang, Thu Giang, Tuyết Giang, Như Giang, Lê Giang, Trà Giang…

Lấy hình tượng núi để đặt tên: Du Sơn, Hoàng Sơn, Xuân Sơn, Mạnh Sơn, Phan Sơn, Hà Sơn, Huy Sơn, Hữu Sơn, Nhân Sơn, Quang Sơn, Thanh Sơn, Giang Sơn…

Lấy hình tượng biển để đặt tên: Quang Hải, Lê Hải, Thanh Hải, Lệ Hải, Tiền Hải, Dương Hải, Xuân Hải, Hải Đăng, Hải Thịnh, Hải Cường, Hải Nhân…

 

Lấy hình tượng hạt cát để đặt tên: Thanh Sa, Sa Lệ, Kim Sa, Hoàng Sa, Cẩm Sa, Kiều Sa, Như Sa, Trường Sa, Hải Sa, Đăng Sa…

 

Lấy hình ảnh bầu trời để đặt tên: Thiên Thanh, Hà Thiên, Thiên Cầm, Thiên Nhân, Hoàng Thiên, Vạn Thiên…
Lấy hình ảnh mây để đặt tên: Cẩm Vân, Thanh Vân, Hồng Vân, Kiều Vân, Phong Vân, Như Vân, Lê Vân, Thiên Vân, Thi Vân…

Lấy hình ảnh tuyết để đặt tên: Bạch Tuyết, Hồng Tuyết, Ngọc Tuyết, Giang Tuyết, Tuyết Mai, Ánh Tuyết…
Lấy hình tượng gió để đặt tên: Xuân Phong, Thu Phong, Hồng Phong, Mạnh Phong, Nam Phong, Hùng Phong, Hải Phong…

Lấy hình tượng mưa để đặt tên: Hoàng Vũ, Ngọc Vũ, Quang Vũ, Hồng Vũ, Chính Vũ, Thanh Vũ, An Vũ…
Có rất nhiều các hình tượng khác trong thiên nhiên, vạn vật cho bạn chọn lựa và đặt tên. Tùy theo môi trường, sở thích và đặc điểm tính cách cũng như ước vọng, bạn hãy lựa chọn hình tượng phù hợp để đặt cho con mình cái tên hay nhất.

Bạn có thể kết hợp theo từng năm sinh để lựa chọn tên theo bản mệnh phù hợp nhất, ví dụ:
* Canh Dần (2010), Tân Mão (2011): Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá)
* Nhâm Thìn (2012), Quý Tỵ (2013): Trường Lưu Thủy (nước chảy dài)
* Giáp Ngọ (2014), Ất Mùi (2015): Sa Trung Kim (vàng trong cát)
* Bính Thân (2016), Đinh Dậu (2017): Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi)
* Mậu Tuất (2018), Kỷ Hợi (2019): Bình Địa Mộc (cây mọc đất bằng)

Như vậy, nếu con bạn mệnh Mộc thì bạn có thể chọn tên liên quan tới Thủy (nước), Mộc (cây) hay Hỏa (lửa) để đặt tên cho con bởi Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa… Các tuổi khác cũng tương tự, dựa vào Ngũ Hành tương sinh, tránh tương khắc sẽ giúp mọi sự hạnh thông, vạn sự như ý.

Đôi lúc, hình ảnh một người thể hiện qua cái tên của họ. Nhiều người chỉ nghe tên mà chưa biết mặt, trong trường hợp đó, tên gọi là thông tin đặc biệt của người này. Đôi khi, người ta có thể nghe tên mà đoán được tính cách như thế nào. Vì vậy, đặt tên hay sẽ tạo được ấn tượng tốt cho người nghe.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên ý nghĩa cho bé gái hợp mệnh - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Xem tướng của phụ nữ nhận biết tính cách –

Trong mỗi cử chỉ, lời nói, cách ăn uống, phụ nữ phong trần luôn có vẻ yểu điệu rất kiểu cách. Đại thể, tướng của phụ nữ phong trần được thể hiện như sau: Xem tướng của phụ nữ - Khuôn mặt nhỏ nhắn nhưng dáng người to thô, da trên người thô ráp hơn da
Xem tướng của phụ nữ nhận biết tính cách –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng của phụ nữ nhận biết tính cách –

Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?

Rất nhiều người thường đến chùa thắp hương và cúi đầu bái Phật để cầu phúc, cầu tuổi thọ, cầu con đàn cháu đống.. Họ đều thành tâm thiện ý gửi gắm nơi cửa Phật, thế nhưng ý nghĩa của 3 nén nhang, 3 cái vái lạy lại không mang ý nghĩa như vậy. 3 nén nhang, 3 cái vái lạy trước Phật là một hành động thể hiện sự tôn kính, hành vi tự nguyện đối với đấng bề trên sáng suốt, và cũng đại diện cho luật nhân quả
Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2017 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2017 mới nhất nhé!

Chúng ta thường nghe nói thắp 3 nén nhang mà không được thắp 2 hoặc 4, thế nhưng ít ai hiểu được nó tượng trưng cho điều này.

Rất nhiều người thường đến chùa thắp hương và cúi đầu bái Phật để cầu phúc, cầu tuổi thọ, cầu con đàn cháu đống, vợ chồng hạnh phúc, cầu thăng quan tiến chức, cầu phát tài phát lộc, tình duyên mỹ mãn, vạn sự như ý. Họ đều thành tâm thiện ý gửi gắm nơi cửa Phật, thế nhưng ý nghĩa của 3 nén nhang, 3 cái vái lạy lại không mang ý nghĩa như vậy. 3 nén nhang, 3 cái vái lạy trước Phật là một hành động thể hiện sự tôn kính, hành vi tự nguyện đối với đấng bề trên sáng suốt, và cũng đại diện cho luật nhân quả

Đi chùa lễ phật là nét đẹp của người Việt

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2017 mới nhất>>>

Tại sao lại thắp 3 nén nhang?

Theo tín ngưỡng của người Việt, thắp nhang cho bàn thờ Phật, ông bà, tổ tiên là một lòng thành tâm mong muốn những điều tốt đẹp, cầu mong sức khỏe, sự bình an, hạnh phúc và tài lộc đến với gia đình. 3 nén nhang và 3 lạy có ý nghĩa rất sâu xa, liên quan mật thiết đến văn hóa và niềm tin của người Việt Nam.

Theo ngôn ngữ Phật học, 3 nén nhang lạy trước tượng Phật có ý nghĩa tương ứng với " giới hương, định hương và huệ hương. ".

- Nén nhang thứ nhất được gọi là "giới hương" nghĩa là trước mặt Phật biểu đạt lòng quyết tâm của mình, từ bỏ thói quen xấu, từ bỏ suy nghĩ xấu.

- Nén nhang thứ hai gọi là "định hương" có ý nghĩa là dù có điều gì xảy ra trong cuộc sống, tinh thần cũng sẽ bình tĩnh, cầu mong luôn suy nghĩ sáng suốt, hành động theo lí trí.

- Nén nhang thứ ba là "tuệ hương" (hay "huệ hương") có ý cầu khẩn bản thân được có trí tuệ, thông minh, sáng suốt để gặp được Phật tâm. 

Theo kinh Phật, "giới, định, huệ" là phương pháp "khai mê khai ngộ" bỏ qua những suy nghĩ sai lầm, một tấm lòng chân chính, lương thiện, hướng về đức Phật. Chỉ khi còn người từ bỏ được cách nghĩ xấu, hành động xấu thì nhân quả của bản thân mới được trở nên tốt đẹp hơn. Giới, Định, Huệ là cách để con người thoát khỏi sự mê muội và đi đến con đường tỉnh ngộ và đó cũng là một loại quan hệ nhân quả. Chỉ có vứt bỏ đi thói quen và những quan niệm xấu của bản thân, tâm mới yên và sau đó mới xuất hiện “yên mới sinh huệ”.

Tại sao lại lạy 3 lạy?

Vậy tại sao lại lạy 3 lạy? Lạy thứ nhất thể hiện lòng thành tâm hướng Phật. Lạy thứ hai thể hiện ước vọng muốn được giác ngộ, muốn được quy về chốn cửa Phật. Lạy thứ ba là trang nghiêm sám hối lỗi lầm của mình trước Phật. 

Như vậy, thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy là một hành động không phải chỉ theo thói quen mà là một nghi lễ có truyền thống lâu đời, thể hiện cái tâm ấm áp, tín ngưỡng cao đẹp của dân tộc hướng tới những điều lương thiện. 

>> Đã có VẬN HẠN 2017 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?

Đại kỵ phong thủy gây trắc trở nghiệp của dân văn phòng

Sự nghiệp ổn định thuận lợi là mong ước của nhiều người. Tuy nhiên, khi phạm những lỗi phong thủy dưới đây chắc chắn mệnh chủ sẽ gặp trắc trở trong sự nghiệp.
Đại kỵ phong thủy gây trắc trở nghiệp của dân văn phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự nghiệp ổn định thuận lợi là mong ước của nhiều người. Tuy nhiên, khi phạm những lỗi phong thủy dưới đây chắc chắn mệnh chủ sẽ gặp trắc trở trong sự nghiệp, hãy cùng ## tìm hiểu.


Dai ky phong thuy gay trac tro nghiep cua dan van phong hinh anh
 
1. Phương vị không chuẩn

Phong thủy đặc biệt coi trọng phương vị và khí trường, đối với công việc thì phòng làm việc và bàn làm việc trực tiếp chịu ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Vậy nên, khi chọn vị trí bàn làm việc cần thận trọng chú ý đến vị trí và vị trí cần phù hợp với mệnh lý của mệnh chủ. Ngoài ra, các lỗi phong thủy như chạm góc, quay lưng với cửa, góc phòng đối diện bàn làm việc đều sẽ ảnh hưởng đến công việc, sự nghiệp gặp trở ngại.
Chọn chuẩn màu quần áo cho 12 con giáp để tài vận dồi dào trong tháng 5
Màu sắc được kết hợp chính xác sẽ đem đến tài vận cho mệnh chủ. Những màu sắc trong trang phục dưới đây nếu được các con giáp diện trong tháng 5 sẽ đem đến tài

2. Bàn làm việc bừa bộn

Nhiều người cho rằng phong thủy chỉ liên quan đến cách bày biện trong phòng, không liên quan đến thói quen của bản thân, tuy nhiên đây là cách hiểu sai làm. Người và không gian luôn có mối quan hệ tương tác, nếu bàn làm việc bừa bộn, sẽ khiến vận thế rối loạn, sự nghiệp cũng theo đó gặp trắc trở. 
3. Quá nhiều đồ trang trí rực rỡ

Dai ky phong thuy gay trac tro nghiep cua dan van phong hinh anh 2
 
Rất nhiều dân văn phòng, đặc biệt là phụ nữ thích bày biện nhiều đồ trang trí rực rỡ trên bàn như chậu cây, tượng, đồ thủ công,…Tuy nhiên, điều này ẩn chứa nhiều khí trường không tốt trong phong thủy. Khi vận thế mệnh chủ tốt sẽ không đem đến ảnh hưởng, song khi họ gặp điều không may thì những đồ vật có gai nhọn như cây xương rồng, cây dây leo, đồ thủ công có khiếm khuyết làm họ càng gặp nhiều rắc rối hơn trong sự nghiệp. Vậy nên, dân văn phòng không nên bày biện quá nhiều đồ trang trí rực rỡ.
=> Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại kỵ phong thủy gây trắc trở nghiệp của dân văn phòng

Tướng bụng –

Kiểu bụng - “Tam Nhâm” (theo thuyết Trung Hoa) thì phải tròn và dày trơn bóng đó mới là quý. - Bụng thuộc “duy biến”. Nó thay đổi ngay theo thời vận chứ không giống lúc sinh ra tức “bất biến”. Người ta nói “bụng phát phệ - (phúc)”. - Tướng bụng được
Tướng bụng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng bụng –

Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ

Tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ thấy sự thuận lợi từ trung vận, sự nghiệp thăng hoa nếu biết mở rộng quan hệ. Đường tình duyên gặp nhiều trở ngại khó
Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ thấy sự thuận lợi từ trung vận, sự nghiệp thăng hoa nếu biết mở rộng quan hệ. Đường tình duyên của mệnh chủ gặp nhiều trở ngại khó khăn, nữ mệnh hồng nhan bạc mệnh.


Xem tu vi tron doi nguoi sinh ngay Nham Ngo hinh anh
 
Ngày Nhâm Ngọ có âm dương tương hợp, Ngọ Hỏa thuộc tàng khí của Đinh Hỏa. Mệnh chủ trên đường đời tất gặp Dậu Kim, nên kết hợp với Đinh Mùi   Trụ ngày Nhâm Ngọ là mệnh phúc khí, tuy tiền vận bất định nhưng sẽ gặp nhiều việc suôn sẻ thuận lợi từ trung vận. Để thành công trong sự nghiệp, họ cần nhìn nhận công việc thực tế và mở rộng các mối quan hệ của bản thân.
Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do nghiệp duyên
Giáo lý nhà Phật có dạy, con người hội ngộ là do duyên nợ từ kiếp trước. Mối nhân duyên giữa con cái và cha mẹ cũng không phải ngoại lệ. Thông thường, con cái

Mệnh chủ dễ phiền não từ những yếu tố bên ngoài, thiếu sự kiên nhẫn nên hay dở việc giữa chừng. Người sinh ngày Nhâm Ngọ thuộc trường phái lãng mạn, mộng tưởng nên gặp nhiều sự đả kích từ thực tế. Ngoài ra, họ còn là người trọng tình nghĩa, được nhiều người kính trọng. 

Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ thấy bị quấy nhiễu bởi tình duyên, tình yêu và hôn nhân dễ gặp trắc trở, vậy nên họ cần cẩn thận lựa chọn đối tượng hôn nhân để tránh sự chia ly khi đến trung vận. Đặc biệt, nữ mệnh thường được gọi là "hồng nhan bạc phận", chịu nhiều khổ cực vì chuyện tình cảm, gia đình và con cái.
Xem tu vi tron doi nguoi sinh ngay Nham Ngo hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Nhâm Ngọ thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Mùi, Ất Dậu, Bính Thìn, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Tuất, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Thân, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Kỷ Mùi, Canh Tý, Canh Dần, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Dậu, Tân Mùi, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Nhâm Thìn, Quý Mão, Quý Sửu, Quý Hợi, Quý Mùi.
Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ

Cách làm bánh trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao

Cách làm bánh trung thu của Bạch Dương nhất định sẽ khác với Song Ngư vì một người thì nóng vội còn người kia rất thích mơ mộng, được thế hiện sáng tạo của họ.
Cách làm bánh trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách làm bánh trung thu của Bạch Dương nhất định sẽ khác với Song Ngư vì một người thì nóng vội còn người kia rất thích thực hiện điều gì thỏa mãn sự mơ mộng và khả năng sáng tạo của họ.   Không phải ai cũng có thể làm bánh, đặc biệt là bánh Trung thu tuy nhiên, giờ đây có rất nhiều cách sáng tạo trong việc làm bánh để tạo cảm hứng cho từng tính cách, sở thích của từng người. Đây là lý do mà cách làm bánh Trung thu của từng cung hoàng đạo hoàn toàn không giống nhau. 
 
Vậy sao chúng ta không thử dựa trên các đặc điểm nổi bật của từng cung hoàng đạo để xem họ sẽ làm bánh Trung thu như thế nào nhỉ?  

Bạch Dương 

  Với tính cách thoải mái, dễ chịu cũng như vô tư nhất trong các cung hoàng đạo Bạch Dương ưu tiên sự đơn giản trong mọi việc. Vì thế, cách làm bánh Trung thu của họ cũng không phải ngoại lệ. Họ sẽ chọn làm những kiểu bánh đơn giản hoặc nhân bánh sẽ làm theo phương pháp truyền thống.

Thêm nữa, vì thích sự mới lạ nên có thể hình thù bánh có khác thường một chút bạn cũng đừng vội chê bánh của Bạch Dương nhé. Họ cũng không đủ kiên trì để làm việc gì từ đầu đến cuối nên bánh có hơi sượng vì chưa chín kỹ, hình dáng bánh chưa hoàn hảo thì cũng đừng ngạc nhiên. 

Ngoài ra, khi mà cảm thấy các bước làm có vẻ phức tạp, họ sẽ chọn làm chiếc bánh nhỏ xinh gọi là góp vui cùng mọi người chứ không đủ "dũng cảm" để làm bánh to.

Xem thêm: 12 chòm sao lựa chọn tình yêu hay ước mơ, ai lý trí ai cảm tính?
 
Cach lam banh trung thu khong ai giong ai cua 12 chom sao
 

Kim Ngưu 

  Ít ai khéo léo và giỏi việc nội trợ như Kim Ngưu vì thế, mỗi dịp được làm bánh Trung thu cũng là cơ hội để họ trổ tài nấu nướng trước mặt bạn bè, người thân. Kim Ngưu là một trong những chòm sao vô cùng khó tính và khắt khe, đặc biệt họ là những con sâu mê ăn ngon như nên chắc chắn sẽ cẩn thận nếm thử từng vị, từng vị một rồi mới bắt tay vào làm.

Hơn nữa, họ cũng là cung hoàng đạo nổi tiếng vì yêu thích các giá trị truyền thống, với tính cách khá cứng nhắc, cầu toàn cao nên không khó hiểu nếu sự lựa chọn của Kim Ngưu là làm những chiếc bánh Trung thu có hương vị truyền thống. 
 

Song Tử 

  Song Tử là chòm sao rất hào hoa, đa tài vì thế nấu nướng, làm bánh không thể làm khó những người thuộc cung hoàng đạo này. Ngoài ra, họ cũng là người khá khắt khe, tỉ mỉ trong từng bước làm bánh, vì thế, nếu được thưởng thức món bánh Trung thu do họ làm ra bạn sẽ không ngừng trầm trồ vị vị của bánh rất ngon.

Không những thế, với khả năng sáng tạo của mình thì bánh truyền thống sẽ được xem là nhàm chán, những chiếc bánh họ làm thường khá bắt mắt, màu sắc thu hút. Đó có thể là bánh có màu xanh, màu tím như bánh Trung thu vị trà xanh, khoai môn,... hoặc trên bánh có gắn những hình bông hoa đẹp mắt.

Xem thêm: Những mâm cỗ Trung Thu đẹp lòng người lớn, vui lòng con trẻ
 
Cach lam banh trung thu cua Song Tu
 

Cự Giải 

  Cự Giải là một cung hoàng đạo luôn hướng về gia đình, về những điều bình yên và ổn định. Vì thế, cách làm bánh Trung thu đối với họ không quan trọng bằng việc có những ai cùng làm với mình. Họ xem đây là hoạt động gắn kết mọi người lại gần nhau nên luôn muốn cả nhà cùng bắt tay vào làm bánh. Người nhào bột, người làm nhân, người tạo khuôn cho bánh, người nhận nhiệm vụ cho bánh vào lò... thì bánh sẽ là thành quả của tất cả các thành viên trong nhà.

Không khí tươi vui, rộn ràng khi mỗi người một việc sẽ mang lại niềm vui khôn tả cho Cự Giải. Những chiếc bánh chỉ thể hiện giá trị tinh thần đối với họ nên dù bánh không ngon, màu sắc không chuẩn, mùi vị không hợp họ vẫn vui vẻ ngồi ăn cùng mọi người.  
 

Sư tử 

  Sư tử luôn thích được là trung tâm của mọi sự chú ý bởi tính cách mạnh mẽ cùng những điểm thu hút khác biệt. Vì thế, chỉ mình họ mới biết họ muốn làm bánh hình dáng như thế nào, loại nhân gì, và điều quan trọng là đừng ai động đến các bước trong công đoạn làm bánh của họ vì họ sợ bị hỏng.

Tuy nhiên điểm yếu của họ chính là khả năng nấu nướng không được tốt nên dù rất muốn bánh Trung thu của mình đẹp nhất có thể nhưng vì tính cách không muốn nhờ dựa ai khiến thành quả của họ thường không được như ý. Hơn nữa, trong thâm tâm Sư Tử luôn nghĩ, sao phải làm bánh trong khi bạn có thể mua từ những thương hiệu nổi tiếng, vừa sang lại vừa đỡ mất thời gian. 
 
Cach lam banh Trung thu cua Cu Giai
 

Xử Nữ 

  Sự tỉ mỉ, cẩn thận của Xử Nữ không có ai đọ nổi, vì thế cách làm bánh Trung thu của họ cũng khá cầu kỳ, họ sẽ không chọn làm những món bánh truyền thống mà sẽ chọn những hình dáng bánh lạ mắt, hình thù đáng yêu và nhân bánh cũng thật đặc biệt.

Cung hoàng đạo hảo ngọt này rất thích làm bánh có nhân socola lạ miệng. Vì thế, nếu bạn là người mê đồ ngọt và được thưởng thức bánh do chính tay họ làm bạn hoàn toàn an tâm về vấn đề vệ sinh thực phẩm và đặc biệt là vị vừa ngon vừa lạ sẽ khiến bạn vô cùng thích thú.

Tham khảo: Trung Thu 2017: Chòm sao nào say trong hạnh phúc, chòm sao nào ôm nỗi cô đơn?
 

Thiên Bình

  Thiên Bình cũng biết nấu nướng, tuy không giỏi như nhiều cung hoàng đạo khá nhưng cũng đủ bạn cảm thấy hài lòng. Họ thích những gì mới lạ và đẹp mắt nên sẽ không ngại lên mạng tìm những kiểu bánh mới nhất trong năm mà mọi người đang làm và sau đó bắt tay vào thực hiện từng công đoạn một cách say sưa.

Sự khéo léo và khả năng cảm thụ cái đẹp của Thiên Bình lần này được thể hiện qua những chiếc bánh. Vì thế, khi được ngắm nghía chúng bạn sẽ không ngừng trầm trồ vì bánh Trung thu quá đẹp. Lý do cơ bản là những bánh nào xấu họ đã tự ăn hoặc cất kín vào một xó nào đó rồi.
 
Cach lam banh Trung thu cua Thien Binh
 

Hổ Cáp

  Tính cách bí ẩn, mạnh mẽ khó hiểu của Hổ Cáp khiến bạn có thể cho rằng những người này không bao giờ thích làm bánh. Tuy nhiên, thực tế sẽ khiến bạn bất ngờ khi họ trổ tài làm bánh Trung thu trước mặt bạn. Họ không cầu kì trong việc nên làm bánh gì vì đối với họ không quá quan trọng, họ cho rằng dù sao những món ăn truyền thống nên được giữ nguyên vẻ truyền thống của nó.

Vẻ ngoài của họ khiến bạn tưởng rằng họ hướng ngoại nhưng thực ra họ lại rất hướng nội, họ thích được làm bánh cho các thành viên trong gia đình thưởng thức hơn là đi mua ở ngoài tiệm. Được ăn bánh mình làm và thưởng trà cùng với bạn bè, người thân chắc chắn là điều mà Hổ Cáp rất thích mỗi dịp Trung thu về.
 

Nhân Mã 

  Với tính cách phóng khoáng, vô lo, vô nghĩ nên cung hoàng đạo Nhân Mã không quá quan trọng mình sẽ ăn gì, làm gì. Việc làm bánh chắc chắn là việc tùy hứng hoặc có thể được bạn bè rủ rê, ham vui nên họ cũng bắt tay vào làm. Vì không quá tập trung, để tâm vào việc của mình nên bánh của họ không ngon cũng là dễ hiểu.

Tuy nhiên một chút tính tò mò, ưa mạo hiểm khiến họ thích thử nghiệm làm những chiếc bánh Trung thu có phong cách mới lạ, có khi đó là món bánh bạn chưa được thưởng thức bao giờ. Dù sao điều này cũng đã đủ bạn hào hứng chờ đón bánh do chính tay Nhân Mã làm. Hi vọng nhiều sẽ dễ dẫn đết thất vọng nhiều nên bánh của họ nhiều khi bạn chỉ nên để ngắm hơn là ăn.

Xem thêm: Tuổi Mão cung Nhân Mã: Độc lập và đa tài

Cach lam banh Trung thu cua Nhan Ma
 
 

 Ma Kết 

  Cung hoàng đạo Ma Kết luôn đề cao vấn đề sức khỏe của bản thân cũng như các thành viên trong nhà, vì thế cách làm bánh của họ rất cầu kỳ, luôn đảm bảo sự sạch sẽ, hợp vệ sinh. Nếu bạn đang rảnh tay, hãy cố gắng giúp họ thực hiện vì những người thuộc cung hoàng đạo này rất thích được ai đó hỗ trợ những gì mà mình chưa thực sự xuất sắc.   Hơn nữa, họ không thích các loại bánh Trung thu truyền thống vì có quá nhiều chất béo. Họ cũng tin rằng hoa quả luôn tốt cho sức khỏe nên bánh Trung thu của Ma Kết nhất định sẽ có rất nhiều loại hoa quả, hạt khô như: hạnh nhân, sen khô, hạt điều,...   

Bảo Bình 

  Tưởng rằng con người luôn phá vỡ sự an toàn với suy nghĩ khác biệt như Bảo Bình sẽ thích làm những chiếc bánh Trung thu đầy màu sắc tươi mới, có vị đặc biệt nhưng thực tế về vấn đề ăn uống họ khá kỹ tính, không thích sự thay đổi.

Vì thế, bánh họ làm hoàn toàn theo phong cách truyền thống, nếu có thì thay đổi một chút với nhân đậu xanh nhưng vỏ bánh vẫn mang vẻ ngoài cổ điển.  
 
Cach lam banh Trung thu cua Bao Binh
 

Song Ngư 

  Với tính cách ngọt ngào, lãng mạn nên đối với Song Ngư đây là thời gian để tận hưởng hạnh phúc bên người thân và bạn bè. Bằng khả năng sáng tạo và sự khéo léo từ trong bản năng họ sẽ làm nên những chiếc bánh đẹp mắt với những màu sắc mơ mộng như hồng, tím.

Có thể nói, những chiếc bánh được chính Song Ngư làm sẽ đảm bảo hài hòa cả sắc cả hương, vị ngon thì miễn chê vì dường như ai cũng cảm nhận sự nhiệt huyết và tình cảm của họ trong từng chiếc bánh.
MiMo

Top 4 con giáp may mắn nhất trong dịp Tết Trung Thu 2017 Tết Trung Thu tụng chú Nguyệt Quang Bồ Tát tán tai, cầu an Ý nghĩa Tết Trung thu truyền thống của Việt Nam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách làm bánh trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao

Kiến thức phong thủy. Chọn tên cho con mang lại may mắn năm Giáp Ngọ –

Con bạn sinh năm 2014, là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) vậy vấn đề đặt tên cho con sinh năm Giáp ngọ 2014 như thế nào? Con bạn sinh năm 2014 Giáp Ngọ là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) và trước khi sinh cháu thì vấn đề ‘Đặt tên ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con bạn sinh năm 2014, là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) vậy vấn đề đặt tên cho con sinh năm Giáp ngọ 2014 như thế nào?

500_thumb (2)

Con bạn sinh năm 2014 Giáp Ngọ là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) và trước khi sinh cháu thì vấn đề ‘Đặt tên cho con sinh năm Giáp ngọ 2014 như thế nào?’ là câu hỏi được các bậc cha mẹ sinh con vào năm 2014 quan tâm nhiều nhất.

Người tuổi Ngọ là người cầm tinh con ngựa, sinh vào các năm 1954, 1966, 1978, 1990, 2002, 2014, 2026… Dựa theo tập tính của loài ngựa, mối quan hệ sinh–khắc của 12 con giáp (tương sinh, tam hợp, tam hội…) và ngữ nghĩa của các bộ chữ, chúng ta có thể tìm ra các tên gọi mang lại may mắn cho người tuổi Ngựa.

1. Tính cách người tuổi Ngọ Người sinh năm Ngọ, tính tình khoáng đạt, tư duy nhanh nhạy, năng lực quan sát tốt. Theo dân gian, người tuổi Ngựa tính khí nóng nảy, hay sốt ruột, làm việc vội vàng. Họ dễ rơi vào lưới tình, song cũng thoát ra nhanh chóng và nhẹ nhàng. Họ thường thoát ly gia đình khi trưởng thành, cho dù ở nhà họ vẫn mang tinh thần độc lập và chờ thời cơ bay nhảy, sức sống của người tuổi ngựa mạnh mẽ, song thường có biểu hiện lỗ mãng, vội vàng, ưu điểm lớn nhất của họ là lòng tự tin mạnh mẽ, xử sự hào nhã. họ có năng lực buôn bán. Họ thích mặc màu nhạt, kiểu cách độc đáo và đẹp. Họ luôn làm theo ý mình, thích mình là trọng tâm. Khi trình bày quan điểm họ vung tay múa chân, quyết nói ra toàn bộ suy nghĩ của mình. Hiện tượng mâu thuẩn trước sau trong tính cách của họ là do tình cảm hay thay đổi của họ sinh ra. Họ làm việc theo trực giác. Bạn không thể thay đổi được tính khí (thói quen bẩm sinh) này của họ. Họ làm việc tích cực làm được nhiều việc cùng một lúc, khi đã quyết định họ lao vào làm ngay. Người tuổi Ngọ rất khó làm việc theo kế hoạch của người khác. Họ ít có tính kiên nhẫn. Họ thích làm những việc có tính hoạt động, họ giỏi giải quyết việc gay cấn, rắc rối, khi nói chuyện họ không tập trung, họ làm việc với thái độ tích cực, mong công việc giải quyết nhanh chóng. Nữ tuổi ngọ có sức sống mạnh mẽ, cữ chỉ nhẹ nhàng, nói hơi nhiều. Họ có thể dịu dàng nhưng có lúc tỏ ra cực đoan. Tóm lại người tuổi Ngựa, tính tình khoán đạt, chung sống hòa hợp, tinh thần làm việc cao.

2. Những từ nên dùng đặt tên cho con tuổi ngựa

a. Nên dùng những từ có bộ THẢO (cỏ) bộ KIM (vàng) người tuổi Ngọ mang tên hai bộ này sẽ có học thức uyên bác, yên ổn, giàu có, vinh quang, hưởng phúc suốt đời

BỘ THẢO

Miêu: mạ, cây giống

Nhận: khoai sọ

Ngải: cây ngải cứu

Cửu: một loại cỏ thuốc

Thiên: um tùm Vu: khoai sọ

Khung: xuyên khung

Bào: đài hoa Chi: cỏ thơm

Duẩn: măng Cầm: cây thuốc

Hoa: Bông Phương: thơm

Chỉ: bạch chỉ

Nhiễm: chỉ thời gian trôi

Linh: cây thuốc phục linh

Nhược: giống như

Dĩ: cây thuốc Ý dĩ

Bình: táo tây Mậu: tươi tốt

Nhị: nhị hoa

Huân: cỏ thơm

Truật: mầm, chồi

Trăn: um tùm

Sảnh: xinh đẹp

Minh: trà

Thù: cây thuốc dũ

Trà: trà

Thảo: cỏ

Cấn: cây mao dương hoa vàng

Tiến: cỏ thơm

Thuyên: cỏ thơm

Hưu: cỏ sâu róm, cỏ đuôi chó

Lợi: dung đặt tên Nam, Nữ đều được

Toán: tỏi

Dược: thuốc

Thúc: đỗ

Diệp: lá

Huyên: cây hoa hiên

Đổng: họ

Đổng Uy: xum xuê

Lan: hoa lan

Nghệ: nghệ thuật

Lam: màu xanh da trời

Lội: nụ hoa Nhuế: họ

Nhuế Liên: hoa sen

Tưởng: họ Tưởng

Dĩnh: thông minh

Phạm: họ phạm

Tiết: họ Tiết

Tạng: họ Tạng

Vạn: họ Vạn

Cúc: họ Cúc

BỘ KIM:

Kim: vàng

Xuyến: vòng đeo tay

Linh: cái chuông

Ngân: bạc

Nhuệ: lanh lợi

Lục: sao chép

Cẩm: gấm

Tiền: tiền bạc

Kiện: phím đàn

Toản: kim cương

Bát: bát đồng đựng thức ăn

Giám: gương soi

Luyện: gọt rũa

Kính: gương soi

Thiết: sắt Điền: tiền (cổ)

Cự: to lớn

b.Nên chọn những chữ có bộ:NGỌC, MỘC, HÒA (cây lương thực) sẽ được quý nhân giúp đỡ, đa tài khôn khéo, thành công rực rỡ như

BỘ NGỌC: Giác: ngọc ghép thành 2 miếng Doanh: đá ngọc Tỷ: ấn của nhà vua Bích: ngọc quý(hình tròn giữa có lỗ)

BỘ MỘC: Đông: phương đông Sam: cây tram Bân: lịch sự Hàng: Hàng Châu Vinh: vinh dự Nghiệp: nghề nghiệp

BỘ HÒA: Hòa: cây lương thực Tú: đẹp Bỉnh: họ Bỉnh Khoa: khoa cử Tần: họ tần Giá: mùa màng Tắc: kê Nhu: mềm mỏng Lâm: mưa to Kiệt: tài giỏi Đống xà ngang Sâm: rừng Thụ: cây Đạo: lúa Tô: tỉnh lại Tích: tích tụ Thử: kê nếp

c. Nên đặt tên có bộ TRÙNG (côn trùng) ĐẬU(đỗ) Theo dân gian người tuổi Ngựa mang tên này sẽ phúc lộc dồi dào danh lợi đều vẹn toàn Mật: mật ong Điệp: bướm Dung hòa hợp Huỳnh: đom đóm Túy: tinh hoa Diệm: xinh đẹp Thụ: dựng đứng lên

d. Nên chọn những chữ có bộ TỴ(rắn), MÙI(dê), Dần(hổ) TUẤT (chó) vì con Ngựa hợp với rắn, dê, hổ, chó. Bưu: hổ con Hí: kịch Thành: họ Thành Dần: hổ, địa chi dần Xứ, nơi chốn Tuất: địa chi tuất Kiến: xây dựng Quần: đám đông Nghĩa: tình nghĩa Sư: sư tử Độc: một mình Mỹ: đẹp Tiến: tiến lên

3. Những tên kiêng kỵ không nên dùng đặt tên cho con tuổi Ngọ Không nên dung chữ có bộ ĐIỀN, bộ HỎA, bộ CHẤM THỦY, bộ THỦY, BĂNG (nước đá) BẮC (phương Bắc) vì Ngựa mạng Hỏa đặt tên cho người tuổi Ngựa những chữ thuộc bộ này sẽ lo âu mệt mỏi, tinh thần hoặc tính tình ngang ngạnh, dễ xãy ra tranh cải, mọi việc bất thuận như: Giáp: can Giáp Do: họ Do Đĩnh: bờ ruộng Chẩn: bờ ruộng Nam: con trai Tất: ho Tất Trù: đồng ruộng Viêm: nóng Huyễn: sáng chói Quýnh: sang quắc Mẫu: đơn vị đo diện tích Dã: đồng ruộng Trác: luộc, trần Dục: dọi sang Diệp: cháy hừng hực Thân: địa chi Thân Điện: xưa chỉ vùng ngoại ô Giới: ranh giới Phú: phú quý Hỏa lữa Bính: sang chói Chú: bấc đèn Cương: bờ cỏi Lỗi: nụ hoa Hoán: sang sủa Sí: nóng bỏng Lạn: rối ren, lộn xộn Thủy: nước Băng: nước đá Tịch: nước thủy triều Giang: song Tấn: con nước Hà: song Khí: hơi nước Trì: ao Ba: song Dương: biển lớn Lang: song Hải: biển Trạch: đầm hồ Đông: mùa đông Loan: vịnh Sa: cát Cảng: biển Thục: thùy mị Nhuận: ẩm ướt Hoài: sông Hoài Thanh: trong Hoán: ào ào Và cũng không nên dùng chữ có bộ DẬU (gà), bộ MÃ bộ TÝ (chuột) NGƯU (Trâu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Chọn tên cho con mang lại may mắn năm Giáp Ngọ –

Môi trường sống ảnh hưởng đến hình tướng?

Sông núi và khí hậu khác nhau, hình thể, tính cách của con người ở những khu vực khác nhau cũng có dày mỏng, nặng nhẹ, thanh đục khác biệt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sông núi và khí hậu khác nhau, hình thể, tính cách của con người ở những khu vực khác nhau cũng có dày mỏng, nặng nhẹ, thanh đục khác biệt.

khuon-mat-dep

Theo người xưa, núi non thanh tú và cao, phong cách người nơi đó cứng cỏi, kiên cường; nơi nhiều nước đất mỏng, người ở đó thường trọng tình nghĩa. Điều này chủ yếu là do ảnh hưởng của môi trường sống ở khu vực khác nhau, luận tướng cần phải chú ý tới điểm này.

Môi trường sống lại ảnh hưởng khá lớn đến khí sắc. Đường Cử luận tướng không thích luận ngôn hình mà thích luận sắc, luận khí. Ý nghĩa sâu xa của nó là ở hình thể, giọng nói thông thường không thế thay đổi mà hơn nữa lại rất dễ phân biệt, còn khí sắc thì do thường xuyên thay đổi nên khó nắm bắt.

Theo như tiên sinh Đường Cử thì phải nắm được chỗ tinh yếu của nó, đó là chỗ khác với người thường.

Tác phẩm Luận khí sắc của ông có viết:

“Khí sắc của người phát ra từ tâm, quấn quanh phổi, tiếp xúc với gan, tán ra ở thận, phát triển ở tì. Vì vậy, khí sắc sáng thì thần tĩnh, huyết mạch thông thuận, dễ tiêu hóa, khiến con người vui vẻ. Nếu khí sắc u tối thì tâm loạn mà huyết không thông khiến con người buồn bã. Vui vẻ và buồn bã thể hiện ra bên ngoài thì như mây mỏng che mặt trời, còn nếu không rõ ràng thì như tỳ vết ẩn trong bích ngọc. Nếu có thể nghiên cứu một cách thông suốt thì có thể nhận biết được sự buồn vui của mỗi người”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Môi trường sống ảnh hưởng đến hình tướng?

Hóa giải 3 cửa thông nhau –

Chi tiết câu hỏi: Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp! Trả lời: Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

dai_ky_cau_truc_cua_doi_cua_trong_nha_3

Chi tiết câu hỏi:

Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp!

Trả lời:

Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa. Trên cửa nhà trên dùng chuông gió chấn lại để tán khí và dùng thêm một gương cửu long bát cát tường mà chiêu tài cho nhà bạn!  


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải 3 cửa thông nhau –

Lưu ý phong thủy 'chớ quên' cho căn hộ nhỏ

Tìm hiểu các giải pháp thiết kế và trang trí để phong thủy căn hộ nhỏ luôn tốt đẹp, thịnh vượng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy căn hộ nhỏ có thể là một thách thức, không dễ dàng thực hiện vì thông thường, có rất ít hoặc không có sự phân cách phòng khách, chỗ làm việc và không gian ngủ nghỉ của bạn. Nói cách khác, bạn sẽ làm thế nào để áp dụng phong thủy nếu phòng ngủ là một phần của phòng khách, và phòng bếp nằm ngay gần đó. Tất cả các khu vực đều không có tường để tách biệt các nguồn năng lượng khác nhau?

Mặc dù đây là một tình trạng phổ biến ở nhiều thành phố lớn, nó không có nghĩa rằng bạn không thể tạo ra phong thủy tốt trong một căn hộ nhỏ.

Có 2 kỹ năng chính bạn hoàn toàn có thể làm chủ nếu bạn muốn đạt được phong thủy tốt cho căn hộ của mình, đó là:

- Kỹ năng sắp xếp, tổ chức khoa học và loại bỏ sự lộn xộn, bừa bãi.

- Kỹ năng tinh tế của việc tạo ra sự phân chia hài hòa giữa các không gian mở khác nhau.

Loại bỏ sự xộn xộn với phong thủy, một khi bạn bắt đầu tập luyện, nó có thể trở thành một quá trình chữa trị và thực sự thú vị. Làm thế nào để biết cách tạo ra sự ngăn cách giữa các khu vực có chức năng khác nhau, sẽ không phải làm cho không gian trông thậm chí còn nhỏ bé hơn? Câu trả lời chắc chắn là có thể.

Nhưng bạn phải tiếp tục cố gắng cho đến khi tìm ra giải pháp hoàn hảo cho không gian sống nhỏ xinh của mình. Về cơ bản, bạn cần mở con đường năng lượng trong căn hộ và đảm bảo sự riêng tư nhiều nhất có thể cho phòng ngủ.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 1

Khi sắp xếp, trang trí nội thất không được quên "mở" đường cho năng lượng lưu thông.

Mỗi không gian sẽ yêu cầu những giải pháp cụ thể. Ví dụ, bạn có thể làm việc tại nhà, do đó, bạn sẽ cần đối phó với nhiều vách ngăn chia không gian hơn trong nhà. Một số loại vách ngăn phong thủy điển hình dành cho căn hộ nhỏ là bình phong, cây xanh cao lớn, giá sách hoặc một tấm rèm.

Để giúp bạn xác định loại vách ngăn tốt nhất để sử dụng, đầu tiên hãy tìm ra năng lượng phong thủy/yếu tố phong thủy cần thiết trong khu vực. Biết được yếu tố phong thủy cần thiết đem đến phong thủy tốt cho ngôi nhà sẽ giúp bạn đưa ra lựa chọn đúng đắn và phù hợp nhất.

Chẳng hạn, nếu bạn cần vách ngăn cho khu vực phong thủy phía Nam của căn hộ, một vài lựa chọn tốt đẹp sẽ là: cây xanh cao lớn, bình phong gỗ, giá sách gỗ hoặc rèm cửa màu đỏ. Tránh sử dụng màu xanh lá cây và đen, vách ngăn gương hoặc các vật liệu có khả năng phản chiếu hình ảnh.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 2

Mỗi không gian, mỗi khu vực phong thủy trong nhà lại có những "đòi hỏi" khác nhau.

Cùng Nhà đẹp tìm hiểu một vài lưu ý chủ đạo đối với phong thủy căn hộ nhỏ:

- Cửa chính và lối vào

Theo phong thủy, cửa chính được gọi là "miệng khí". Nếu căn hộ của bạn nhỏ, lối vào sạch sẽ và thoáng đãng là điều đặc biệt quan trọng, cho phép nhiều năng lượng đi vào nhà hơn và nuôi dưỡng không gian sống của bạn.

Các giải pháp tiết kiệm không gian, ánh sáng tốt, tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn, màu sắc rực rỡ hoặc nhã nhặn và những đồ vật đẹp đẽ có thể được đưa vào bất kỳ không gian nào phù hợp với kích thước của nó. Bởi vì căn hộ của bạn không lớn, nỗ lực duy trì lối vào càng sạch càng tốt. Không để giày dép, treo quần áo hoặc đồ dùng cá nhân xung quanh tầm mắt.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 3

Lối vào sạch sẽ, gọn gàng cho phép năng lượng tích cực "xâm nhập" thuận lợi hơn.

- Khu vực ngủ/Phòng ngủ

Khi sống trong căn hộ nhỏ, một trong những thách thức phong thủy lớn nhất là thiết kế một khu vực ngủ khiến bạn cảm thấy (và các chức năng) giống như một phòng ngủ thực thụ. Quan tâm đến việc hình thành đủ sự tách biệt giữa khu vực sinh hoạt và ngủ nghỉ.

Khôn ngoan nhất là tập trung vào nơi bạn nhìn thấy đầu tiên mỗi khi thức dậy và trước khi đi ngủ. Chắc chắn ở đó không có TV, máy tính hoặc giỏ đựng quần áo bẩn. Thay vào đó, hãy trưng bày thứ gì đó mang đến năng lượng dồi dào, truyền cảm hứng cho bạn mỗi buổi sáng.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 4

Ngay cả khi không có một phòng ngủ riêng, bạn phải làm mọi cách để chốn ngủ có đủ sự riêng tư và ấm cúng hoàn hảo.

- Sử dụng gương

Gương mở rộng không gian, thu hút nhiều ánh sáng hơn cũng như mang đến năng lượng phong thủy của yếu tố nước. Thật dễ hiểu vì sao gương được gọi là "thuốc aspirin của phong thủy"! Là một trong những phương pháp chữa trị tốt nhất dành cho phong thủy căn hộ nhỏ, gương chắc chắn giúp bạn mở rộng không gian một cách trực quan và làm cho bầu không khí dễ thở hơn.

Tốt nhất, bạn nên chọn gương khổ lớn nếu điều kiện cho phép và dùng nó để tăng ánh sáng hoặc phản chiếu thứ gì đó đẹp đẽ. Khu vực phong thủy lý tưởng đối với gương là phía Đông, Đông Nam và Bắc.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 5

Gương - phụ kiện "thần kỳ" có khả năng giãn rộng không gian.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý phong thủy 'chớ quên' cho căn hộ nhỏ

Chọn hướng treo tranh hợp phong thủy - Phong thủy - Xem Tử Vi

Chọn hướng treo tranh hợp phong thủy, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Chọn hướng treo tranh hợp phong thủy, tu vi Chọn hướng treo tranh hợp phong thủy, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn hướng treo tranh hợp phong thủy

Bạn đừng nghĩ tranh phong thuy treo ở bất kì hướng nào cũng tốt hết nhé, treo tranh phong thủy phải lựa chọn tranh hợp với tuổi, với mệnh và phải lựa chọn hướng treo thì lúc đó mới phát huy được cái tốt của tranh phong thủy

1. Chính Đông theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.

2. Chính Nam, Đông Nam theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.

3. Đông Bắc theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.

4. Bắc theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài lộc, may mắn của gia chủ.

5. Tây Bắc theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng treo tranh hợp phong thủy - Phong thủy - Xem Tử Vi

Xem nhân duyên tiền định cho nam giới: Tuổi Giáp, Ất

Hôn nhân hạnh phúc là điều ai cũng đều mong muốn. Cùng xem nhân duyên tiền định cho nam giới sinh năm Giáp, Ất khi ghép đôi với 12 con giáp như thế nào nhé.
Xem nhân duyên tiền định cho nam giới: Tuổi Giáp, Ất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Có lẽ trước giờ chúng ta đã quen với việc xem tuổi nào hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân. Đó là cách xem nhân duyên theo địa chi 12 con giáp. Song còn có một cách nữa mà cổ nhân thường dùng để chọn vợ cho nam giới, đó là xem tuổi hợp duyên theo thiên can.
  Khi dựng vợ gả chồng, ngoài tuổi của nữ giới thì còn phải xem cả tuổi nam giới. Chính vì vậy, người xưa đã quy cách hóa cho 10 tuổi Can theo năm sinh, nhằm mục đích xem nhân duyên tiền định cho nam giới. Với cách này, nữ giới cũng có thể tự suy ra người chồng tương lai của mình nên là tuổi Can nào để có hôn nhân hạnh phúc bền lâu.


nhan duyen tien dinh cho nam gioi
 
  Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ với các bạn cách để xem nhân duyên tiền định cho nam giới sinh năm Giáp, Ất. Hy vọng những thông tin bổ ích dưới đây có thể giúp các bạn phần nào trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc của mình.  

1. Trai sinh năm Giáp

  Nam giới sinh năm Giáp gồm có các tuổi Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân.  

Lấy vợ tuổi Tý

  Theo tử vi, trai tuổi Giáp mà kết đôi với gái tuổi Tý thì sẽ có mối nhân duyên tốt đẹp, hạnh phúc trọn vẹn, bền vững lâu dài. Tuy nhiên một trong hai người nên tránh làm nghề tư pháp, nếu không con cháu dễ gặp tai họa khó lường.  

Lấy vợ tuổi Sửu, tuổi Dần

  Sự kết hợp giữa nam giới tuổi Giáp với nữ giới tuổi Sửu, tuổi Dần dễ khiến cho cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn, bất hạnh. Khó khăn về đường con cái, con sinh ra dễ ốm đau bệnh tật, lớn lên cũng kém phần hiếu thuận với mẹ cha, đường học hành thi cử không được thuận lợi, sự nghiệp cũng bấp bênh, không được hanh thông.

Bạn đã biết 15 lỗi phong thủy cản trở nhân duyên thường gặp là gì hay chưa?
 

Lấy vợ tuổi Mão

  Trai sinh năm Giáp mà lấy vợ thuộc con giáp này thì khó có được hạnh phúc như ý muốn, hôn nhân kém phần hòa hợp, hai vợ chồng dễ lâm vào cảnh ly biệt, không được sống bên nhau lâu dài.


nhan duyen tien dinh tuoi giap
 
 

Lấy vợ tuổi Ngọ

  Nói chung hôn nhân giữa nữ giới tuổi Ngọ với nam tuổi Giáp không được hòa hợp. Ban đầu khi mới kết hôn, có thể vận trình tài lộc sẽ tăng tiến không ngừng nhưng dần dà dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố mà suy yếu dần.  

Lấy vợ tuổi Mùi, tuổi Thân

  Trai tuổi Giáp và gái tuổi Mùi, tuổi Thân mà lấy nhau thì khắc nhiều hơn là hợp, người nam sẽ bị suy giảm vận trình, như rồng không gặp nước thì khó bề thăng hoa tăng tiến. Nếu có công danh thì cũng không được bền lâu, nhanh chóng bị thoái vận.  

Lấy vợ tuổi Dậu, tuổi Tuất

  Đây là tuổi đẹp để nên duyên đôi lứa với nam giới sinh năm Giáp. Hai người sẽ có mối duyên lành, hạnh phúc ân ái bên nhau, con cái hiếu thảo, thông minh lễ nghĩa, vừa có tài lại vừa có lộc.  

Lấy vợ tuổi Hợi

  Nếu kết đôi với cô nàng tuổi Hợi thì nam giới sinh năm này sẽ có được gia đình hạnh phúc mĩ mãn, nhưng bạn sẽ phải hy sinh phần nào đường công danh sự nghiệp của mình, trước tốt đẹp nhưng càng về sau vận trình càng suy giảm.  

2. Trai sinh năm Ất

  Nam giới sinh năm Ất gồm các tuổi sau: Ất Mão, Ất Tị, Ất Mùi, Ất Dậu, Ất Hợi. Vậy nhân duyên tiền định cho nam giới tuổi Ất với các tuổi khác như thế nào, mời các bạn theo dõi nội dung sau.  

Lấy vợ tuổi Tý

  Hai vợ chồng mà vợ tuổi Tý, chồng tuổi Ất thì hạnh phúc mĩ mãn, công danh sự nghiệp dễ thành, con cháu sau này thành danh khá giả. Có điều hai vợ chồng không được nhiều tài lộc mà phải tích cóp dần dần.  

Lấy vợ tuổi Sửu, tuổi Dần

  Trai tuổi Ất mà lấy vợ thuộc hai con giáp này thì hôn nhân cực kì hòa hợp, công danh sự nghiệp thăng tiến ầm ầm, song về sau gặp chút rắc rối khó khăn. Con cái trưởng thành, song có đứa kinh tế dư dả, có đứa lại chỉ bình thường.  

Lấy vợ tuổi Mão

  Cô nàng tuổi Mão nếu kết đôi với nam giới sinh năm Ất thì giai đoạn đầu hai vợ chồng làm ăn rất phát đạt, nhưng về sau lại gặp khó khăn, kinh tế bình thường, không quá dư dả. 

Có thể bạn quan tâm: Dấu hiệu nào cho thấy nhân duyên trời định từ kiếp trước.


nhan duyen tien dinh tuoi At
 
 

Lấy vợ tuổi Thìn, tuổi Tị

  Hai vợ chồng sống bên nhau hòa thuận, hạnh phúc, con cái thông minh đỗ đạt. Vợ chồng có phúc hưởng lộc tuổi già.  

Lấy vợ tuổi Ngọ

  Nếu đã ngoài 20 tuổi thì nam giới sinh năm Ngọ lấy vợ thuộc con giáp này sẽ có cuộc sống ổn định, kinh tế khá giả, làm ăn kinh doanh phát đạt. Song nếu kết hôn sớm khi chưa đầy 20 tuổi thì sẽ gặp nhiều ngang trái, ban đầu mọi sự thuận buồm xuôi gió, vợ chồng hạnh phúc ân ái nhưng chẳng được dài lâu, về sau sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn và vấn đề.  

Lấy vợ tuổi Mùi

  Trai tuổi Ất lấy gái tuổi Mùi, vợ chồng tâm đầu ý hợp, phú quý đầy nhà, con cháu đỗ đạt hiển vinh, dâu hiền rể thảo.  

Lấy vợ tuổi Thân

  Vợ chồng lấy nhau thì cuộc sống sung túc, làm ăn xuôi chèo mát mái, song về sau dễ gặp vấn đề, nhân duyên mỏng manh khó bền lâu.  

Lấy vợ tuổi Dậu

  Nên duyên vợ chồng với cô gái tuổi Dậu, ban đầu người nam mà hiển vinh, kinh tế vững vàng, công danh rộng mở thì càng về sau càng nảy sinh nhiều vấn đề. Còn nếu kết hôn còn nghèo khó thì sau lại thảnh thơi, tiền bạc dư dả.   

Lấy vợ tuổi Tuất, tuổi Hợi

  Cuộc sống gia đình khá bình an. Khi còn trẻ mà gian nan vất vả thì sau này sẽ được hưởng phú quý. Nếu theo nghiệp học hành thì một trong hai người sẽ thi đỗ rất cao. Tuy nhiên trong cuộc sống sẽ có vài sự cố, cần cẩn trọng đề phòng.   Thiên Thiên

Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Dần, tuổi Mão Xem cung mệnh vợ chồng, quan trọng không kém gì xem tuổi Nam nữ tuổi xung khắc có nên kết hôn với nhau hay không?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem nhân duyên tiền định cho nam giới: Tuổi Giáp, Ất

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd