Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi Giáo sư Lê Trung Hưng
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

1. Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2. Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không, Kiếp
3. Đời là bể khổ: cung ách
4. Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5. Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6. Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7. Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8. Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9. Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10. Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.

Bây giờ xin vào chi tiết:

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy).

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó:
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi

Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc:
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10- Anh hùng tạo thời thế:
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Tác dụng phong thủy của tranh Hoa Đào

Hoa đào là loại hoa nở khi mùa xuân về. Hoa đào tượng trưng cho cuộcsống, cho ước vọng hạnh phúc, cho niềm vui và sự yên ấm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bức tranh đào thế chữ Tâm.

Loại đá quý như rupy, thạch anh... 

Với tranh về hoa, cho dù là nhà ở, văn phòng làm việc hay cửa hiệu, việc sử dụng một cách khéo léo các tranh hoa chính là thể hiện sự thành khẩn một cách tao nhã. Nhìn những tranh hoa đẹp thường làm cho con người cảm thấy yên tĩnh, nhẹ nhõm, thanh thản, vô hình trung đã loại bỏ đi sự nóng nảy, bực dọc, tránh gây ra bất hòa trong các mối quan hệ giữa người với  người, và ngăn ngừa chúng ta chỉ biết đắm chìm trong những khó khăn, thiếu thốn của hoàn cảnh hoặc cuộc sống. Có thể nói, nó có thể kích thích chúng ta hướng theo hướng tích cực và đạt được một thành tựu trong sự nghiệp. Không chỉ thế, trong phong thủy, các loài hoa từ ngàn xưa đã được nghiên cứu và chứng minh có nhiều công dụng với phong thủy. Với mỗi loài hoa khác nhau, lại mang trong mình một ý nghĩa phong thủy khác nhau:

Hoa đào:. Hoa đào là loại hoa nở khi mùa xuân về. Hoa đào tượng trưng cho cuộc sống, cho ước vọng hạnh phúc, cho niềm vui và sự yên ấm. Anh đào thường được sử dụng với ý nghĩa mang lại sự khởi đầu, sự tươi mới và trong trắng. Anh đào tượng trưng cho cung tình duyên, nhưng cũng vẫn được sử dụng như một phương thức hoá giải phong thuỷ đối với sức khoẻ

 Vị trí gợi ý:

Phòng khách của nhà riêng hay công ty đều có thể lựa chọn các loại tranh vẽ trúc phú quý, cây lan đuôi hổ, cây thủy tùng, sen nhiều lá, cây cọ, cây phát tài, cây lan quân tử, hoa cúc, cây lan cầu, hoa lan, hoa đào, tắc, cây dương xỉ, cây huyết dụ…, các hoa này là “vật may mắn” trong phong thủy học, hàm ý như ý cát tường, tụ tài phát phúc.

Hãy đem màu sắc của hoa vào căn nhà hay văn phòng của bạn, bạn sẽ giúp cho luồng khí trong ngôi nhà được điều hoà và trôi chảy.

Nguồn: VietGem (st)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác dụng phong thủy của tranh Hoa Đào

Đền thờ Nguyễn Thị Duệ - Hải Dương

Đền Thờ bà Nguyễn Thị Duệ nằm tại xã Vĩnh An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nơi gắn liền với nữ tiến sĩ đầu tiên của nước ta dưới thời nhà Mạc.
Đền thờ Nguyễn Thị Duệ - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Thờ bà Nguyễn Thị Duệ nằm tại xã Vĩnh An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nơi gắn liền với nữ tiến sĩ đầu tiên của nước ta dưới thời nhà Mạc. Theo sử sách ghi chép lại thì sau khi bà chúa Sao Sa qua đời, người ta đã đưa hài cốt bà về đây an táng và xây dựng tháp. Vì vậy lăng mộ của bà còn có tên là “Tinh phi cổ tháp” tức (Tháp cổ của bà Tinh phi Nguyễn Thị Duệ).

Luật lệ phong kiến không cho phép nữ giới tham gia thi cử, nhưng Nguyễn Thị Duệ đã giả trai để đi thi và trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên của nước ta. Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Du, Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền là một người con gái tài sắc của xã Kiệt Đặc (nay là xã Văn An, huyện Chi Linh). Bà sinh vào cuối thế kỷ 16.

Khi đó, tại Cao Bằng nhà Mạc mở khoa thi hôi, kén chọn nhân tái sỹ tử ứng thi khá đông. Bà đã đóng giả trai đi thi cùng với thầy giáo của mình. Sau khi chấm bài, khớp phách, bà được điềm cao, đỗ đầu, thầy giáo của bà đỗ thứ hai. Cảm kích trước tài năng của người học sinh ưu tú của mình, ông nói: “Mầu xanh từ màu lam mà ra nhưng đẹp hơn màu lam”. Khi vào dự yến, vua Mạc thấy diện mạo giống phụ nữ, xét hỏi, biết sự thật đã không xử tội mà còn khuyến khích và liền lấy làm vợ và đặt tên là Sao Sa, do đấy mà dân gian gọi là Bà chúa Sao Sa.

Bà ở trong cung mái đến 70 tuổi mới xin về nghỉ. Tại quê nhà, bà dựng một cái am gọi là am Đào Hoa, ngày ngày đọc sách, bảo ban các sĩ tử trong làng. Vua Lê cho bà hưởng lộc bằng các nhận thuế hàng năm của xã, bà chỉ xin với dân làng lo liệu cho đủ ăn, còn bao nhiêu dành cho công việc có ích và trợ giúp người nghèo. Dân xã Kiệt Đặc đều được hưởng ân huệ của bà, nên mọi người đều kính trọng. Năm 1653, nhân dân lập bia ghi công đức bà, sau đó tạc tượng thờ, gọi là tượng Vua bà.

Trong lịch sử phong kiến nước ta, Nguyễn Thị Duệ là một phụ nữ có học vị cao và sớm nhất, biết mang tài năng và bổng lộc của mình phục vụ xã hội, đặc biệt là sự nghiệp giáo dục. Bà là tấm gương sáng, để lại nhiều giai thoại lưu danh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền thờ Nguyễn Thị Duệ - Hải Dương

Tướng ngón tay cái cho biết độ giàu nghèo của con người

Tướng ngón tay cái: Đặc điểm của ngón tay cái khác nhau sẽ hé lộ về tính cách và số mệnh giàu nghèo của mỗi người.
Tướng ngón tay cái cho biết độ giàu nghèo của con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc điểm của ngón tay cái khác nhau sẽ hé lộ về tính cách và số mệnh giàu nghèo của mỗi người.
 

1. Hình dáng ngón tay cái thế nào thì giàu có?
 
- Xem bói người có tướng ngón tay cái tròn, to, đầu ngón dày dặn thường có trí tuệ thông minh, tư duy logic và vô cùng nhạy bén. Nếu người này kiểm soát tốt tính nóng vội và dễ bị các yếu tố ngoại cảnh tác động thì sẽ gặt hái được nhiều thành công rực rỡ hơn trong sự nghiệp. Theo đó, cuộc sống sẽ giàu sang, phú quý và yên bình hơn.   - Ngón tay cái dài, đầu ngón nhọn và thuôn là đặc điểm của người thích thể hiện bản thân, đôi khi hơi bốc đồng và phô trương thái quá. Người này cũng hay thay đổi, tính khí thất thường nên khá khó chiều chuộng. Chất lượng cuộc sống ở người này chỉ ở mức trung bình nếu không chịu thay tâm đổi tính.   - Ngón tay cái mảnh, đầu ngón hơi bè là người bạo dạn, gan lỳ nhưng lại nhạy cảm và hay mơ mộng nên sống xa rời thực tế. Trong cuộc sống người này gặp thất bại nhiều hơn thành công, đời sống vật chất chỉ ở mức trung bình khá.

Giau hay ngheo hay nhin ngon tay cai hinh anh
Ảnh minh họa
  2. Ngón tay cái dẻo dai hay thô cứng là tốt?
 
Để đo độ dẻo của ngón tay cái, bạn nên nắm chặt bốn ngón tay còn lại, ngón cái căng ra tới mức tối đa. Một trong những trường hợp sau sẽ xảy ra:   - Những người có ngón cái càng sát với 4 ngón còn lại thường có tính cách chi li, hay chú ý tới tiểu tiết và khá là khó tính. Họ cũng rất ích kỷ, hành vi không thực sự rõ ràng công khai, thích giấu diếm nhiều điều cho riêng bản thân mình hơn là chia sẻ với người khác. Người này có khả năng tích lũy tiền bạc lớn nên không phải lo về đời sống vật chất.   - Khoảng cách giữa ngón cái và 4 ngón còn lại càng xa thì chứng tỏ độ dẻo dai càng lớn. Chủ nhân của nó là người hiền lành, tấm lòng rộng mở, khả năng chịu đựng áp lực và khó khăn rất tốt, không bị khuất phụ hoặc đầu hàng trước nghịch cảnh. Do đó dễ dàng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, nếu ngón tay quá dài và dẻo, thì đây lại là những người không mấy thủy chung, cả thèm chóng chán và hay thay đổi.   - Với người sở hữu ngón tay cái khá thô và cứng, hầu như không cong mấy thì thường có tính cách khá ngang bướng, thậm chí bảo thủ. Nhưng họ lại có một ưu điểm rất lớn đó là sự thẳng thắn, chân thành, không vụ lợi, lại rất hay quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh.    3. Ngón tay cái dài ngắn quy định gì về tính cách và vận mệnh?   - Ngón tay cái dài bằng đầu đốt thứ nhất của ngón trỏ nói rằng chủ nhân của nó là người vô cùng mạnh mẽ, giàu ý chí và nghị lực. Họ cũng rất chín chắn, luôn cân nhắc, suy tính kỹ càng trước sau khi đưa ra bất cứ quyết định nào. Người này dễ thành công trong sự nghiệp và không phải lo vấn đề tiền bạc vật chất.   - Ngón tay cái dài qua đầu đốt thứ hai của ngón trỏ cho thấy đây là một người tự tin, đôi khi hơi tự kiêu. Tính cách họ lạnh lùng, độc đoán, thậm chí có thể trở nên tàn nhẫn khi cần. Họ cũng thuộc tuýp người có thể vì khao khát của bản thân mà dùng tới những thủ đoạn đối với người khác. Đời sống vật chất của người này giàu có nhưng lại thiếu thốn tình cảm.   - Những người sở hữu ngón tay cái càng ngắn so với ngón trỏ thì họ lại hiền lành, tốt bụng, thích quan tâm giúp đỡ mọi người, tính tình có phần trẻ con. Nhược điểm của họ là khá cả tin, dễ bị người khác lợi dụng hay lừa gạt. Tâm tính họ cũng không ổn định, dễ thay đổi, chưa biết cách nhìn xa trông rộng, đôi khi chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không tính đến chuyện lâu dài. Cuộc đời người này cũng trải qua không ít sóng gió và được hưởng phúc lộc trời ban khi về già.  
Cách xem chỉ tay đơn giản để luận giải về cuộc đời, vận mệnh của bản thân

Theo
Ngày nay
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng ngón tay cái cho biết độ giàu nghèo của con người

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Tý

Tử vi người sinh ngày Bính Tý thấy sự nghiệp có sự cất nhắc của cấp trên, sự giúp đỡ của quý nhân, cần tránh nhảy việc. Đường tình duyên của họ gặp trắc trở
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi người sinh ngày Bính Tý thấy sự nghiệp có sự cất nhắc của cấp trên, sự giúp đỡ của quý nhân, cần tránh "nhảy việc". Đường tình duyên của họ gặp trắc trở nên kết hôn muộn sẽ có lợi


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Binh Ty hinh anh
 
Ngày Bính Tý có Quan tinh Tý Thủy tọa bản mệnh, Sát Quan nặng nhẹ mỗi người khác nhau. Đường đời mệnh chủ tất gặp Mão Mộc, nên kết hợp với Tân Sửu.
  Người sinh ngày Bính Tý thông minh hiểu chuyện, nghe lời cha mẹ, là nhân viên tốt trong mắt lãnh đạo. Họ cũng là người tham hư vinh, yêu thể diện nên khó tránh khỏi bị tiểu nhân phạm. Đồng thời, tính cách chần chừ thiếu quyết đoán sẽ là trở ngại lớn cho cuộc sống và sự nghiệp của mệnh chủ. 
Nắm bắt số lượng cá cảnh cải thiện tài vận gia chủ
Việc nuôi cá được nhiều gia chủ lựa chọn để thúc đẩy tài vận, tuy nhiên lại không nắm rõ về ý nghĩa và lợi hại của của số lượng cá được nuôi trong bể.

Nhờ khả năng của bản thân, mệnh chủ thường được cấp trên cất nhắc, quý nhân thường xuất hiện giúp đỡ, trở thành thành phần cốt cán. Tuy nhiên, họ có xu hướng hay "nhảy việc" nên sự nghiệp khó thăng hoa.
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Bính Tý thấy đau khổ về hôn nhân, dễ bị mê hoặc bởi sắc tình, vậy nên kết hôn muộn sẽ có lợi. Nam mệnh may mắn lấy được người vợ xinh đẹp tháo vát nhưng phải chịu số đa tình. Nữ mệnh hay phiền não về chuyện tình cảm, cần phòng tránh đào hoa xuất hiện sau khi kết hôn.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Binh Ty hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Bính Tý thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Mùi, Bính Thân, Bính Tuất, Bính Thìn, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Canh Tý, Canh Thân, Tân Dậu, Tân Hợi, Tân Mão, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Thìn, Quý Mão, Quý Hợi
Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Tý

Vật phẩm hộ mệnh trong phong thủy

Có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tượng thần Ganesa:
Theo người Ấn Độ, đây là một vị thần tượng trưng cho sự may mắn và thông thái. Với hình thù đầu voi, nhiều tay và mỗi tay cầm một bảo vật tượng trưng cho quyền uy và thông tuệ.

Tương truyền rằng Thần có mái tóc dài, tết thành nhiều tết xoã xuôi sau lưng. Đeo quanh ngực là dây rắn Naga. Theo tục lệ, mỗi khi khai trương cửa hàng, công ty, người dân đều đi lễ thần Ganesa và thường xoa vào bụng, sờ vào vòi của tượng với cầu mong gặp nhiều may mắn .


Tượng thần Ganesa

Đặt tượng tại vị trí trang nghiêm hay nơi có sao Bát Bạch bay tới.
2. Bắp cải:
Bắp cải phong thủy còn được gọi là "rau phong thủy" có tác dụng "chiêu" tài lộc và may mắn cho mọi thành viên trong gia đình.
Trong phong thủy, bắp cải được ví như chiếc túi dùng để chứa tiền tài, "của cải". Và khi tiền đã vào chiếc túi này thì sẽ sinh sôi nảy nở “cuồn cuộn” không ngừng. Bắp cải giúp mang lại may mắn, thu hút tài lộc rất hiệu quả nên thường được đặt ở vị trí trang trọng, tốt nhất nên chọn vị trí thuộc cung tài lộc của gia chủ.


Theo phong thủy, các loại đá quý, ngọc thường hội tụ 5 đức tính cơ bản của con người: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín... Vì thế, bắp cải phong thủy thường được làm từ các loại đá quý, ngọc sẽ kích hoạt được nhanh và nhiều vận may đến cho gia đình.


Ngoài cung tài lộc của gia đình, bạn có thể đặt bắp cải phong thủy trên bàn trà trong phòng khách hoặc bàn ăn trong phòng ăn cũng có thể tụ khí tốt cho gia đình. Có rất nhiều kiểu dáng bắp cải như: bắp cải đội thiềm thừ, bắt cải đội tỳ hưu, bắp cải đội rùa vàng... giúp nhân đôi vận may và tài lộc.
3. Ve sầu – Biểu tượng của sự bất tử và lá bùa chống lại những âm mưu:
Linh vật trong phong thủy tượng trưng cho tuổi thọ và sự trường tồn vĩnh cửu là Ve Sầu.


Đối với người Trung Quốc, ve sầu và rùa là hai biểu tượng mạnh mẽ nhất cho sự trường tồn. Với người còn sống, hai con vật này mang đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp. Ve Sầu không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ, mà còn là biểu tượng của sự bảo vệ, che chở. Còn ve sầu cũng được coi như một lá bùa hộ mệnh, chống lại kẻ thù.

Ve sầu – Biểu tượng của sự bất tử và lá bùa chống lại những âm mưu
Thời xa xưa, những gia đình giàu có thường táng theo người chết một viên ngọc bích chạm khắc hình con ve sầu, đặt trên nắp áo quan, mong cho người đã khuất có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới khác.

Đối với người đang sống, ve sầu được xem là một biểu tượng của cuộc sống lâu dài, hạnh phúc và tuổi trẻ bất diệt.

Nguyên nhân của điều này này được bắt nguồn từ truyền thuyết xưa kia. Tương truyền rằng: Có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè. 


Bên cạnh ý nghĩa đó, loài ve sầu còn được coi như một một lá bùa hộ mệnh. Khi đeo trên mình một vật có dáng ve sầu, bạn sẽ được bảo vệ khỏi những nguy hiểm, tiểu nhân và kẻ thù.

Một miếng ngọc bích hình con ve sầu có tác dụng bảo vệ tốt. Những nhân viên trong công ty muốn tìm kiếm sự bảo vệ trước một đồng nghiệp không đáng tin cậy hay người quản lý có mưu đồ xấu, có thể tìm một miếng ngọc bích hình con ve sầu như mặt dây chuyền để đeo.

4. Rùa – Biểu tượng muôn đời của sự trường thọ

Rùa được các nhà khoa học chứng minh là một trong số những loài vật có tuổi thọ thuộc hàng cao nhất. Trong văn hóa Việt Nam, rùa là một linh vật được tôn trọng từ ngàn xưa. Còn riêng trong phong thủy, rùa là linh vật mang nhiều ý nghĩa nhất.


Nó là tạo vật duy nhất trong tứ linh thật sự tồn tại và có thể dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, rùa không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ, mà còn của sự bảo vệ, che chở, hỗ trợ, sự sang trọng và triển vọng.

Trong thuật phong thủy, con rùa giống như những ngọn đồi phương Bắc vững chãi, đảm bảo cho gia đình có sự liên kết chặt chẽ, lâu bền. Con rùa còn được cho là người vận chuyển ma trận huyền ảo của chín con số cơ bản mang trên lưng và gây sự chú ý cho Phục Hy – vị hoàng đế đầu tiên trong truyền thuyết của Trung Hoa, người được cho là tác giả của Kinh Dịch, cuốn sách là cơ sở của tất cả lý thuyết trong Phong Thủy.


Con rùa giấu trong cơ thể và trong những hoa văn trên mai nó tất cả bí mật của đất trời. Tục truyền rằng khi Ban Cố tạo ra thế giới, ông đã dùng những chú rùa như những chiếc cột chống để giữ vạn vật. Phần gù ở lưng con rùa được coi là trời và phần bụng được gọi là đất, điều này khiến rùa tồn tại bền vững với thời gian.



Nếu nhìn kỹ con rùa, bạn sẽ nhận thấy nó có một chiếc đầu rắn và một chiếc cổ rất dài. Các phong thủy gia thường hay trưng bày trong nhà con rùa đầu rồng ( Long Quy)để có thật nhiều vận may. Hình tượng con rùa đầu rồng này thường được cho ngồi trên rất nhiều đồng xu và những thỏi vàng, miệng có ngậm một đồng xu.

Tạo vật này vừa mang hiện thân cho sự can đảm của loài rồng và sự bảo vệ chắc chắn của loài rùa. Các doanh nhân trưng bày Long Quy ở phía sau chỗ làm việc thì sẽ can đảm hơn trong việc ra quyết định đồng thời trách được những rủi ro trong kinh doanh. Nên nuôi rùa ở hướng Bắc ngôi nhà vì chúng sẽ đem tới cho gia đình nhiều cát khí hơn.

Fuko (TH)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm hộ mệnh trong phong thủy

Tứ yếu - Thập dụ - Bát pháp

Bài viết trích ra từ bản dịch Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư của tác giả Vũ Tài Lục. Đây là một bài viết rất hay!
Tứ yếu - Thập dụ - Bát pháp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trích dẫn từ sách Tử vi đẩu số toàn thư của cụ Vũ Tài Lục dịch và bình chú

Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:

a) Cát hung

b) Hư thực

c) Chủ khách

d) Cường nhược

Cát – Hung: Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.

Hư thực thế nào?

Sao tốt lâm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.

Chia chủ khách ra sao?

Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách.

Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.

Thập dụ là gì?

Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với các cung tam hợp và cung xung chiếu:

  1. Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
  2. Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
  3. Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
  4. Cung xung chiếu xấu là “đương đầu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
  5. Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
  6. Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
  7. Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
  8. Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ”, hai bên hàng xóm mưu hại.
  9. Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
  10. Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.

Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:

A. Thành phá tứ pháp:

Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:

  • Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
  • Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
  • Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
  • Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).

B. Cứu khí tứ pháp:

Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:

  • Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
  • Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hủ mộc nan điêu”.
  • Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
  • Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ yếu - Thập dụ - Bát pháp

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai. Đừng quên gửi những lời chúc thi tốt hay đến bạn trai của mình để đông viên anh ấy vượt qua kỳ thi
Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai. Trong cuộc sống chúng ta phải trải qua rất nhiều các kỳ thi khác nhau, kỳ thi nào cũng đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực, vì thế nếu nhận được những lời động viên tinh thần kịp thời thì đó chính là nguồn sức mạnh vô giá cho chúng ta vươn tới ước mơ.

Bạn trai của bạn sắp phải bước vào kỳ thi cam go, đừng quên gửi những lời chúc thi tốt đầy ý nghĩa cho anh ấy. Một lời chúc của bạn chính là nguồn động viên quý giá nhất cho anh ấy ngay thời điểm này đấy nhé.

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Tránh Xa Điểm 1 ,
Dẹp Điểm 2,
Bye Điểm 3,
Xa Điểm 4,
Trốn Điểm 5,
Căm Điểm 6,
Quý Báu Gì điểm 7,
Quyết Nhảy Qua Điểm 8,
Bám Chặt Điểm 9,
Vịn Chắc Điểm 10
Tự tin thi tốt nhé ox!

——–

Hãy bình tĩnh, tự tin để làm bài thật tốt, tất cả mọi người đều tin tưởng ở anh đó

——-

Ngày mai anh thi rồi, anh cố gắng làm bài thật tốt để thi đỗ nhé, chỉ cần đủ điểm đỗ là được, không cần thừa quá nhiều đâu ^^

Chúc anh có một kỳ thi thật tốt! Đừng tạo áp lực cho mình, cứ để tâm trí bình thản, đừng quá căng thẳng,…cứ thư giản nhé rồi anh sẽ có một kỳ thi thật tốt cho xem!

Nếu có bất cứ thứ gì mình muốn nói ngay lúc này thì nó chỉ có thể là “Cố lên”. Cố lên anh ơi. I Love You

Mai thi rồi, anh iu nhớ đi ngủ sớm để chuẩn bị một tinh thần thoải mái để mai làm bài tốt nhất. Chúc anh mai thi tốt, ngủ ngon nha ox!

Cuộc sống cũng giống như những kỳ thi vậy. Hãy cố gắng vượt qua các kỳ thi thật tốt để vững bước trong cuộc sống sắp tới. Tương lai nằm trong tay em đấy nhóc ạ.

Kỳ thi sắp tới đó em ơi

Gắng sức học ngoan rồi ngủ sớm

Chúc em thi đạt kết quả tốt

Ngày mai vững bước trên đường đời

 

Em biết trời đang rất lạnh giá, nhưng anh hãy cố gắng vì tương lai tươi sáng mà ôn thi thật tốt anh yêu nhé. Chúc anh đạt được kết quả cao nhất trong kì thi của mình.

Dù thế nào, học hành vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất của anh lúc này, nên hãy cố gắng ôn thi thật tốt anh nhé, đừng làm phụ lòng cha mẹ và những người đã yêu thương anh – trong đó có em

Thi cử là những thử thách đầu tiên trên con đường đời sắp tới anh đi. Chỉ còn một kỳ thi cuối cùng này nữa thôi là anh hoàn thành sự nghiệp học tập. Hãy cố gắng lên anh nhé. Em sẽ luôn ở bên cỗ vũ, động viên anh. Chúc anh thi tốt!

Chúc anh có một sức khỏe tốt đấu tranh với mọi khó khăn, bệnh tật để ôn thi thật tốt. Xong kỳ thi này anh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi. Chúc anh đạt được điều mình mơ ước.

Hãy coi như mỗi cuộc thi là một cuộc chơi, nhưng dù là cuộc chơi em vẫn hi vọng anh sẽ chơi hết mình anh nhé.

Không có em bên cạnh, anh phải ôn thi thật nghiêm túc đấy, không được lười biếng, không được ngủ nướng đâu nhé. Hãy nghĩ đến em để có động lực thi tốt anh nhé!

Em có thể giúp em làm mọi chuyện, nhưng việc học và việc thi anh phải tự mình làm thôi. Anh hãy cố gắng vì tương lai của chúng ta, thế nên trước hết anh hãy học tập và thi thật tốt vì tương lai bản thân mình.

Em tin vào anh, tin vào sự thông minh và bản lĩnh của anh. Nhưng em vẫn muốn gửi lời chúc anh thi thật tốt, đạt kết quả thật cao trong kỳ thi sắp tới anh nhé.

Gửi ngàn vì sao lấp lánh trên trời đến anh lời chúc “chúc anh thi tốt nhé”. Em tin người yêu của em sẽ thi tốt và có một tương lai tươi sáng sau kỳ thi này. Cuộc sống giống như những kỳ thi vậy, thế nên anh hãy thi thật tốt nhé.

Hãy tin rằng không có sự thất bại, con người luôn luôn có đủ khả năng để chinh phục những đỉnh cao! Hãy bình tĩnh, cẩn thận, và làm bài một cách thông minh như anh vẫn vậy.

Con đường danh vọng lắm gian truân

Đòi hỏi người ta tính chuyên cần

Muốn sắt thành kim phải bỏ sức

Mong mình thành đạt phải rèn thân

Chúc anh yêu mã đáo thành công

Kỳ thi sắp tới đó anh ơi

Gắng sức học thi rồi ngủ sớm

Chúc anh thi đạt kết quả tốt

Ngày mai vững bước trên đường đời.

 “Chúc anh có một sức khỏe tốt đấu tranh với mọi khó khăn, bệnh tật để ôn thi thật tốt. Xong kỳ thi này anh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi. Chúc anh đạt được điều mình mơ ước.”.

Chúc tình yêu của em tự tin, chiến thắng, thi đỗ mọi kỳ thi! Cố lên nào


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Ngắm sân vườn tuyệt đẹp với ghế cây độc đáo

Con người đã tạo ra ghế cây từ một băng ghế để kết hợp hài hòa với cây xanh. Khi con người muốn làm mới khu vườn nhưng vẫn giữ lại cây xanh, ghế cây được nghĩ tới nhiều hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những thiết kế ghế đẹp mắt, ấn tượng và gần gũi nhất khiến cho sân vườn của gia đình bạn tỏa sáng.

sân vườn 
Bạn có thể giữ lại cây và làm băng ghế bao quanh thay vì phải chặt bỏ
các cây xanh để quy hoạch lại sân vườn

sân vườn đẹp 
Ghế cây là một sự kết hợp hoàn hảo

Bạn có thể ngồi ở ghế băng ngằm nhìn thiên nhiên và thưởng thức vẻ đẹp thời tiết trong khi cây cối tỏa bóng mát, mọi thứ được hòa quyện thật hài hòa.

sân vườn độc đáo 

Để làm đẹp sân vườn, bạn có thể sử dụng nhiều hình dạng và kiểu dáng cho thiết kế chiếc ghế cây. Ghế lục gác thường được ưa thích hơn cả bởi nó dễ dàng lắp ghép với nhau.

sân vườn ấn tượng 

Tuy nhiên, nếu muốn độc đáo và ấn tượng hơn, bạn có thể chọ các thiết kế khác. Đơn cử như chiếc ghế hình xoắn ốc được tạo ra bao quanh cái cây này.

sân vườn thoáng 

Nếu cái cây của nhỏ, bạn vẫn có thể tận dụng và xây ngay một cái ghế xung quanh nó. Tuy nhiên, bạn nên lưu ý để cái ghế cách cây một khoảng rộng đủ lớn để cây phát triển lên trong tương lai.

sân vườn lung linh 
Bạn tìm ngay được cái ghế để dựa lưng vào nghỉ ngơi nếu đang ở giữa khu vườn
và sân sau căn nhà, thật tuyệt vời phải không nào

sân vườn hiện đại 

Bạn hãy tìm những băng ghế hình dạng thích hợp nếu muốn đơn giản và hiện đại hơn. Ví dụ, một chiếc ghế hình vuông, đơn giản, bằng phẳng bao quanh cây.

sân vườn rộng 

Tuy nhiên, làm sao với một ngôi nhà sàn cao như thế này? Chẳng có gì thay đổi trên thực tế cả. Bạn vẫn để cái cây ở giữa sàn và đặt một chiếc ghế bằng gỗ bao quanh cây xanh.

(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngắm sân vườn tuyệt đẹp với ghế cây độc đáo

Lễ nạp tài – phong tục cưới hỏi người việt

Lễ nạp tài là một nghi lễ được tiến hành cùng với lễ ăn hỏi. Vào ngày ăn hỏi nhà trai sẽ chuẩn bị những nghi lễ và các tráp lễ vật đưa để hỏi cưới cô dâu.
Lễ nạp tài – phong tục cưới hỏi người việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong tục cưới hỏi của người Việt bao gồm nghiều thủ tục và lễ nghi khác nhau, cho đến nay thì những thủ tục đó vẫn được phát huy và lưu giữ. Lễ cưới người Việt bao gồm các phong tục cưới hỏi sau: Lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ nạp tài, lễ thành hôn. Khi tổ chức một tiệc cưới thì hai bên gia đình nhà trai va nhà gái đều phải thực hiện đầy đủ các phong tục và lễ nghi đó.

Vậy để giúp cô dâu và chú rể cũng như phụ huynh của hai bên gia đình hiểu được rõ hơn về những thủ tục ấy. Xin chia sẻ cùng bạn tìm hiểu vể lễ nạp tài trong cưới hỏi người Viêt.

Lễ nạp tài là một nghi lễ được tiến hành đồng thời với nghi lễ ăn hỏi. Vào ngày ăn hỏi gia đình nhà trai sẽ chuẩn bị những nghi lễ cũng như các tráp lễ vật đưa tới nhà gái để hỏi cưới cô dâu. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi vùng miền mà tráp lễ vật được chuẩn bị khác nhau, và số lượng tráp cũng khác nhau.

Nhưng thông thường trong lễ ăn hỏi phải có các thứ lễ vật sau:

  • trầu cau
  • rượu trà
  • hoa quả
  • bánh nếp
  • thịt lợn và đồ nữ trang cho cô dâu.
  • Và trong lễ vật đó không thể thiếu khoản tiền nạp tài mà nhà trai đưa sang nhà gái.

Có rất nhiều ý kiến cho rằng khoản tiền nạp tài đó là khoản tiền ,à nhà gái thách cưới nhà trai. Nhưng có ý kiến lại cho rằng khoản tiền đó là nhà trai mang sang để cảm ơn công sinh thành, nuôi dưỡng của nhà gái đối với con dâu mà họ sắp rước về. Và có ý kiến lại cho rằng khoản tiền đó là nhà trai dành tặng cho cô dâu để làm của hồi môn sau ngày cưới.

Số tiền nạp tài đó sẽ được nhà trai trình bày trong một mâm tráp riêng hoặc kèm theo mâm tráp đồ nữ trang cho cô dâu. Thông thường só tiền nạp tài là số tiền lẻ nhằm mang lại sự may mắn và hạnh phúc cho cô dâu và chú rể.

Lễ nạp tài mang một ý nghĩa tót đẹp, nhưng cũng động chạm tới vấn đề nhạy cảm giữa hai bên gia đình do vậy cô dâu và chú rể có vai trò trong việc bàn bạc và thống nhất giữa hai bên gia đình. Không đặt nặng vấn để tiến bạc mà phải coi trọng hạnh phúc của cô dâu và chú rể là trên hết và một tình thông gia bền chặt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ nạp tài – phong tục cưới hỏi người việt

Quẻ Quan Âm: Thương Lộ Trúng Tam Nguyên

Quẻ Quan Âm thứ 86 Quẻ Quan Âm: Thương Lộ Trúng Tam Nguyên đoán rằng nếu đang mưu tỉnh sự nghiệp tương lai, cũng được như ý nguyện.
Quẻ Quan Âm: Thương Lộ Trúng Tam Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 86 được xây dựng trên điển cố: Thương Lộ trúng Tam Nguyên hay Thương Lộ thi đỗ Tam Nguyên.

Thừ quái thượng triều kiến đế chi tượng. Phàm sự đại cát đại lợi dã.

Quẻ thượng cát thuộc cung Thân. Đây là quẻ tốt nhất trong tất cả 100 quẻ Quan Âm. Mọi việc mong cầu cuối cùng sẽ có được kết quả tốt đẹp. Nếu theo đường quan chức thì sẽ có chức vị, nếu mong có của cải thì sẽ có tiền bạc đến, nếu mưu tính sự nghiệp thì tương lai sáng lạng.

Điển cố quẻ Quan Âm: Thương Lộ Trúng Tam Nguyên

Thương Lộ (1414 -1486) là một vị quan Thủ phụ đời Minh, tự Hoằng Tải, hiệu Tố Am, là người Thuần An, Nghiêm Châu. Từng giữ các chức vị như Binh bộ Thượng thư, Hộ bộ Thượng thư kiêm chức Văn Uyên Các Đại học sĩ, Lại bộ Thượng thư, Thắi tử Thiếu bảo, cẩn Thân điện Đại học sĩ. Ông là người ngay thẳng không a dua, có lòng khoan dung độ lượng, người đương thời khen là “trong số những người phụ tá tài giỏi của triều ta thì Thương Công đứng đầu”. Khi qua đời được đặt thụy hiệu là Văn Nghị. Trước tác của ông có “Thương Vân Nghị sơ cảo lược” và “Thương Vân Nghị Công tập”, sách biên soạn có “Tống Nguyên thông giám cương mục”.

Lúc nhỏ Thương Lộ gia cảnh nghèo khó, cha ông là một viên quan nhỏ phụ trách việc đưa cơm vào ngục, mẹ ông là một nông phụ. Tương truyền khi Thương Lộ sinh ra, trong nhà có ánh hào quang tỏa sáng rực rỡ, hôm sau mọi người hỏi xem là chuyện gì, mới biết nhà họ Thương đã sinh được một người con trai. Sau khi quan Tri phủ biết chuyện, liền dặn dò cha của Thương Lộ rằng: “Phải nuôi dưỡng đứa trẻ này cho tốt, sau này chắc chắn nó sẽ trở thành người hiển quý!”

Khi Thương Lộ đi học, trong nhà nghèo đến nỗi không có dầu đế đốt đèn, nên phải đốt cành thông để chiếu sáng. Trong nhà không có tiền mua giấy để viết chữ, Thương Lộ. liền xúc về một sọt cát, trải cát lên mặt đất, lấy que tre luyện chữ trên cát.

Năm Tuyên Đức thứ 10 (năm 1345), Thương Lộ thi hương đỗ đệ nhất, tức là Giải nguyên. Năm Chính Thống thứ 10 đời vua Minh Anh Tông (năm 1445), Thương Lộ với thân phận là Giải nguyên của Triết Giang lên kinh tham gia thi Hội, lại đỗ đệ nhất, vì thế được thăng làm Hội nguyên. Sau khi thi đỗ Hội nguyên, lập tức tham gia kỳ thi Đình do hoàng đế chủ trì, Thương Lộ lại thi đỗ đệ nhất. Trong suốt thời Minh, chỉ có duy nhất Thương Lộ là đỗ đầu cả Tam nguyên.

Minh Anh Tông rất khen ngợi Thương Lộ, cho ông làm Tu soạn, không lâu sau, cùng Lưu Nghiễm và nhiều người khác đến Đông các học tập. Bởi vì Thương Lộ diện mạo khôi ngô tuấn tú, nên vua Anh Tông lại đích thân chọn Thương Lộ làm Triển thư quan. Năm Chính Thống thứ 13 đời Minh (năm 1448), Thương Lộ lúc này mới ba mươi lăm tuổi được vua Minh Anh Tông thăng chức Thị lang.

Năm 1465, vua Minh Hiến Tông là Chu Kiến Thâm lên ngôi. Lúc này, thái giám chuyên quyền, vua Hiến Tông rất có ấn tượng với Thương Lộ, lại một lần nữa trọng dụng Thương Lộ lúc này đã năm mươi ba tuổi, giao cho ông chức Lại bộ Thượng thư, Hộ bộ Thượng thư, cuối cùng làm quan đến chức Nội các Thủ phụ. Thương Lộ dám nói thẳng, thậm chí dám chống lại thánh chỉ nhà vua, là vị quan tài giỏi nức tiếng. Trong thời gian mười năm ông nhiệm chức Nội các Thủ phụ, đã phá bỏ được “Tây xưởng”(*).

(*) Tây xưởng: Tên đầy đủ là “Tây tập sự xưởng”, là một trong các cơ quan giám sát của triều đinh, có nhiệm vụ giám sát phát ngôn của dân chúng, có quyền bắt giam và tra tấn những người bị nghi ngờ chống đổi triều đình. Thời vua Minh Hiến Tông, để củng cố quyền thong trị, vào năm Thành Hóa thứ 13 (năm 1447), đã thiết lập nên một cơ cấu đặc vụ bên ngoài Đông xưởng, Tây xường cùng với Đông xưởng và cẩm y vệ được gọi gộp là “xưởng vệ”, quyền lực của Tây xưởng vượt qua cả Đông xưởng, phạm vi hoạt động từ kinh thành cho đến khắp các đja phương.

Năm Thành Hóa thứ 29 (năm 1483), Thương Lộ đã bảy mươi tuổi, từ bỏ chức vị Nội các Thủ phụ mà lui về nhà, sống cảnh nhàn nhã, ba năm sau thì qua đời. Vua Minh Hiến Tông thăng cho ông làm Thái phó, thụy hiệu là “Văn Nghị”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Thương Lộ Trúng Tam Nguyên

Nên đặt phòng tắm ở hướng dữ

Không giống như các tiêu chí khác về hướng của ngôi nhà, các chuyên gia phong thủy cho rằng phòng tắm nên đặt ở hướng dữ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Phòng tắm nên đặt ở hướng dữ, tránh đặt đè lên hướng lành. Bản chất của không gian này là không sạch sẽ, vì vậy, nếu đặt ở hướng lành sẽ làm ảnh hưởng không tốt tới các sao lành, vận may của đất ở. Ngược lại, công trình phụ đặt đè lên hướng dữ “lấy độc trị độc” sẽ biến dữ thành lành.

Đối với người Đông tứ mệnh thì hướng Tây tứ (tây nam, tây, tây bắc và đông bắc) là hướng dữ, đặt phòng tắm là thích hợp. Đối với người Tây tứ mệnh, hướng Đông tứ (đông, đông nam, nam và bắc) là hướng dữ, đặt vệ sinh là tốt.



Phòng tắm nên đặt chỗ kín. Nếu như phòng tắm nhìn thẳng ra cửa chính tạo thành một đường thẳng, đập vào mắt người vào cửa sẽ không tạo được thẩm mỹ và cũng không phù hợp với phong thủy. Như vậy, sẽ không tốt cho sức khỏe những người sinh sống trong nhà. Nếu không đặt ở vị trí thẳng ra cửa chính thì cũng không nên đặt ở những vị trí quá lộ liễu.

Gian vệ sinh không nên đổi thành phòng ngủ. Đô thị thời hiện đại đất hẹp người đông. Một số gia đình để tiết kiệm không gian đã lấy ra một gian vệ sinh làm thành phòng ngủ.

Nhà vệ sinh luôn được coi là nơi không sạch sẽ, lại ở hướng dữ để chấn áp các sao dữ nên phòng ngủ đặt gần nhà vệ sinh là không thích hợp và chuyển vệ sinh thành phòng ngủ lại càng không nên.



Phòng tắm cần thường xuyên sạch sẽ để đảm bảo sức khỏe cho người sinh hoạt trong nhà và không gây ảnh hưởng tới các không gian khác. Nơi đây cũng cần thoáng đãng để cho không khí trong lành từ ngoài thổi vào và từ trong được hút ra ngoài. Vì vậy, cửa sổ hoặc cửa thông gió cần thường xuyên mở để cho không khí được lưu thông, giúp phòng tắm luôn có không khí trong lành.

(Theo VnExpress)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên đặt phòng tắm ở hướng dữ

Soi răng đoán tính cách

Bạn có hàm răng đều, xiên vẹo, hay răng nanh... chúng đều nói lên tính cách của bạn đấy nhé.
Soi răng đoán tính cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Răng nhỏ

Bạn có tinh thần cảnh giác cao độ, nhạy cảm, dễ vì chuyện nhỏ mà nảy sinh lòng ghen tỵ, cần nhiều sự quan tâm từ mọi người.

2. Răng cửa có khe hở

Mối quan hệ của bạn với bố mẹ không thân thiết, đặc biệt lúc trưởng thành, xa cách càng nhiều. Không những thế, khả năng tiết kiệm của bạn cũng không tốt, tài vận dễ hao hụt.

3. Răng cửa to

Bạn có tính cách lạc quan, hoạt bát, hay nói, thích náo nhiệt, thẳng thắn, nhiệt tình.

4. Có răng nanh

Con trai có răng nanh, tình cảm không thuận lợi, không biết cách bộc lộ tình cảm. Con gái có răng nanh rất có phúc, tài vận, tình cảm đều thuận lợi.

5. Răng cửa bị mẻ

Tình cảm của bạn với cha mẹ không sâu đậm, thiếu sự thấu hiểu lẫn nhau.

6. Răng xiên vẹo, gồ ghề

Bạn có tính cách bạo lực, dễ kích động, hở một chút là mắng người, miệng nói không ngừng nghỉ, dễ dẫn đến tình huống “cái miệng hại cái thân”. Người này dễ gây ra nguy hiểm và phiền phức, tiền bạc dễ tiêu tán.

doanhnhanvacuocsong-9322-1424840669.jpg

7. Răng trắng sáng, đều đặn

Những ai có hàm răng như vậy thì tính cách vui vẻ, hoạt bát, thích hành động và kết giao bạn bè.

8. Răng hô

Bạn thích hành động, hay nói, lời nói dễ dẫn đến tranh cãi, tính cách cố chấp.

9. Hai chiếc răng cửa khá to 

Bạn cố chấp. Nếu là con gái sẽ rất khó giao thiệp và dễ sinh con trai.

10. Răng lởm chởm

Tính tình của bạn hay thay đổi, dễ kích động và nổi cáu. Trong tình cảm, bạn thường vì lời nói mà dẫn đến xung đột.

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi răng đoán tính cách

Người tuổi Tỵ và tuổi Thân có hợp nhau không?

Tuổi Tỵ và tuổi Thân có hợp nhau không? Tỵ và Thân đều ham thích vui chơi, đều duyên dáng và khá nổi bật trước đám đông.
Người tuổi Tỵ và tuổi Thân có hợp nhau không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tỵ và Thân đều ham thích vui chơi. Cả 2 đều duyên dáng và khá nổi bật trước đám đông. Tuy nhiên, tuổi Tỵ có phần sống khép mình hơn tuổi Thân. Tỵ muốn dành nhiều thời gian ở nhà và đọc ngấu nghiến 1 quyển sách hay. Còn Thân thì lúc nào cũng muốn ra ngoài, theo đuổi ước mơ, hoài bão của mình.


Nguoi tuoi Ty va tuoi Than co hop nhau khong?
 
tuổi Tỵ và tuổi Thân có hợp nhau không? Nếu là cặp đôi, Tỵ và Thân sẽ dành nhiều thời gian vui vẻ cùng với bạn bè. 2 con giáp này rất hấp dẫn nhau về mặt thể xác. Tuy nhiên, bản chất của người tuổi Tỵ là rất hay ghen và có tính sở hữu trong tình yêu. Do đó, Thân sẽ thường xuyên bị Tỵ "gây chuyện" cãi vã. 

Thân vốn là con giáp chung tình nhưng lại thường đi chơi thâu đêm với nhiều tầng lớp khác nhau. 
Điều này dễ làm cho Tỵ lo lắng và ghen tức.

Khi là đối tác làm ăn, Thân và Tỵ có thể hợp nhau nếu họ biết tự điều chỉnh để tránh mâu thuẫn và biết biến những tính cách trái ngược thành sự bổ sung hợp lý. Tuổi Thân vốn ưa thích những điều mạo hiểm và ham vui.

Trong khi đó, Tuổi Tỵ lại khá cẩn thận nên đôi khi cũng dễ chán tính thích chơi bời của Thân. Tỵ rất chăm chỉ và tin vào mục tiêu mình đề ra nên thường phải làm việc nhiều hơn Thân. Tuổi này khá may mắn với chuyện tiền bạc. Khi kết hợp, cả 2 rất dễ cạnh tranh để giành vị trí “người dẫn đường”.

(Theo Zing)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Tỵ và tuổi Thân có hợp nhau không?

Hướng cửa của cửa hàng mặt đường phố cổ nên xử lý thế nào? –

Trên phố xá, thường thấy một số cửa hàng lợi dụng gian bên đường có sẵn thay đổi kiến trúc mà thành. Những gian hàng của cửa hàng này trước kia đa số đều là nhà ở sử dụng, không có những tấm che chắn hay mái che ra bên ngoài để tránh nắng tránh mưa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

20120305110720_7

Những cửa hàng như thế tuy hướng tới được khách hàng nhưng không có lợi cho sự ra vào của khách hàng. Những cửa hàng như vậy, trước cửa nên làm một tấm lầu che nắng mưa, có được tấm lán đó, mùa nắng có thể tránh được ánh nắng chiếu của những ngày nắng nóng, cùng khiến cho khách hàng đến cửa hàng có một nơi để nghỉ chân; vào mùa mưa, có thể tránh bị mưa làm ướt cửa hàng và khiến cho khách hàng đến đó chuẩn bị được một chỗ trú mưa. Nếu không, cửa hàng không có gì che chắn, trong những ngày nóng bức, khi nóng làm khách hàng không chịu được nên sẽ ít đến hơn; những hôm trời mưa, không khí ẩm ướt xung quanh, khách hàng không có chỗ đứng thì đương nhiên cùng sẽ không ai đến.

Vật cát tường:

Ỷ nghĩa tượng trưng: Trí tuệ, sức khỏe, khai vận cát tường.

Giải thích: Trong các vật khai vận cát tường của truyền thông Trung Quốc, “hồ lô” có hiệu quả thần kỳ trong việc trừ tà, nạp phúc, tăng tiến tài vận, do vậy, miệng bình hồ lô nhỏ, thân bình to, dễ vào mà khó ra.

Có thế dùng để hoá giải bệnh tật, trừ bò sát khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng cửa của cửa hàng mặt đường phố cổ nên xử lý thế nào? –

Những lưu ý phong thủy trong tiết Lập Hạ cần biết

Lập Hạ là tiết thứ 7 trong 24 tiết khí, là thời điểm đánh dấu sự chuyển giao giữa mùa xuân và mùa hạ. Theo quan điểm dân gian, có nhiều vấn đề phong thủy cần
Những lưu ý phong thủy trong tiết Lập Hạ cần biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Lập Hạ là tiết thứ 7 trong 24 tiết khí, là thời điểm đánh dấu sự chuyển giao giữa mùa xuân và mùa hạ. Theo quan điểm dân gian, có nhiều vấn đề phong thủy cần phải lưu ý trong tiết khí này để tiêu trừ bệnh tật, nâng cao sức khỏe.
 

  Lập Hạ thuộc 24 tiết khí, đó chính là thời điểm Mặt trời tạo với Xích đạo góc 450, cũng chính là những giây phút đầu tiên khi mùa hè đến. Theo dân gian, tiết Lập Hạ bắt đầu khoảng mùng 5 hoặc 6 tháng 5 dương lịch và kết thúc vào khoảng 21 (hoặc 22) tháng 5, vào lúc này nhiệt độ bắt đầu tăng cao, lượng mưa cũng sẽ dần tăng lên.
Nhung luu y phong thuy khong the khong biet trong tiet Lap Ha hinh anh
 
Dưới đây là những lưu ý phong thủy cần biết trong tiết Lập Hạ, giúp bạn tăng cường sức khỏe, nâng cao sức đề kháng với bệnh tật.
 
1. Năm nay, tiết Lập Hạ rơi vào tháng Tỵ, những người tuổi Hợi và Dần phải hết sức chú ý, làm việc gì cũng phải giữ cho tinh thần cân bằng, hành sự cẩn trọng, suy nghĩ kĩ càng trước khi tiến hành, tránh tình trạng phá sức, phá tài.   2. Nên ăn uống thanh đạm để bảo vệ sức khỏe. Vì sau khi bước sang tiết Lập Hạ, dương khí tăng mạnh, nhiệt độ nóng dần lên, những thực phẩm nhiều giàu mỡ sẽ khiến cơ thể dễ bốc hỏa, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe và tinh thần.    Ngoài ra, cần phải hành sự điềm tĩnh, hài hòa, nóng vội khiến tinh thần bất an, là điều kiện tốt để bệnh tật phát sinh, nhất là các bệnh về tim mạch.  
Nhung luu y phong thuy khong the khong biet trong tiet Lap Ha hinh anh 2
 
3. Trong tiết Lập Hạ nên đề phòng bị rắn cắn, nhất là ở các vùng nông thôn.   4. Trẻ con không nên ngồi ở bậu cửa chính. Theo quan điểm dân gian, trong tiết Lập Hạ mà trẻ con ngồi ở bậu cửa dễ bị ốm đau, nên tránh vị trí này.    5. Những thực phẩm tốt cho sức khỏe trong tiết Lập Hạ bao gồm: trứng, măng trúc, đậu, mướp đắng, cá… Những thực phẩm này vừa bổ dưỡng lại có tác dụng thanh nhiệt, làm giảm cảm giác nóng trong.   6. Cúng bái thần linh, tặng đồ ăn cho người khác, uống những ấm trà mới… là những việc mà bạn nên tiến hành trong tiết Lập Hạ.    Ngân Hà
12 con giáp ăn gì trong tiết Lập Hạ để vượng vận khí?
Lập Hạ, thời tiết nắng nóng khiến cơ thể chúng ta dễ suy nhược, mệt mỏi. 12 con giáp nên là những người thông thái trong việc sử dụng các thực phẩm sẵn có để

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý phong thủy trong tiết Lập Hạ cần biết

Chọn nghề và phương hướng ở thông qua ngũ hành tứ trụ –

Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Mộc thường thích hướng Đông. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến: Vật liệu gỗ, đồ gỗ, đồ gia dụng, đồ trang hoàng, gỗ thành phẩm, nghề giấy, trồng trọt, trồng ho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a, nuôi cấy giống cây, các vật lễ thần, hương liệu, các thực phẩm có tố chất thực vật.

am-duong-ngu-hanh

Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Hỏa thường thích hướng Nam. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến các phương diện như: Chiếu sáng, phát sáng, quang học, nhiệt độ lớn, dễ cháy, các loại dầu, các loại cồn, thực phẩm nóng, thực phẩm, cắt tóc, mỹ phẩm hóa trang, trang sức trên người, văn nghệ, văn học, dụng cụ văn phòng phẩm, học sinh văn hóa, văn nhân, tác giả, tác phẩm, biên tập, nhà giáo, hiệu trưởng, thư ký, xuất bản, công vụ, giới chính trị…

Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Thổ thường thích nơi trung tâm, bàn địa. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh liên quan đến các phương diện như: Đất đai, bất động sản, nông thôn, gia súc, vải vóc, quần áo, đồ dệt, chất liệu đá, vùng núi, xi măng, kiến trúc, buôn bán nhà ở, áo mưa, ô dù,  các vật phẩm có chứa nước, đồ phông bạt,đồ cổ, người trung gian, luật sư, quản lý, buôn bán, thiết kế, cố vấn, làm về tang lễ, xây dựng bia mộ, quán lý nghĩa trang, tăng ni…

Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Thủy thường thích hướng Bắc. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh liên quan đến các phương diện như: Hằng hải, các loại dung dịch lạnh khó cháy, băng tuyết, các loại cá, thủy sản, thủy lợi, đông lạnh, đóng băng, đánh bát, dọn rửa, nước chảy, càng khâu, bể bơi, ao hổ, phòng tắm, buôn bán thực phẩm nguội, phiêu du, lướt sóng: các tính chất thuộc Thủy: lưu động, tính liên tục, dễ thay đổi, tính chất mang tính âm, sạch sẽ, làm việc trên biển, du lịch, biểu diễn, vận động, hướng dẫn viên, dụng cụ đồ chơi, ảo thuật, phóng viên, trinh thám, công ty du lịch, dụng cụ cứu hỏa, dụng cụ câu cá, ngành y học, kinh doanh dược phẩm, bác sỹ , y tá, bói toán…

Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Kim thường thích hướng Tây. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến các phương diện như: Vật liệu tơ lụa hoặc các vật liệu đồ dùng kim loại, các đồ cứng chắc, quyết đoán, võ thuật, kiên định, quản lý, ô tô, giao thông, tiền tệ, công trình, giống cây, khai khoáng, đại diện dân ý, chặt gỗ, cơ khí…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn nghề và phương hướng ở thông qua ngũ hành tứ trụ –

Xem tính cách của người mắt hạ tam bạch |

Người mắt hạ tam bạch là người thông minh, nhanh nhạy nhưng lòng dạ nham hiểm, tự cao tự đại,… không gây được thiện cảm đối với người xung quanh. Mắt có tròng trắng nhiều, tròng đen ít; tròng trắng nằm ở phía dưới, còn tròng đen lại nằm ở phía trên c
Xem tính cách của người mắt hạ tam bạch |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tính cách của người mắt hạ tam bạch |

Muốn công việc chạy ầm ầm tháng cuối năm, cần hạn chế 8 món đồ sau

Nếu muốn làm việc hiệu quả và đạt năng suất cao, gia chủ nên hạn chế một vài đồ vật không đáng có trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Bàn làm việc lộn xộn

Nếu bạn trễ các kế hoạch đã đề ra thì có thể "đổ lỗi" cho chiếc bàn làm việc bừa bãi và vô tổ chức. Theo nghiên cứu từ Đại học Princeton, những đống lộn xộn ảnh hưởng xấu đến khả năng chú ý và làm xao nhãng bộ não của bạn, làm cho tinh thần và thể chất cảm giác kiệt sức.


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 1

2. Bức tường xanh da trời

Lý do mà bạn nên sơn tường phòng ngủ màu xanh da trời là màu sắc đó khiến làm chậm nhịp tim, giảm huyết áp, và làm cho bạn cảm thấy buồn ngủ. Do vậy, không bao giờ dùng màu xanh da trời nhiều ở góc làm việc.

muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 2

3. Nhiệt độ trong nhà quá lạnh

Nghiên cứu cho thấy rằng nhiệt độ tối ưu cho giấc ngủ ở 15-20 độ C. Vì vậy nếu bạn để nhiệt độ trong nhà lành lạnh, bạn có thể khiến mình dễ chìm vào những giấc ngủ ngắn trong ngày thay vì hoàn thành lịch trình đã đề ra.


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 3

4. Điện thoại di động

Một nghiên cứu của National Sleep Foundation cho thấy rằng nhiều người đã bị đánh thức bởi một cuộc gọi, tin nhắn hoặc email ít nhất một vài lần trong một đêm - và giấc ngủ bị gián đoạn làm cho bạn cảm thấy chuếnh choáng vào hôm sau.


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 4

5. Thức ăn "rác"

Các loại thức ăn không tốt cho sức khỏe, ví dụ như khoai tây chiên, đầy carbs và đường, muối, dầu mỡ. Tất cả sẽ khiến cơ thể cảm thấy mỏi mệt, buồn ngủ, thiếu nước.


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 5

6. Đèn chiếu sáng

Ánh sáng đóng một vai trò rất lớn trong việc hoạt động của não bộ. Một nghiên cứu từ Đại học Northwester cho thấy những người làm việc trong ánh sáng tự nhiên (so với chỉ có ánh sáng nhân tạo) ngủ nhiều vào ban đêm - giúp cho cả ngày làm việc hôm sau được tỉnh táo.


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 6

7. Máy tính

Chắc chắn, thiết bị này đã thay đổi cuộc sống của con người mãi mãi khi nói đến sự tiện lợi, nhưng nó cũng mang đến nhiều vấn đề, đặc biệt dễ khiến bạn dễ thức khuya, mệt mỏi. Bạn có thể mua đồ online, xem chương trình yêu thích của bạn, và giữ liên lạc với các thành viên trong gia đình - tất cả chỉ cần ngồi một chỗ. Vậy thì tại sao bạn có thể dễ dàng dứt khỏi nó?


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 7

8. TV

Đáng buồn thay, TV sản xuất ra nhiều bước sóng màu xanh - ức chế bộ não sản xuất melatonin, có nghĩa là giấc ngủ sẽ ngắn và bớt sâu hơn. Vì thế bạn sẽ thêm mệt mỏi vào ngày hôm sau.


muon cong viec chay am am thang cuoi nam, can han che 8 mon do sau - 8
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn công việc chạy ầm ầm tháng cuối năm, cần hạn chế 8 món đồ sau

Xem bói tình duyên cho người tuổi Thân nhóm máu A

Ảnh hưởng một phần từ tính cách rụt rè, nhút nhát nên người tuổi Thân nhóm máu A không dám thể hiện tình cảm của mình trước người mình yêu mến.
Xem bói tình duyên cho người tuổi Thân nhóm máu A

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem boi tinh duyen cho nguoi tuoi Than nhom mau A
 

Trước mặt đối phương, họ thường nói chuyện vu vơ, tầm phào để che giấu tình cảm thật của bản thân. Vì lý đó mà "nửa kia" chỉ nhận thấy ở họ sự hoạt ngôn chứ không hề biết được thành ý của họ.

Biết rõ nhược điểm của bản thân nên những người này tìm đến bạn thân nhất làm nhịp cầu kết nối tình cảm của mình với "nửa kia".

Đôi khi, tình cảm của người tuổi Thân nhóm máu A cũng không ổn định. Khi xuất hiện thêm một đối thủ, họ sẽ tìm mọi cách để chinh phục trái tim người ấy. Nhưng khi không còn ai cạnh tranh nữa, họ lại tỏ thái độ thờ ơ, lạnh nhạt. Vì vậy, có thể nói rằng, tình yêu của họ sẽ nồng đượm hơn khi có thêm người thứ ba.

Vì không dũng cảm biểu lộ tình yêu với người mình thực sự yêu thương nên họ đánh mất cơ hội để cả đời chung sống với người ấy. Do có rất nhiều người bạn khác giới nên những người này sẽ chọn một trong số đó làm bạn đời của mình. Mặc dù đó không phải là người họ hết lòng yêu thương nhưng sau một thời gian chung sống, họ sẽ nhận ra những ưu điểm của người bạn đời. Hai người sẽ cùng chung tay xây đắp cho tổ ấm ngày càng hạnh phúc.

Cả nam giới và nữ giới tuổi này nên xây dựng gia đình với những đối tượng hài hước, lạc quan. Sự kết hợp này sẽ mang lại không khí vui vẻ cho hai người.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình duyên cho người tuổi Thân nhóm máu A

Canh Tuất mệnh gì –

Người sinh 1970, Canh Tuất, có Ngũ hành năm sinh là Thoa Xuyến Kim, Mệnh Cung của Nam và Nữ giống nhau: 1. Nam và Nữ: Nam và Nữ đều cung CHẤN, hành MỘC, hướng Đông, quái số 3, sao Tam Bích, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Nam, Bắc, Đông Nam, Đông). Đeo
Canh Tuất mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Canh Tuất mệnh gì –

Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu, tu vi Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu

Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu, bạn có muốn biết? Cung Bạch Dương và Song Ngư trong tình yêu thường quá tin vào những lời ngọt ngào đãi bôi. Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu

Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu

Bạch Dương (21/3 – 19/4) và Song Ngư (19/2 – 20/3): Quá tin vào những lời ngọt ngào đãi bôi

Xem bói các cô gái Bạch Dương ngây thơ và Song Ngư đa cảm cứ yêu vào là không còn suy nghĩ thông suốt được nữa mà sẽ tin tưởng không chút nghi ngờ những lời chàng nói. Đôi khi đó chỉ là những lời “chót lưỡi đầu môi” nhưng các cô gái lại tin tưởng rồi hy vọng. Những lời hứa, lời thề đều có thể chỉ là cảm xúc nhất thời, người nói chẳng có ý mà người nghe thì lại có tình, cố nhớ để rồi day dứt mãi không quên. Đến khi chia ly các cô gái vẫn cứ vin vào những lời bay bổng ngọt ngào đó để lừa dối bản thân rằng: Anh ấy yêu mình mà. Ngốc nghếch như vậy thì đến bao giờ mới có được hạnh phúc đích thực đây các cô gái Bạch Dương và Song Ngư?

Kim Ngưu (20/4 – 20/5) và Cự Giải (22/6 – 22/7): Chi trả quá nhiều

Ai cũng nói rằng cô gái Kim Ngưu coi trọng vật chất, nhưng thực tế thì khi yêu rồi cô ấy lại là người sẵn sàng chi trả không đắn đo. Cô gái Cự Giải cũng vậy, cô ấy chỉ đơn thuần nghĩ rằng tiền bạc vật chất là cách để thể hiện tình cảm mà không cần dùng lời nói. Chẳng phải mua quà cũng là thể hiện sự quan tâm hay sao? Hay là cùng nhau đi du lịch, cà phê hẹn hò, cô ấy cũng chẳng ngại góp một phần. Thế nhưng điều này lại ảnh hưởng đến vị thế nam nhi của các anh chàng, không cho họ thể hiện được sự ga lăng của mình. Và nếu tồi tệ hơn gặp phải những kẻ đào mỏ vô lương tâm thì đó chẳng khác nào bi kịch.

 

Song Tử (21/5 – 21/6) và Thiên Bình (23/9 – 23/10): Những mối quan hệ phức tạp

Xem tử vi cung Song Tử và Thiên Bình, họ luôn là hai cô gái được các anh chàng khác giới theo đuổi rất nhiệt tình. Đến khi mà các cô nàng đã tìm cho mình được “nửa kia” thì những “cái đuôi” vẫn không hề nản chí. Và đáng tiếc nhất, hai cô nàng lại là những người không vì một cái cây mà bỏ cả cánh rừng, vì người yêu mà gạt bỏ những mối quan hệ không rõ ràng khác. Khó có thể nói mối quan hệ bạn bè giữa nam và nữ là trong sáng nhưng Song Tử và Thiên Bình lại kiên quyết cho là vậy. Đương nhiên nó sẽ gây ra những cuộc tranh cãi không bao giờ ngừng giữa cặp đôi và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc của cả hai.

Sư Tử (23/7 – 22/8) và Thần Nông (24/10 – 22/11): Kiểm soát quá mức

 

Không khó để hình dung ra sự khống chế nửa kia quá mức của hai cô gái này, có cảm giác như người yêu là con trẻ và các nàng là những bà mẹ yêu thương quan tâm nhiều hơn cần thiết, luôn luôn lo lắng từng giây từng phút. Sư Tử và Thần Nông luôn muốn biết mọi chuyện về người kia, họ đang làm gì, đang suy nghĩ gì và đang cảm thấy thế nào. “Nhất cử nhất động” đều phải thông báo cho các nàng hay. Chỉ khi kiểm soát chặt chẽ như vậy hai cô nàng này mới có được cảm giác yên tâm, tin tưởng đối phương – nhưng lại không biết rằng tình cảm giống như hạt cát, càng cố nắm trong tay thì lại càng dễ vuột mất.

Xử Nữ (23/8 – 22/9) và Ma Kết (22/12 – 19/1): Đánh mất chính mình

Chuyện ngốc nghếch khi yêu đương mà hai cô gái này mắc phải là đánh mất đi chính bản thân mình. Vì các nàng nghĩ mình là con gái nên khi yêu cần phải nhún nhường, dịu dàng e thẹn, nghe lời nửa kia. Một chút ngại ngùng ngoan ngoãn là tốt nhưng cũng không đến nỗi phải gạt bỏ mọi mối quan hệ, tự buộc chặt mình vào với một người để rồi chẳng còn mong muốn, ước mơ hay dự định nào khác. Cuộc sống quá mức lệ thuộc và dựa dẫm vào người yêu sẽ nhanh chóng làm anh ấy cảm thấy chán chường đấy, hai cô gái ạ.

Nhân Mã (23/11 – 21/12 ) và Bảo Bình (20/1 – 18/2): Không coi trọng vật chất

Không giống với những cô gái khác, Nhân Mã và Bảo Bình lại chẳng hề quan tâm đến vật chất. Họ để tâm đến chuyện người kia dành tình cảm cho mình nhiều bao nhiêu, chỉ cần “người ấy” hơi thể hiện một chút xíu sự quan tâm lo lắng thôi là họ đã cảm thấy sung sướng và coi đó như một món quà.Với họ tiền bạc chỉ là vật ngoài thân, tình cảm mới là thứ đáng trân trọng. Cho dù không sai nhưng trên thực tế tình yêu không thể thay thế được cơm áo gạo tiền. Nếu chỉ sống bằng tình cảm thôi thì chưa đủ, cần phải có vật chất để đảm bảo cho cuộc sống hiện tại và tương lai nữa. Đừng quá coi nhẹ tiền tài để rồi có khi tình yêu lại đi vào ngõ cụt chỉ vì những tranh cãi vụn vặt liên quan đến tiền bạc thường ngày không đáng có, các nàng nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Việc làm ngốc nghếch của 12 nàng Hoàng đạo khi yêu - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Sự tích lễ Vu Lan

Lễ Vu Lan xuất phát từ tích Tôn giả Mục Kiền Liên thỉnh cầu Đức Phật chỉ giáo cách cứu giúp người mẹ già của Tôn giả đang bị đày ải dưới địa ngục đầy đau khổ. Đó là vào ngày rằm tháng Bảy, làm lễ báo hiếu cha mẹ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ Vu Lan – Báo hiếu mẹ (và tổ tiên nói chung) là truyền thống văn hóa của người Á Đông. Thế nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc của ngày Lễ thiêng liêng này. Để dễ đọc, dễ nhớ, Nhà thơ, dịch giả Thái Bá Tân đã chuyển thể câu chuyện này thành thơ. Xin chân thành cám ơn tác giả!

SỰ TÍCH LỄ VU LAN

        Thái Bá Tân

Theo truyền thuyết nhà Phật,

Bà mẹ Mục Kiền Liên

Là người không mộ đạo

Báng bổ cả người hiền.

 

Bà không tin Đức Phật

Không tin cả Pháp, Tăng

Tam Bảo và Ngũ Giới

Bà cho là nhố nhăng.

 

Nên bà, sau khi chết

Vì tội lỗi của mình

Bị đày xuống địa ngục

Chịu bao nỗi cực hình.

 

Về sau thành La Hán

Tôn giả Mục Kiền Liên

Đạt lục thông, ngũ nhãn

Nhìn thấu hết mọi miền.

 

Ông thấy mẹ đang đói

Dưới địa ngục âm u

Bát cơm ăn chẳng có

Bị đói khát, cầm tù.

 

Ngay lập tức tôn giả

Liền mở phép thần thông

Lần xuống đáy địa ngục

Đưa cơm cho mẹ ông.

 

Bà này khi còn sống

Từng tranh ăn với con

Bây giờ xuống địa ngục

Thói xấu ấy vẫn còn.

 

Bà vội lấy vạt áo

Che bát cơm to đầy

Định lẻn đi ăn mảnh

Một mình sau gốc cây.

 

Nhưng vừa đưa lên miệng

Cả bát cơm, than ôi

Đã biến thành cục lửa

Cháy hết răng và môi.

 

Dẫu là người hiếu thảo

Lại đệ nhất thần thông

Mà tôn giả bất lực

Không giúp được mẹ ông.

 

Ông quay về Tịnh Xá

Tìm gặp Phật Thích Ca

Nhờ Ngài chỉ giùm cách

Cứu giúp bà mẹ già.

 

Đức Phật nghe rồi đáp:

“Mẹ ngươi quá lỗi lầm

Nên ngươi không thể cứu

Chờ tháng Bảy, ngày Rằm

 

Ngày mọi người hoan hỷ

Hãy làm lễ Vu Lan

Mời mọi người đến dự

Mâm cỗ bày trên bàn”

 

Ngay lập tức tôn giả

Đúng theo lời Thích Ca

Làm lễ Vu Lan lớn

Cứu được người mẹ già.

 

Và mọi người từ đấy

Vào ngày này hàng năm

Tổ chức lễ xá tội

Cho tổ tiên lỗi lầm.

 

Về sau, chính tôn giả

Đã tự nguyện thành người

Trông coi chuyện âm phủ

Đầy oan trái sự đời.

  Khi làm lễ xá tội

Cho tổ tiên lầm đường

                                                                                                                                                                Nguồn: Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích lễ Vu Lan

Những con giáp nữ trắc trở đường tình duyên

Vì cá tính quá mạnh hay do bận rộn với công việc mà những nàng giáp này gặp khá nhiều trở ngại về đường tình duyên.
Những con giáp nữ trắc trở đường tình duyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

1. Cô nàng tuổi Thìn

Không chỉ riêng nữ giới mà cả nam giới tuổi Thìn đều có chung cá tính mạnh mẽ, lúc nào cũng coi mình là trung tâm vũ trụ, thích chỉ huy người khác, thậm chí có phần áp đặt suy nghĩ của mình cho mọi người.

Nhung nang giap trac tro duong tinh duyen hinh anh
 
Nhưng nhược điểm mà cô nàng tuổi Thìn mắc phải chính là sự nóng vội, thiếu kiên trì, đồng thời không biết giải quyết vấn đề một cách toàn diện mà chỉ có thể xử lí một phương diện nào đó. Theo đó, đôi khi làm mất lòng người khác, các mối quan hệ thiếu sự hài hòa.

Đặc biệt là những nàng cầm tinh con Rồng mà sinh vào đúng năm bản mệnh tính khí lại càng nóng nảy, hiếu thắng. Do đó, họ không thể tiết chế cảm xúc, tình yêu hôn nhân dễ gặp trở ngại, hai bên nảy sinh mâu thuẫn triền miên, khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ.

2. Cô nàng tuổi Tuất

Trong công việc, con gái tuổi Tuất rất xông xáo, chăm chỉ, luôn cống hiến hết mình cho sự nghiệp. Với họ, công việc là trên hết, chuyện tình cảm chỉ là thứ yếu. Chỉ cần họ nhận trách nhiệm với việc gì đó, chắc chắn họ sẽ nỗ lực hết mình để đạt được thành quả xuất sắc nhất.

Nhung nang giap trac tro duong tinh duyen hinh anh 2
 
Chính vì quá chú tâm làm việc nên cô nàng tuổi Tuất không còn thời gian và tâm trí dành cho chuyện yêu đương. Họ thà hi sinh tình cảm cá nhân chứ không chịu bỏ lỡ cơ hội trong sự nghiệp của mình. Vì lẽ đó, đường tình duyên của con giáp này luôn gặp trở ngại, thậm chí phải tái hôn nhiều lần.

3. Cô nàng tuổi Sửu

Nhung nang giap trac tro duong tinh duyen hinh anh 3
 
Những cô nàng cầm tinh con Trâu tuy khá thành đạt trong công việc nhưng lại gặp không ít trở ngại về đường tình duyên. Nguyên nhân chính là do tính cách bộc trực, quá thẳng thắn tới mức cứng nhắc của họ, kể cả trong tình yêu cũng vậy.

Hiếm khi thấy con gái tuổi Sửu chủ động tạo sự hứng khởi, không khí lãng mạn trong tình yêu. Lối sống nguyên tắc và có phần lạnh lùng và hiếu thắng của họ khiến đối phương cảm thấy áp lực nên khó tránh những mâu thuẫn nảy sinh hoặc trắc trở về hôn nhân.

Linh Lan (Theo DYXZ)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp nữ trắc trở đường tình duyên

Tìm hiểu về ý nghĩa của đá Peridot –

Peridot còn được biết đến như olivine hay chrysolite, được tạo thành bởi magma trong tinh thể núi lửa. Nó thường có màu olive hoặc vàng xanh. Peridot được người Ai Cập dùng làm trang sức và chữa bệnh. Vậy cùng Tìm hiểu về ý nghĩa của đá Peridot. Ý ng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Peridot còn được biết đến như olivine hay chrysolite, được tạo thành bởi magma trong tinh thể núi lửa. Nó thường có màu olive hoặc vàng xanh. Peridot được người Ai Cập dùng làm trang sức và chữa bệnh. Vậy cùng Tìm hiểu về ý nghĩa của đá Peridot.

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của Đá Peridot
    • 1.1 Ý nghĩa chữa bệnh của Peridot
    • 1.2 Ý nghĩa phong thủy  đá Peridot
  • 2 Bảo quản và chọn mua

Ý nghĩa của Đá Peridot

Ý nghĩa chữa bệnh của Peridot

Đá Peridot còn được biết đến như olivine hay chrysolite, được tạo thành bởi magma trong tinh thể núi lửa. Nó thường có màu olive hoặc vàng xanh.

Peridot được người Ai Cập dùng làm trang sức và chữa bệnh. Nó đã được khai thác làm tinh thể quý khoảng bốn nghìn năm theo Kinh thánh, nơi tên Do Thái của nó là pitdah, và được cho là một trong những loại tinh thể dùng trong bản khắc quan tài của các thầy tu Do Thái. Đá Peridot được dùng để xua đuổi tà ma trong thời Trung cổ.

Đá Peridot tương thích với chakra tim, nó có thể tẩy sạch trái tim khỏi sự đố kỵ, oán giận, cay đắng, ghét bỏ và lòng tham, để ta tha thứ và quên đi, đồng thời mở lòng ra với niềm vui và những mối quan hệ mới. Do khả năng giải phóng giận dữ và tội lỗi, nó rất tốt để giải độc gan và túi mật, nơi chất chứa những cảm xúc này.

Peridot cung cấp một tấm khiên bảo vệ ta khỏi bị người khác lấy mất năng lượng. Một tinh thể tái sinh và cung cấp năng lượng, nó có thể được sử dụng để hồi sức, chữa lãnh cảm và mệt mỏi. Thật thế, đá peridot là một liều thuốc tăng lực cho cả cơ thể, củng cố hệ miễn dịch và ngăn bệnh tái phát. Nó có thể chữa bệnh phổi nhờ vào khả năng thúc đẩy cơ thể loại thải niêm dịch của mình. Đá Peridot có thể tăng cường thị lực và chữa các vấn đề tiêu hóa và da liễu, đặc biệt là mụn cóc.

Peridot còn được biết đến như olivine hay chrysolite, được tạo thành bởi magma trong tinh thể núi lửa. Nó thường có màu olive hoặc vàng xanh.

Ý nghĩa phong thủy  đá Peridot

Peridot được coi là viên đá của Mặt Trời. Peridot có màu xanh hi vọng kết hợp với vàng cao quý sẽ xua tan nỗi sợ hãi trong đêm và mang lại sự may mắn trong tình yêu, hạnh phúc bền chặt. Trang sức từ Peridot có thể vừa tăng vẻ đẹp vừa xua đuổi tà ma.

Thuở xưa người ta đã dùng đá Peridot làm bùa hộ mệnh bằng cách đục lỗ vào mảnh đá, luồn sợi lông con lừa qua lỗ ấy rồi đeo vào tay trái và coi đó như là bùa “hộ phù trừ xui”.Ngày nay, việc dùng đá này làm bùa hộ mệnh càng phổ biến, bởi khi được gắn trên trang sức nó sẽ khiến chủ nhân quyến rũ, quý phái và nổi bật mọi lúc, mọi nơi.

Mang màu xanh mát, Peridot được xếp vào đá quý tuổi tháng 8 – tượng trưng cho vẻ đẹp dịu dàng, thể hiện nét hiền hoà lãng mạn của người mang nó. Đặc biệt, với những người tuổi Thân, sử dụng bộ trang sức gắn đá quý Peridot sẽ có được sự may mắn, nó sẽ mang lại cho bạn niềm hạnh phúc, mãn nguyện trong cuộc sống. Ngoài ý nghĩa là bùa hộ mệnh, Peridot còn mang ý nghĩa ghi dấu ấn về thời gian – đây là viên đá kỷ niệm 16 năm ngày cưới.

Bảo quản và chọn mua

Peridot có độ cứng 6,5 trên thang Mohs nên mềm hơn nhiều đá quý khác như: Kim Cương, Ruby, Emeral, … vì vậy khi cất giữ nữ trang peridot bạn nên cẩn thận, tránh cọ sát và làm rơi. Vệ sinh peridot với xà phòng trong nước ấm: dùng bàn chải chà phía sau viên đá là nơi tích tụ nhiều chất dơ hoặc dùng nước rửa trang sức chuyên dụng. Không nên rửa peridot bằng máy siêu âm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về ý nghĩa của đá Peridot –

Chiêm nghiệm vận mệnh đời người theo giờ sinh

Cổ nhân quan niệm rằng, giờ sinh của mỗi người có mối liên hệ và ảnh hưởng tới cuộc đời của người đó, đặc biệt là từ trung niên trở đi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giờ sinh còn đại diện cho mối quan hệ về con cái, nô bộc và sự nghiệp. Vì vậy thông qua giờ sinh người ta cũng có thể dự đoán được phần nào tính cách, vận mệnh của người đó ra sao.

Chiem nghiem van menh doi nguoi theo gio sinh
Ảnh minh họa. 
Sinh giờ Tý (23h-1h)
Về tổng thể có thể nói người sinh giờ Tý là mẫu người nóng vội nhưng mạnh mẽ, dễ bị người khác gây phiền hà thị phi. Vận hạn dễ xảy ra vào các năm 12, 18, 36, 45, 58, thọ 89 tuổi.

Người sinh vào giờ Tý nếu là nam giới thì thường có tính cách tương đối cứng rắn, tuy nhiên lại có đôi chút nóng vội. Khi làm việc dễ xảy ra tình trạng dao động không ổn định, nhưng lại gặp nhiều may mắn, được cha mẹ, vợ hoặc người trong gia đình giúp đỡ rất lớn, có năng lực làm nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng.

Nếu là nữ giới thì dễ có được người chồng tốt, được dạy dỗ nên tính tình nhã nhặn, rõ ràng và quyết đoán. Đặc biệt đây còn là mẫu người coi trọng năng lực và chất lượng cuộc sống. Thường thích phấn đấu vươn lên trong sự nghiệp và họ có xu hướng thích một người đàn ông có trí tuệ, có chí tiến thủ.

Trong quan hệ vợ chồng thường thấy phần tình nghĩa nặng hơn yêu thương, giữa hai người giống như bạn bè, đồng nghiệp biết cách chia sẻ cho nhau khiến cả hai mặt gia đình và sự nghiệp đều rất hưng vượng.

Nếu sinh vào lúc 23h00 – 23h40 thì mệnh dễ khắc mẹ, làm việc thường thấy tình trạng tiến thì ít mà lui thì nhiều, thành công 10 thì thất bại tới 8, 9 phần. Quan hệ gia đình thì ít giao tiếp với người thân, tài lộc thất thường.

Nếu sinh vào lúc 23h40 - 00h20 thì có tính cách làm việc quyết đoán, sự nghiệp lúc đầu có thành có bại, cuối cùng thì dễ thành công lớn nhưng đi xa nhà thì tốt hơn.

Nếu sinh vào lúc 00h20 - 1h, tức cuối giờ Tý thì được coi là bản mệnh khắc cha, ít được sự giúp đỡ của người thân trong gia đình, suốt đời vất vả khổ cực. Đồng thời đây là mẫu người làm việc không đầu không cuối khiến tài lộc không giữ được. Tuy nhiên về cuối đời lại rất tốt.

Sinh giờ Sửu Về tổng thể, người sinh vào tuổi Sửu thì duyên với cha mẹ tương đối mỏng, tức là ít được ở gần cha mẹ hoặc dễ có điều xung khắc. Nhưng đây lại là mẫu người có phẩm chất cao quý, trong phát triển sự nghiệp dễ có khuynh hướng trở thành người có quyền thế, được hưởng phúc lộc. Vận hạn dễ xảy ra vào các năm 18, 26, 31, 46 tuổi, thọ 72 tuổi, vì vậy vào các năm này cổ nhân thường tạo phúc bằng cách làm điều lành để, từ thiện để tránh hạn.

Nếu là nữ giới sinh vào giờ này thì vợ chồng dễ vì tính cách hoặc công việc, gia đình mà phải ở cách xa hai nơi. Tính cách người chồng dễ có xu hướng luôn coi mình là số 1 và vượt trội hơn mọi người, tình cảm lúc nồng ấm lúc lại lạnh lùng, không muốn bỏ ra mà chỉ muốn nhận về phía mình. Vì vậy, sau khi kết hôn, người phụ nữ sinh vào giờ Sửu dễ trở thành người mẹ phải lo nghĩ nhiều. Bởi luôn phải tìm cách làm hài lòng nửa còn lại vô lo vô nghĩ của mình.

Nếu sinh vào lúc 1h00-1h40, tức đầu giờ Sửu thì được giờ không bị xung khắc, cả đời phúc lộc có dư, con cái vinh hiển thành đạt, cuối đời rất tốt.

Sinh vào lúc 1h40-2h20, tức giữa giờ Sửu, là người có tính cách chính trực, không nghĩ và làm điều ác bao giờ, có vợ là người thành đạt. Quan hệ với cha mẹ, anh chị em vô cùng hòa hợp, là người có mệnh đại phát lúc cuối đời.

Sinh vào lúc 2h20-3h, cuối giờ Sửu, là người có tính cách lương thiện, có mệnh hung trước tốt sau, khắc mẹ nên phải tự mình phấn đấu để thành công, dễ phải đi xa nhà lập nghiệp.

Sinh giờ Dần Về tổng thể, người sinh vào giờ này có mệnh phải ly hương đi xa nhà để lập nghiệp thì mới tốt, mới dễ thành công. Trong mối quan hệ với cha mẹ, anh chị em và vợ có sự xa cách nhất định. Thủa nhỏ có vận mệnh không được thuận lợi, tới khi trung niên mới dần tốt hơn và cuối đời được hưởng tài lộc. Vận hạn dễ xảy ra ở 26, 29, 33, 39, 49, 66 tuổi, chủ yếu có liên quan đến vấn đề về khí huyết, nhưng lại có thể thọ tới 96 tuổi.

Nữ giới sinh vào giờ Dần dễ có được người chồng biết quan tâm chăm sóc, mọi chuyện đều nghe theo sự sắp đặt của mình. Tuy nhiên, nếu người sinh giờ này có tính cách quá gay gắt thì dễ khiến nửa còn lại nảy sinh những suy nghĩ khác, lâu dần suy nghĩ oán giận cũng xuất hiện, chỉ có điều vì e ngại sự gay gắt đó mà không muốn nói ra. Thực chất có thể đằng sau đó lại là một con người hoàn toàn khác mà người sinh vào giờ Dần không nhận ra hoặc không muốn nhận ra.

Sinh vào lúc 3h00 – 3h40 là người có mệnh khắc cha, tài lộc dư dả, trí tuệ phát triển thông minh, đạt được thành công nhờ sự tự lập vươn lên của bản thân. Tính cách có xu hướng không ổn định, tính hiếu thắng mạnh và thích nhàn nhã, cuối đời được coi là người có phúc.

Sinh vào lúc 3h40 – 4h20, nếu không có xung khắc thì cha mẹ đều khỏe mạnh tới già, phúc lộc tiền bạc có dư. Tự mình lập thành sự nghiệp lớn, được vinh hoa phú quý, cuối đời cuộc sống thanh tịnh vui thú điền viên.

Sinh vào lúc 4h20-5h00 được là người khắc mẹ, cũng tự mình lập nghiệp, mọi người trong gia đình ít được nhờ, có xu hướng sùng đạo, thích đi tu. Cuộc sống tâm lý tương đối vất vả, vợ con không gần gũi, lại dễ có bệnh tật nhưng nhờ vậy mà kéo dài tuổi thọ.

Sinh giờ Mão Về tổng thể, người sinh vào giờ này nhận được sự giúp đỡ từ cha mẹ, anh chị em tương đối có hạn nên ít đạt được thành tựu lớn. Vận mệnh thời thiếu niên và trung niên tương đối kém, làm việc thường thấy có tình trạng tiến thoái lưỡng nan, khó thành công, khó giữ được sự nghiệp mà ông cha để lại. Phải đến cuối đời mới thấy bắt đầu bình ổn. Vận hạn thường xuất hiện vào lúc 18, 26 tuổi, nhưng có thể thọ tới 90 tuổi.

Nữ giới sinh vào giờ này dễ gặp được người chồng có địa vị trong xã hội, tài sản và phúc lộc không ngừng tăng lên. Nhưng nếu không biết cách giữ gìn thì tình cảm vợ chồng dễ có xu hướng càng ngày càng nhạt. Vì vậy người phụ nữ sinh vào giờ này đối với gia đình thì điều quan trọng nhất là biết nhẫn nhịn.

Sinh vào lúc 5h00 – 5h40 được coi là người có mệnh khắc mẹ, nhưng hưởng nhiều tài lộc, giúp sự nghiệp gia đình hưng thịnh. Tuy nhiên nên cải thiện tính tình và cách làm việc có đầu mà không có cuối mới khỏi tránh tình trạng được trước mất sau.

Sinh vào lúc 5h40 – 6h20, là người có mệnh không bị khắc phá, suốt đời tự tại, tài lộc không cầu mà cũng tự đến, thường lập nghiệp đi lên theo nghề võ bị.

Sinh vào lúc 6h20 – 7h, là người có mệnh khắc cha, sự nghiệp có thành có bại, tài lộc quan trường lúc cuối đời chỉ ở mức bình thường. Dù sự nghiệp gia đình trước đó có phát triển cũng khó có thể tiếp quản đi theo mà có thiên hướng tự mình phát triển theo hướng riêng.

Sinh giờ Thìn Người sinh vào giờ này dễ có cha mẹ, anh chị em là người thành đạt. Bản thân lại có tư chất thông minh lanh lợi nên hiển đạt từ sớm nhưng lại dễ gặp hao tổn vào lúc trung niên. Cuối đời gây dựng lại được và có thể an hưởng tuổi già. Vận hạn dễ xảy ra vào 19, 27, 36, 39 tuổi, thọ 75 tuổi.

Đối với nữ giới sinh giờ này thì chồng là người an phận thủ thường, ổn định mà tiến. Anh ta thường tập trung vào việc xây dựng tổ ấm hạnh phúc của hai người. Có thể nói đây là người đàn ông mẫu mực, thương yêu gia đình. Có được điều này cũng là do người phụ nữ sinh giờ Thân thường là người có tính cách coi trọng truyền thống.

Sinh vào lúc 7h00-7h40, là người có mệnh khắc cha, nếu là con trưởng thì anh em dễ xa cách. May mắn là người tư chất thông minh, hiền lành nên hạn lớn thành nhỏ. Tiền tài ở mức bình thường, đường con cái hơi muộn.

Sinh vào lúc 7h40-8h20, có mệnh khắc mẹ, tài lộc ở mức bình thường, tính cách công bằng cương trực, nhưng lại nóng nảy hấp tấp.

Sinh vào lúc 8h20-9h00, mệnh không bị khắc phá nên có tính công bằng, tài lộc ổn định, vui vẻ hòa đồng ưa hoạt động như cá rô nhảy lúc trời mưa, đường đời sáng lạn.

Sinh giờ Tỵ Là những người thiên bẩm thông minh lanh lợi, vì vậy ngay từ sớm đã gặt hái được nhiều thành công dù tương đối vất vả. Có thể tự mình gây dựng cơ nghiệp, nhưng duyên với anh em lại tương đối mỏng do mệnh khắc người thân. Vận hạn dễ xảy ra vào 30, 36, 49 tuổi, nếu qua thì thọ 74 tuổi.

Nữ giới sinh giờ này thì bạn đời thường là người có bản lĩnh, quan hệ rộng rãi, luôn luôn vươn lên để đạt ngôi vị cao nhất trong lĩnh vực mà mình theo đuổi. Tuy nhiên, cũng vì vậy mà ít có thời gian chăm sóc gia đình. Hầu như gánh nặng đều phó mặc cho vợ, do đó khó khăn lớn nhất của người phụ nữ sinh giờ Tỵ là phải biết cách làm thế nào khéo léo kìm cương con ngựa bất kham về với gia đình.

Sinh vào lúc 9h00-9h40, người có mệnh khắc mẹ, cuộc sống thời trẻ thường được hưởng phú quý, ruộng đất đều có và quyền hành trong tay.

Sinh vào lúc 9h40-10h20, có mệnh khắc cha, tính cách hay nói cười, có chí khí hơn người, thích quan tâm đến chuyện của người khác.

Sinh vào lúc 10h20-11h00, mệnh không bị khắc phá, hòa thuận với người trong nhà, tính cách nhanh nhẹn, dễ gần gũi vui vẻ và cao quý.

Sinh giờ Ngọ Người sinh giờ này được cổ nhân ví như gió xuân ấm áp nên tính cách hòa nhã dễ gần, vui vẻ và nhiệt tình. Có thể tự mình chọn con đường riêng, không theo nghề của gia đình, vận mệnh niên thiếu và trung niên rất cát lợi, nhàn nhã, được an hưởng phúc lộc về già, nên làm nhiều việc thiện để tạo thêm phúc. Vận hạn xảy ra vào 30, 32, 36, 49, thường là về bệnh tật, thọ 78 tuổi.

Nữ giới sinh giờ Ngọ có đào hoa thịnh vượng nên dù đã có gia đình vẫn nhiều người để ý tới, điều này dễ khiến nửa còn lại không yên tâm. Vì vậy, cần đề phòng tác động của ngoại cảnh gây bất hòa trong quan hệ vợ chồng. Nếu biết khéo léo tạo niềm tin cho nửa còn lại thì hạnh phúc sẽ càng thêm mỹ mãn.

Sinh vào lúc 11h00-11h40, mệnh không không bị khắc phá nên được hưởng trọn phú quý, thông hiểu cả văn lẫn võ, tính cách khảng khái, trí tuệ hơn người. Là người ít viện đến sự giúp đỡ của người thân, lập nghiệp, thành thân nơi xa thì tốt.

Sinh vào lúc 11h40-12h20, mệnh khắc cha, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, thành bại khó đoán nhưng trước khổ sau sướng, được hưởng phúc lộc về sau.

Sinh vào lúc 12h20-13h00, mệnh khắc mẹ, cuộc sống tương đối khó khăn, không theo nghề cha mẹ, kết hôn tương đối muộn.

Sinh giờ Mùi Cổ nhân cho rằng, người sinh giờ này thì cha mẹ khắc nhau, có tình mà không có duyên hoặc có duyên mà không tình. Thành thân lúc bần hàn, sau có tiền bạc nhưng đến trung niên lại gặp nhiều rủi ro, cuối đời tài lộc mới dư thừa. Vận hạn thường xảy ra vào 19, 29 và 56 tuổi, thọ 73 tuổi.

Nữ giới sinh giờ này thì tính cách hai vợ chồng dễ có chiều hướng cực đoan, giống như chia hai đầu nam bắc. Lấy chồng dễ là người nóng nảy, đôi khi khiến người vợ phải đau đầu vì đây là mẫu người không chấp nhận thỏa hiệp khi mâu thuẫn xảy ra. Vì vậy, điều quan trọng nhất của người phụ nữ sinh giờ này là phải biết mềm mỏng, nhẫn nhịn, tìm cách hạ nhiệt mỗi khi mâu thuẫn xảy ra mới có thể giữ được hôn nhân trọn vẹn.

Sinh vào lúc 13h00-13h40, mệnh không bị khắc phá, đào hoa thịnh vượng, làm việc trước khó sau dễ, thiếu thời mệnh khổ, sau này mới được an nhàn.

Sinh lúc 13h40-14h20, mệnh khắc cha, trước xấu sau tốt, làm việc chu toàn, dễ thành công, có danh vọng và phú quý.

Sinh lúc 14h20-15h00, mệnh khắc mẹ, được hưởng tài lộc khắp nơi, nhưng ít được người khác giúp đỡ dù tính cách lương thiện. Tình cảm vui buồn dao động không ổn định.

Sinh giờ Thân Có mệnh phải đi xa nhà, lục thân dễ có người bị tật. Lúc đầu cuộc sống không được thuận lợi. Vợ chồng được sống với nhau đến già, nếu biết hướng thiện thì sinh phú quý, về sau lại rất tốt. Vận hạn thường xảy ra vào 19, 22, 26, 38, 49, nếu qua thì thọ 77 tuổi.

Cổ nhân cho rằng, nữ giới sinh giờ này thì người chồng được coi là phần còn lại của tấm ảnh bị thiếu một nửa từ kiếp trước, đến nay họ phải sống cùng nhau mới đem lại kết quả trọn vẹn. Vì vậy họ rất hợp nhau về mọi mặt và tạo ra sự hấp dẫn với người còn lại, càng sống với nhau lâu càng thêm gắn bó, có thể chịu đựng được tất cả mọi thách thức. Càng về sau họ sẽ cảm nhận nửa còn lại giống như tấm gương phản chiếu của bản thân.

Sinh vào lúc 15h00-15h40, mệnh không bị khắc phá, tính cách thông minh, gặp nạn được cứu khiến việc lớn hóa nhỏ. Cuộc sống ổn định, con cái lập nghiệp lớn, điền sản nhà đất nhiều.

Sinh vào lúc 15h40-16h20, mệnh khắc cha, không hòa hợp với người thân. Dễ gặp điều thị phi tai tiếng. Lúc nhỏ thiếu thốn, sau tự thân tạo dựng cơ nghiệp, phúc lộc dư thừa.

Sinh lúc 16h20-17h, mệnh khắc mẹ, anh chị em dễ gặp vấn đề về hôn nhân. Là mệnh khi gặp nguy đều được hóa giải.

Sinh giờ Dậu Gia đình có nhiều phúc đức, tính cách đôn hậu nhưng quan hệ người thân gặp nhiều thay đổi khiến bản thân luôn gặp điều khó xử. Lúc đầu vận mệnh không ổn định, trung niên và về sau lại tốt. Vận hạn thường vào 22, 28, 38, 49, thọ 77 tuổi.

Nữ giới sinh giờ này thì nửa còn lại dễ là người sống dễ dãi, ỉ lại không hiểu và chăm lo vợ khiến quan hệ dễ bất hòa. Vì vậy, nên khéo léo định hướng để người chồng đi theo con đường đúng đắn. Tránh đôi co khi mâu thuẫn nảy sinh.

Sinh lúc 17h-17h40, mệnh không khắc phá nên y thực không lo, tính cách khéo léo thông minh, nối theo tổ nghiệp. Nếu là nam thì như rồng hổ, văn võ đều thông. Nếu là nữ thì khéo léo lanh lợi, cuối đời mọi sự như ý.

Sinh lúc 17h40-18h20, mệnh khắc cha, dễ có chuyện không hòa hợp với người thân, có vẻ nhàn nhã nhưng lại hay suy nghĩ.

Sinh lúc 18h20-19h, mệnh khắc mẹ, tính tình vội vã nóng nảy, cuộc sống vất vả, sự nghiệp có thành có bại, cuối đời dễ gặp cô đơn.

Sinh giờ Tuất Là nam thì tuấn tú, nữ xinh đẹp, thông minh hơn người, suốt đời hưởng phúc, sinh được 2 con. Nhưng vận thế dao động không ổn định. Dễ được hưởng sản nghiệp từ cha mẹ hoặc dòng họ. Vận hạn thường xảy ra vào 16, 29, 36 tuổi, thọ 80 tuổi.

Nữ giới sinh giờ này thì tình cảm vợ chồng có thể không được tạo dựng trên cơ sở xuất phát từ tình yêu, nhưng khi đã gặp nhau thì lại khó có gì có thể chia cắt được.

Sinh lúc 19h00-19h40, mệnh khắc cha, ít được sự giúp đỡ từ anh chị em, tính cách lương thiện mà được quý, sau này hưởng phúc, là người hiếu đễ trung tín.

Sinh lúc 19h40-20h20, mệnh khắc mẹ, không được sự giúp đỡ từ người thân, dễ được làm việc trong cơ quan công quyền. Gặp chuyện có thể hóa hung thành cát, tính ham vui, không làm hại người khác nhưng trong lòng hay có chuyện buồn, ruột rối như tơ vò. Cuối đời mới hưởng phúc trọn vẹn.

Sinh lúc 20h20-21h00, mệnh không bị khắc phá, đối nhân xử thế khéo léo, thông minh, tinh thông nhiều nghề, tính tình lương thiện, thanh cao.

Sinh giờ Hợi Là người nhanh nhẹn, nói thẳng, cuộc sống tương đối vất vả, cũng dễ gặp điều thị phi. Lúc đầu khó theo nghề của cha mẹ, về sau mới được cát lợi, rất tốt đẹp. Tính cách kiên cường, nhiệt tình, tay nghề khéo léo. Nữ giới thì mạnh bạo, dễ nổi nóng, rất chăm chỉ. Vận hạn dễ vào lúc 1, 2, 26, 36, 39, 49, 56 tuổi, thọ 78 tuổi.

Nữ giới sinh giờ này thì vợ chồng dễ gặp nhiều mâu thuẫn, luôn trong tình trạng phân tranh giữa yêu và giận. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì cả hai đều biết rõ, nhưng chỉ có thể giải quyết bằng cách đối thoại trên tinh thần xây dựng, gạt bỏ lòng tự cao cá nhân.

Sinh lúc 21h00-21h40, mệnh khắc mẹ, tính khoan dung rộng rãi nhưng không gần người thân, lúc nhỏ vất vả sau mới đầy đủ.

Sinh lúc 21h40-22h20, mệnh không bị khắc phá, thông minh nhưng tính nóng, cuối đời ản hưởng phúc phần.

Sinh lúc 22h20-23h00, mệnh khắc cha, tính lương thiện nhưng hấp tấp, khó gần với người thân, lúc đầu vất vả, vợ chồng hay mâu thuẫn.

Trên đây chỉ là những kinh nghiệm được cổ nhân truyền lại nên chỉ mang tính chất giúp bạn đọc tham khảo và hiểu thêm về quan niệm cổ nhân giải mã vận mệnh đời người ra sao. Ngày nay, môi trường sống, môi trường giáo dục và rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mỗi con người đã hoàn toàn khác xưa nên những quan niệm này có thể đã không còn phù hợp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm nghiệm vận mệnh đời người theo giờ sinh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd