Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng khách –

Phòng khách thường là khu vực có không gian rộng nhất trong mỗi ngôi nhà, là nơi diễn ra nhiều hoạt động sinh hoạt thường ngày của con người. Nó hội tụ đủ các chức năng vui chơi, nghỉ ngơi hay tiếp khách, đồng thời cũng là một phòng trung gian nối l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phongkhanh

iền với các phòng khác như phòng ăn, phòng bếp, phòng vệ sinh, phòng ngủ, phòng đọc sách hay ban công. Khi thiết kế và bài trí trên khu vực này cần chú ý sao cho không để hoạt động diễn ra ở phòng này làm ảnh hưởng đến hoạt động diễn ra ở phòng khác. Phòng khách là nơi thể hiện rõ nhất cá tính, phong cách trang trí, đắng cấp, trình độ văn hóa, cũng như quá trình tu dưỡng đạo đức và chí hướng của mỗi ngưòi.

Trong mỗi một ngôi nhà, phòng khách luôn đóng vai trò chủ thể, vì thế, cần đặc biệt chú ý đến thiết kế tổng thể cũng như vị trí sắp xếp các vật trong phòng. Dưới đây là vài gợi ý để bạn tham khảo:

  • Đủ ánh sáng, không được quá tối;
  • Cửa chính không được thông với bếp hoặc nhà vệ sinh;
  • Tránh để khách khi mối bước vào cửa hoặc ngồi trong phòng khách có thể nhìn thông sang phòng bếp với một chiếc bệ lò đập ngay vào mắt. Nếu kết cấu nhà bạn vốn đã như vậy thì cách tốt nhất là thay đổi vị trí bệ lò hoặc đặt một chiếc tủ cao hay một bức bình phong phía ngoài cửa bếp để che khuất tầm nhìn hướng vào trong;
  • Tránh để từ phòng khách nhìn ra thấy được cửa vào các phòng khác. Vì như vậy ngoài việc cuộc sống riêng tư của các thành viên trong gia đình bị ảnh hưởng, còn gây cho người khác cảm giác không tự nhiên thoải mái;
  • Thảm lót sàn nhà phải phẳng phiu, không xô lệch;
  • Không đặt gương ở các góc nhà;
  • Bể cá cảnh không nên quá to;
  • Không treo tranh ảnh có nội dung không lành mạnh, không treo ảnh thú dữ tùy tiện;
  • Không trang trí hoa cỏ giả, không nhồi nhét trong phòng quá nhiều đồ cổ, đồ dùng thông thường hoặc những thứ không cần thiết khác;
  • Chú ý đến “tài vị”của phòng khách. Phòng khách là nơi tụ tập của cả gia đình, cũng là nơi tiếp đón khách khứa. Phòng khách còn là trung tâm sinh hoạt, là một không gian chung của cả nhà. Vì thế, phong thủy phòng khách có liên hệ mật thiết đến vận mệnh của mọi thành viên trong gia đình.

Nếu phòng sinh hoạt hoặc phòng khách đặt ở vị trí chính giữa thì đây xem như một điềm lành, có thể đem lại vận may cho cả gia đình.

Trong phòng khách có một vị trí rất đặc biệt, vị trí ấy có liên quan đến sự thịnh suy về tài vận, sự nghiệp và danh vọng của cả gia đình. Nó được gọi bằng một cái tên cũng khá đặc biệt, đó là “tài vị”. “Tài” không thể động, vì thể “tài vị” thường nằm ở hướng không thay đổi, thông thường chính là chỗ góc đốì diện với cửa ra vào. Nếu “tài vị” nằm ngay ở chỗ có cửa sổ thì có thể xử lí bằng cách chắn cửa sổ bằng một tấm gỗ ván ép, như vậy “tài vị” mới không bị lộ ra ngoài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng khách –

Những loại tranh không nên treo trong phòng ngủ

Tranh thú dữ là một trong những loại tranh không nên treo trong phòng ngủ vợ chồng, nhất định phải biết để không phạm phong thủy
Những loại tranh không nên treo trong phòng ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tranh trong phòng ngủ phản ánh cá tính, sở thích và mong muốn của chủ nhân nhưng vẫn phải tuân theo nguyên tắc phong thủy. Cần đáp ứng được mục tiêu chính của phòng ngủ là: nghỉ ngơi, lãng mạn và thư giãn. Những loại tranh không nên treo trong phòng ngủ dưới đây, bạn cần hết sức lưu ý: 

Tranh ảnh trong phòng trẻ em


- Tránh treo con vật ác và nhân vật dữ tợn.

- Nên treo những bức tranh có hình ảnh tươi sáng, hạnh phúc.

Tranh về ngựa rất thích hợp treo phòng bé trai

- Treo những hình ảnh có nội dung về học tập như quả địa cầu, sách hoặc các kinh nghiệm học tập...

- Không treo các bức ảnh về nước, sông hồ, đại dương.

- Tránh các bức tranh về chủ đề tôn giáo như là cây thánh giá hoặc các nhân vật tôn giáo.

- Chọn hình ảnh những con vật mang ý nghĩa tích cực như ngựa (rất tốt cho phòng bé trai). Ngựa mang hàm nghĩa hạnh phúc, không sợ hãi. Rùa cũng là con vật có ích. Tránh các con vật như ếch hoặc cóc.

- Treo tranh bố mẹ trong phòng con cái để chúng biết cách đối xử hơn và kính trọng cha mẹ hơn.

- Mây là hình ảnh rất phổ biến trong phòng ngủ của trẻ. Nếu là mây trên trần nhà hãy đảm bảo phía đầu trẻ không có mây bao phủ. Bởi vì hình ảnh đó có thể tạo ra khó khăn cho chúng. Đối với phòng người lớn cũng như vậy.

Tranh ảnh trong phòng ngủ của người lớn


- Đối với phòng ngủ của vợ chồng, hãy treo những bức tranh có đôi có cặp (ngỗng, vịt, ghế, bình…) nhằm tạo sự gắn kết.

- Tránh những bức tranh về thiên đàng, các vị thần, các nhân vật tôn giáo…

Không treo ảnh trẻ con trong phòng ngủ

- Tránh những bức tranh về các vật thể đơn lẻ mang hàm nghĩa đơn độc.

- Tránh tranh về hoa và cây cối, trừ trường hợp trong nhà có người bị ốm. Cây cối hoặc tranh về cây, hoa sẽ khiến các cặp đôi hay tranh cãi.

- Hãy treo những bức tranh về tình yêu như vợ chồng ôm nhau, tranh sexy hoặc tình cảm.

- Không treo ảnh trẻ con trong phòng ngủ. Bạn đã có thời từng là trẻ nhỏ rồi. Bây giờ, bạn cần không gian riêng cho bạn và người ấy.

- Nếu ở một mình, hãy treo những bức tranh về người mà bạn đang kiếm tìm. Ví dụ, phụ nữ ở một mình nên treo tranh có những người đàn ông.

- Để tạo cơ hội cho chính mình, hãy treo tranh về 1 cánh đồng rộng mở ở bức tường đối diện với giường. Điều này hàm nghĩa cuộc sống của bạn sẽ rộng mở và mọi trở ngại sẽ được gỡ bỏ.

Lưu ý về tranh treo đầu giường:

- Tránh tranh ảnh trừu tượng. Khi treo sẽ giống như là có 1 người đang cưỡi trên đầu bạn, ám chỉ việc tinh thần sa sút, tài vận cũng dễ bị kẻ xấu lấy đi hết.

- Tránh treo tranh sơn thủy. Núi rất nặng nề sẽ gây áp lực lớn về tinh thần đối với người nằm trên giường, khiến họ không thể ngủ ngon. Nước thì lại hình thành nên "thủy lâm đầu sát",  mang lại bệnh tật và vận rủi ro cho chủ nhân.

- Tránh treo tranh ảnh về các loại chim muông, thú dữ vì chúng sẽ khiến bạn luôn cảm thấy lo lắng, sợ sệt, ảnh hưởng tới chất lượng giấc ngủ. Hơn nữa, điều này cũng có thể mang lại cảm giác chim muông thú dữ đang mổ (ngoạm) đầu người. Từ đó sẽ xuất hiện các triệu chứng như đau đầu, mất ngủ, tinh thần mệt mỏi, ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, tài vận của bạn.

- Chỉ nên treo 1 bức tranh ở đây. Nếu treo nhiều tranh sẽ ảnh hưởng tới tâm tư của người sống trong phòng.

- Tránh treo ảnh chân dung của người thân ở đầu giường, vì như vậy sẽ làm tăng áp lực cho chủ nhân khi làm bất cứ việc gì.

(Theo Rol.vn)

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại tranh không nên treo trong phòng ngủ

Tướng ngón chân nói lên điều gì ở bạn? –

Ở những bài trước chúng tôi có cập nhật các bài viết về xem tướng khuôn mặt, xem tướng cổ ... Hôm nay chúng tôi tiếp tục cập nhật bài viết về xem tướng ngón chân. Có nhiều bạn thắc mắc xem tướng chân có ý nghĩa gì?. Tướng chân nói lên điều gì ở bạn?
Tướng ngón chân nói lên điều gì ở bạn? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng ngón chân nói lên điều gì ở bạn? –

Những điều cấm kỵ về phong thủy của sân vườn

Sân vườn phải có sự hiện diện của hoa và cây nhưng tránh trồng quá nhiều và hỗn tạp, nếu không sẽ làm tăng âm khí. Tránh bài trí, trang hoàng sân vườn quá lộng
Những điều cấm kỵ về phong thủy của sân vườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sân vườn sạch sẽ tạo phong thủy tốt

Sân vườn phải có sự hiện diện của hoa và cây nhưng tránh trồng quá nhiều và hỗn tạp, nếu không sẽ làm tăng âm khí. Tránh bài trí, trang hoàng sân vườn quá lộng lẫy.

Nên giữ cho sân vườn luôn sạch sẽ. Không đổ rác hoặc đặt các đồ vật bốc mùi trong sân, vì như vậy xét về mặt phong thủy có thể sẽ làm cho cuộc sống gia đình bị đảo lộn.

Hệ thống nước trong sân vườn phải chảy thường xuyên; mặt sân không được ẩm mốc và tránh rêu xanh.

Ở vị trí phía trái trong sân vườn, tránh trồng cây to hay dựng giàn hoa trong sân. Ở chính giữa sân không nên đặt hòn đá to.

Ở phía bên phải sân không nên đặt những hòn đá to và xây bể cá cảnh hay bể nước, tránh dựng hòn giả sơn và không được xây dựng hầm để xe...

Cổng của sân vườn không được đặt đối diện với cây cổ thụ, vì như vậy âm khí quá nặng.

Bên ngoài cổng sân vườn tránh đối diện với phòng vệ sinh hoặc đối diện với lỗ thoát của máy hút mùi trong bếp nhà hàng xóm.

(Theo Cấm kỵ phong thủy trong bài trí nhà ở hiện đại)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kỵ về phong thủy của sân vườn

Các sao cản trở khoa bảng

Triệt: sao này có hiệu lực chế khắc rất mạnh, cụ thể như làm cho khoa bảng bất thành, không cao, chật vật, thi rớt, đậu thấp hay đậu vớt.
Các sao cản trở khoa bảng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuần: cũng có hiệu lực khắc chế khá mạnh nhưng kém hơn sao Triệt. Văn tinh mà gặp Tuần đồng cung báo hiệu sự thi rớt, thi khó, thi nhiều keo ...

Tuy nhiên, nếu cung hạn vô chính diệu gặp Tuần, Triệt thì lại tốt.

Hóa Kỵ: báo hiệu việc thi rớt, thi khó, khoa bảng lận đận, dở dang. Hóa Kỵ chỉ sự nông nổi hay thay đổi chí hướng, sự bất mãn vì thất bại. Hiệu lực của Hóa Kỵ khá mạnh vì có thể làm lu mờ cả Khôi, Việt, Xương, Khúc, Hóa Khoa. Người có Khôi Việt gặp Kỵ thì chỉ là kẻ ẩn dật, bất đắc chí. Hóa Kỵ chỉ tốt khi gặp Thanh Long đồng cung mà thôi.

Kình Dương, Đà La hãm: đều chỉ sự cản trở, sự gian nan, sự chậm lụt trong khoa trường. Nếu Kình Dương miếu địa, đối với hai tuổi ất, Tân thì lại là người có tài văn chương từ đó có nghĩa thi đỗ.

Địa Không, Địa Kiếp hãm: Đi với văn tinh thì rất bất lợi: không thể thi được, thi rớt, bị tai họa lúc thi (cóp bài bị đuổi ...)

Thiên Không hãm (ở Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu, Tuất, Hợi): gặp phải khoa tinh, Thiên Không làm cho khoa trường lận đận.

Đại Hao, Tiểu Hao: chủ sự thay đổi, hao tán, ứng dụng vào khoa bảng có thể có nghĩa: thi rớt keo đầu, thi hai ngành trong đó rớt một, có thể tốn tiền về thi cử.

Thiên Khốc, Thiên Hư: chỉ sự lo âu, nước mắt, xui xẻo, do đó có thể báo hiệu việc thi rớt hoặc học mà không chịu thi. Nếu đăc địa ở Tý Ngọ thì có thể đỗ ở kỳ hai vì hai sao này đắc địa lợi về hậu vận hơn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao cản trở khoa bảng

Hiểu đúng về đi chùa đầu năm để tạo nên nét đẹp

Những kiểu biến tướng tại đình chùa, miếu mạo... hay những cảnh chen chúc, giẫm đạp lên nhau để tranh giành thắp nhang, lấy lộc... đang làm cho việc đi lễ chùa đầu năm trở thành điều tai hại. Xung quanh câu chuyện này, chúng tôi đã nhận được những chia sẻ của nhà văn Người Khăn Trắng (tên thật là Huỳnh Thượng Đẳng), người đã có rất nhiều câu chuyện liên quan tới yếu tố tâm linh.
Hiểu đúng về đi chùa đầu năm để tạo nên nét đẹp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi lễ chùa theo phong trào

Đi lễ chùa (gọi chung cho việc người dân đến các chốn tâm linh: Chùa, đình, miếu...) là nét đẹp nhưng nhiều người đang quá mê tín và hiểu sai ý nghĩa của nét văn hóa này, ông có chia sẻ gì?

Đi lễ chùa là nét đẹp, đặc biệt là dịp đầu năm mới, đó cũng là điều tốt, hướng tới điều thiện của nhiều người. Ngoài cầu cho bản thân, gia đình và người thân những điều tốt đẹp, may mắn thì họ còn cầu cho "quốc thái dân an" là điều rất tốt đẹp. Hiện nay, có rất nhiều chùa chiền, đình, miếu mạo... với rất nhiều lễ hội trong năm, và tập trung vào dịp đầu năm mới âm lịch, tuy nhiên, ở nhiều nơi vẫn còn diễn ra cảnh bát nháo, lộn xộn. Nếu không uốn nắn, sắp xếp lại thì rất đáng phải phê phán. Phần cũng do người dân hiểu sai, làm lệch lạc đi hoạt động tín ngưỡng này. Ví như chuyện cầu trúng số, thăng chức, cầu vàng bạc... Bên cạnh đó, không ít nơi các con đường dẫn vào đình, chùa lại có rất nhiều thịt thú rừng treo bán cho người hành hương là hết sức phản cảm, không chấp nhận được.

Hiện nay, nhiều người đi lễ chùa theo phong trào, thực ra thì họ chẳng biết là mình đang vái, lạy ai, cầu điều đó có phù hợp hay không?

Đúng vậy, rất nhiều người hiện nay đến các đình, chùa, miếu... để cầu may mắn đầu năm mới. Khi đến những nơi này họ còn mang theo lễ vật, nhang đèn, hoa trái... để thờ, cúng. Tuy nhiên, rất nhiều người lại không biết mình đang cúng ai, thờ ai và cầu điều đó có phù hợp hay không. Họ chỉ đi vì nghe theo người này, người kia nói chỗ đó "linh lắm", rồi đi theo dạng phong trào. Tôi lấy ví dụ, mỗi năm có hàng triệu người đến miếu Bà Chúa Xứ (An Giang) và núi Bà Đen (Tây Ninh) để cầu may mắn trong dịp đầu năm mới. Thế nhưng có trên 90% người đến đây không biết Bà ở các nơi này là ai.

Nhiều thứ đang bị hiểu sai dẫn đến người dân làm sai, ông có thể nói thêm về chuyện này?

Ở miền Bắc có rất nhiều lễ hội tại các đình, chùa, miếu... và người dân hiểu đúng về các lễ hội ấy. Tuy nhiên, họ lại làm sai. Ví như chen lấn, giẫm đạp lên nhau ở đền Trần để tranh giành ấn. Còn ở miền Nam, nhiều nơi hình như hiểu sai việc thờ cúng và dẫn tới không ít người dân cũng làm sai. Ví dụ như ở Ngày hội tắm bà (rửa tượng) tại miếu Bà Chúa Xứ thì nhiều nhà nghiên cứu, chứ không riêng gì tôi cũng phải lắc đầu chào thua. Bởi, tượng Bà ở đây thực ra là một hình người phụ nữ được đẽo rất tinh xảo và đẹp mắt bằng đá. Tượng Bà là của Ấn Độ giáo (Hindu). Thuở ban đầu tượng này xuất hiện ở lưng chừng núi Sam trong dãy Thất Sơn (Bảy núi – An Giang), thấy pho tượng đẹp, linh thiêng lại xuất hiện nơi nhiều giai thoại như vùng này, một số người đã thỉnh tượng từ núi Sam xuống chân núi.

Từ đó, câu chuyện đó càng về sau càng được thần thoại thêm tạo nên sự linh thiêng bí ẩn về ngôi miếu này. Về nguồn gốc, có tài liệu cho rằng, pho tượng đó là của vương quốc Phù Nam, với nền văn hóa Óc Eo. Bản thân pho tượng này vốn không mặc gì cả, thế nhưng cho tới thời điểm này, pho tượng lại được tô son, điểm phấn rất lòe loẹt. Chưa hết, người ta lại còn khoác lên pho tượng những bộ y phục hết sức lộng lẫy do người "cúng". Hiện nay, bất cứ ai tới miếu Bà Chúa Xứ đều có thể nhìn thấy một pho tượng Bà lộng lẫy như một nhân vật trong một vở tuồng hát, kể cả trang phục.

Chính từ cách hiểu sai như trên nên nhiều người cũng "cúng" sai. Tôi được biết có nhiều người đã bỏ ra rất nhiều tiền, thậm chí tới vài ba cây vàng để may y phục cho Bà như là lễ vật cúng trong Ngày hội tắm Bà. Đến nay, tại miếu Bà Chúa Xứ cũng có tới vài ba cái tủ đựng áo mũ của Bà do người dân khắp nơi may tặng.

Cần hiểu đúng để không thành mê tín

Còn chuyện chùa ông, chùa bà ở TP.HCM thì sao thưa ông?

Có nhiều ngôi chùa mang tên chùa ông, chùa bà đang tọa lạc tại TP.HCM, thế nhưng nhiều người cũng không biết ông, bà ở trong các ngôi chùa ấy là ai, ở đâu tới? Thực ra chùa bà là thờ Thiên Hậu. Bà này có nguồn gốc ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tích về bà vốn là một cô gái dệt vải, có cha và anh là những ngư dân đánh bắt cá trên biển. Một hôm, khi cô đang dệt thì bỗng thấy đầu choáng, mắt mờ dần. Trong cơn choáng đầu ấy, cô nghe thấy tiếng cha kêu cứu và hình dung ra cảnh cha đưa tay lên khỏi mặt nước. Lúc đó, trước khung cửi, vô thức cô đưa tay ra chụp lấy cánh tay ấy, thấy cô con gái cứ nhắm mắt nhưng lại đưa tay chụp trong hư không, bà mẹ thấy lạ mới gọi. Sau mấy tiếng thì cô mới bừng tỉnh và bật ngửa người về phía sau.

Trong lúc đó, người cha chới với, chìm dần xuống biển và chết. Còn anh trai vớ được vào mạn thuyền và sống sót trở về, đồng thời có kể lại câu chuyện cha sắp được cứu khi có bàn tay ai đó nắm kéo lên nhưng lại buông ra. Nếu như người mẹ không kêu thì cô đã cứu được cha của mình. Câu chuyện này được lan truyền nhanh chóng tại Quảng Đông và lan rộng ra cả Trung Quốc. Còn chùa ông, đó là thờ ông Bổn đầu công Trịnh Hòa, người có công tìm đường giao thương buôn bán cho Trung Quốc. Đến thời Mãn Thanh có nhiều người chạy sang Việt Nam và mang theo ông, bà để thờ cúng. Hiện nay, khu vực nào có đông người Hoa sinh sống thường có chùa ông, chùa bà.

Ông có thể kể một câu chuyện mang yếu tố tâm linh làm cho người ta tin nhưng không bị thổi phồng?

Trước đây, vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn chủ yếu bằng đường thủy. Dù đi ngã nào thì muốn lên Sài Gòn và xuôi về miền Tây, các ghe thuyền cũng phải qua ngã ba Cái Bè (Tiền Giang). Tại đây có một chợ nổi rất nổi tiếng còn tồn tại đến ngày nay. Cũng tại khu vực này có một ngôi miếu thờ bà Thiên Y A Na và được cho là rất linh thiêng. Thời trước, mỗi khi mùa nước nổi (lũ lụt) tại ngã ba này thường xuyên xảy ra nạn chìm ghe thuyền vì sóng to, làm chết rất nhiều người. Một hôm có một chiếc ghe chở nhiều người qua đây cũng bị sóng to đánh chìm. Cả đoàn người trên thuyền tưởng đã chịu chung số phận với nhiều người phải bỏ mạng tại đây, thế nhưng khi chiếc thuyền đang chìm thì như có một bàn tay nâng dần lên khỏi mặt nước và được đẩy vào bờ.

Một người phụ nữ trong đoàn người nói trên kể lại rằng, khi thuyền sắp chìm thì có nghe tiếng của ai đó nói rằng, những người trên đoàn thuyền này không ai làm điều ác, nên không phải chết và được cứu. Sau đó, người ta cũng tìm hiểu và được biết, trên chiếc thuyền hôm đó còn có một người miền ngoài (miền Trung) đang đi tìm nơi sinh sống và xuôi xuống vùng này. Ông là người theo đạo và mang theo bên mình một pho tượng Vishnu nên cả đoàn mới được cứu.

Đó là câu chuyện còn được dân thương hồ truyền lại, và cho tới ngày nay, mỗi khi thuyền ghe chạy ngang đoạn sông này họ đều ghé vào đốt nhang cầu may mắn. Tuy nhiên, nhà chức trách địa phương và những người qua lại nơi đây đã không thần thánh quá lố câu chuyện này để nhiều người lạm dụng nó.

Nguồn: Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiểu đúng về đi chùa đầu năm để tạo nên nét đẹp

Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái

Bát tự mang đào hoa là số của người được kẻ khác hâm mộ, nhân duyên tốt đẹp, hôn nhân như ý.
Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự mang đào hoa là số của người được kẻ khác hâm mộ, nhân duyên tốt đẹp, hôn nhân như ý. 


Bat tu mang dao hoa - ca doi hap dan nguoi khac phai hinh anh
 
Người có mệnh số đào hoa thì dung nhan xinh đẹp, anh tuấn, gặp gỡ nhiều lương duyên, tình cảm thuận lợi, hôn nhân tốt đẹp. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của mệnh này, là có thể phát tác thành háo sắc, không chung thủy, đa tình lẳng lơ, đời sống tình ái phức tạp.
 
Mệnh số ấy được quyết định bởi bát tự mang đào hoa. Sinh ra có phải người ngậm hoa đào trong miệng hay không, xem ngày sinh, tháng sinh, năm sinh là biết ngay.
 
Nếu năm sinh hoặc ngày sinh ở Dần – Ngọ - Tuất mà Mão tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Nếu năm sinh hoặc ngày sinh ở Thân – Tý – Thìn mà Dậu tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Nếu năm sinh hoặc ngày sinh ở Hợi – Mão mà Tý tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Nấy năm sinh hoặc ngày sinh ở Tỵ - Dậu mà Ngọ tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Người có số đào hoa, thông thường, dễ dàng hấp dẫn người khác phái, có thể khiến đối phương cảm thấy hứng thú với mình dù chỉ gặp gỡ đôi lần. Nhưng cần chú ý, bởi hoa tâm nhiều dễ sinh ra dục vọng, đời sống tình cảm gặp nhiều rắc rối, phải chú ý giữ mình, không nên quá sa đà. 
 
Người mà dung mạo bình thường nhưng số đào hoa thì có nét duyên ngầm. Chú ý thói phong lưu, sử dụng sức hấp dẫn để lừa dối người khác phái, không thật thà trong tình cảm. 
 
Bên cạnh vấn đề tình cảm, người có bát tự mang đào hoa còn là người có năng khiếu nghệ thuật, đa tài đa nghệ. Nếu biết tận dụng thì đào hoa không chỉ mang đến cho chủ nhân mối lương duyên tốt đẹp, hôn nhân hạnh phúc mà còn phú cho tài năng phát triển thành sự nghiệp, có thành tựu.
Trần Hồng (d1xz)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái

Nằm mơ thấy phụ nữ khỏa thân có ý nghĩa gì? –

Nhiều người khi gặp phải giấc mộng này đều khá e dè và sợ hãi không dám hé miệng nửa lời. Nhưng họ không biết, việc nằm mơ thấy phụ nữ khỏa thân có ý nghĩa gì? Bạn đã bao giờ có giấc mộng kỳ quặc này chưa? Nếu có thì bạn hãy cùng chúng tôi giải mã gi
Nằm mơ thấy phụ nữ khỏa thân có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy phụ nữ khỏa thân có ý nghĩa gì? –

Phân loại các hiện tượng cận tâm lý

Khảnăng của con người quá bất tận! Các hiện tượng dị thường, diệu kỳ như thần giaocách cảm, thuật trị liệu bằng trường sinh học dùng tâm năng di chuyển đồ vật,dò tìm nguồn nước, tiên đóan, thấu thị, hóa giải… Không những trong giới khoahọc không ngờ vực nữa mà còn được khảo cứu nghiêm túc hơn bao giờ. Ngay từ năm1973 phi hành gia vũ trụ Mỹ Edga Mitchell đã đứng ra sáng lập một viện khảo cứuvới gần 1.300 cộng sự tại Polo Alto California, nhằm đào sâu về các hiện tượngtrên, nâng con số cơ sở nghiên cứu tương tự lên tới mức hàng chục ngàn, riêngtại nước Mỹ.
Phân loại các hiện tượng cận tâm lý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giờ đây thậm chí những khoa học gia đa nghi nhất cũng cảm thấy vô lý, nếu bác bỏ một sự thật: ngoài 5 giác quan không ít người còn có biệt tài cảm nhận được ngoại giới bằng nhiều cách khác, chưa thể lý giải theo các hiểu biết mà khoa học hiện đại đã vươn tới được dù nhân lại đã tiến những bước thần kỳ.

Vì vậy phải có một bộ môn khoa học mới để tìm hiểu các hiện tượng dị thường kia, Cận tậm lý học. Chính tất cả những sự kiện đó cho thấy uy tín của Nostradamus vẫn bất di bất dịch qua suốt gần năm thế kỷ! Và hiện thời, trước tác của Nostradamus cùng sách vở viết về ông ở phương Tây chẳng những không giảm mà còn tăng.

Lý giải nguyên do chẳng có gì là khó. Lịch sự nhân loại kể từ đó tới giờ rất ít khi có những năm tháng thanh bình. Con người ta dù sống ở thời nào cũng luôn canh cánh bên lòng mối lo: Những gì đang chờ mình ở tương lai ? Nhất là vào thời buổi này, khi chỉ một “cú bấm nút vô lý” cũng đủ sức hủy diệt toàn nhân loại.

Nhưng tương lai toàn hành tinh chúng ta phải chăng đều đã được Nostradamus tiên đoán đầy đủ và chính xác cách nay hơn 4 thế kỷ. Ngay cả những người sủng mộ ông nhất cũng sẵn lòng hạ một câu trả lời dứt khoát không !

Sẽ rất nông nổi nếu phủ nhận tài tiên đoán dự báo của Nostradamus nhưng ta không thể tin tưởng mù quáng các sấm ngôn của ông. Có lẽ Nostradamus cần được gọi là người đi tiên phong trong ngành tương lại học đầy hứa hẹn hiện là ngành ra đời để đáp ứng nhu cầu đó.

Những thành tựu gặt hái được trong mấy chục năm gần đây cho thấy: các hiện tượng cận tâm lý dù muôn hình muôn vẻ nhưng dầu sao vẫn có thể gộp vào 3 nhóm chính nếu xét từ góc độ trao đổi thông tin và năng lượng.

1-      Tương tác từ xa giữa người này và người kia.

2-      Tương tác giữa con người với giới vô sinh.

3-      Tương tác từ xa giữa con người với các nguồn thông tin của thế giới bên ngoài giới vũ trụ.

Cách phân loại đó của nhà khảo cứu người Mỹ gốc Tiệp ông Zreidack hiện được đông đảo khoa học gia chấp nhận. Dựa vào khung phân loại này, ta có thể tìm hiểu rõ hơn từng nhóm vấn đề cận tâm lý học.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân loại các hiện tượng cận tâm lý

Quẻ Quan Âm: Tô Tiểu Muội Nan Phu

Quẻ Quan Âm thứ 61 dựa trên tích Tô Tiểu Muôi nan phu, là quẻ trung bình, ý quẻ nói nên giữ nguyên tình hình hiện tại mà tùy theo thời thới mới thuận lợi
Quẻ Quan Âm: Tô Tiểu Muội Nan Phu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 61 được xây dựng trên điển cố: Tô Tiểu Muội Nan Phu – hay Tô Tiểu Muội thử chồng.

Quẻ này trung binh, thuộc cung Dần. Đây là tượng quẻ giữ nguyên hiện trạng mà hành động tùy theo thời thế. Những mong cầu nên kiên trì đợi khi thời cơ tốt đẹp mà thực hiện thì sẽ được thuận lợi. Cuộc sống là họa hay phúc, cũng không cần phải băn khoăn, bởi vì tất cả đều được an bài trong số mệnh.

Thử quái thủ cựu tùy thời chi tượng. Phàm sự thời cát lợi dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Tô Tiểu Muội nan phu

Trước đêm tân hôn với Tần Thiếu Du, Tô Tiểu Muội thông minh nhưng tinh quái đã nghĩ ra một chiêu khác người, trong tình huống đã chiếm được cả “địa lợi” và “nhân hòa”, yêu cầu tân lang phải giải được ba bài thơ đố của cô mói được vào động phòng.

Câu đố thứ nhất là:

Đồng thiết đâu hồng dỗ,
Lâu nghị thướng phấn tường;
Âm dương vô nhị nghĩa,
Thiên địa ngõ trung ương.

(Đồng sắt quăng lò lớn,
Ong kiến leo tường vôi;
Âm dương không hai nghĩa,
Trời đất giữa là tôi.)

Câu thứ nhất nói đồng và sắt được ném vào trong chiếc lò lớn để tôi luyện, có ý nghĩa là “hóa” (biến hóa); câu thứ hai nói về con ong con kiến leo lên bức tường vôi trắng, có ý nghĩa là “duyên” (men theo), mà chữ “duyên” này lại đồng âm với chữ “duyên” là duyên số; câu thứ ba, trong âm dương chỉ có một nghĩa, đó chính là “đạo”; câu thứ tư, ở giữa trời và đất chỉ có “nhân” (con người). Bốn câu thơ hợp lại là “hóa duyên đạo nhân”.

Tần Đạo Du đẫ giải được câu đố, bèn đề bút trả lời một bài:

Hóa công hà ý bả xuân thôi,
Duyên đáo danh viên hoa tự khai;
Đạo thị đông phong nguyên hữu chủ,
Nhân nhân bất cảm thướng hoa đài.

(Hóa công sao cứ giục xuân hoài,
Duyên đến vườn xuân hoa nở ngay;
Nói rằng gió đông nay có chủ,
Người người ai dám đến hoa đài).

Hợp các chữ đầu tiên ở mỗi câu lại chính là “hóa duyên đạo nhân”. Tô Tiểu Muội xem xong, trong lòng mừng thầm, lập tức lại ra một bài thơ đố, toàn bài thơ nói đến bốn nhân vật lịch sử, phải chỉ ra được từng đáp án. Câu đố như sau:

Cường gia thắng tố hữu thi vi,
Tạc bích thâu quang dợ độc thư;
Ty lũ phùng tuyến thường ức mẫu,
Lão ông chung nhật ỷ môn lư.

(Hành vi tốt đẹp thắng cha ông,
Đục vách trộm sáng học đêm ròng.
Xâu chỉ vá may thường nhớ mẹ,
Lão ông tựa cửa suốt ngày trông.)

Tần Thiếu Du đã đọc nhiều sách vở, suy nghĩ một thoáng đã đoán ra: Câu thứ nhất “cường gia thắng tổ” (vượt qua tổ tông) là chỉ Tôn Quyền; câu thứ hai “tạc bích thâu quang” (đục tường để trộm ánh sáng) là chỉ Khổng Minh; câu thứ ba “ty lũ phùng tuyến” (đường chỉ vá may) gợi liên tưởng đến câu thơ “từ mẫu thủ trung tuyến, du tử thân thượng y; lâm hành mật mật phùng, ý khủng trì trì quy” (áo trên người du tử, đường may tay mẹ già, con đi mẹ may kỹ, sợ con lâu về nhà), là chỉ Tử Tư; câu thơ thứ tư, ông lão cả ngày tựa cửa, tựa cửa có nghĩa là trông ngóng (chữ Hán là “vọng”), đó chính là Thái Công Vọng.

Tần Thiếu Du thuận lợl vượt qua thử thách. Lúc này đã đến bên ngoài khuê phòng của Tô Tiểu Muội, cha con họ Tô và đông đảo quan khách đều nín thở chờ câu đố cuối cùng, cửa sổ khuê phòng từ từ hé ra một khe hở, bàn tay trắng trẻo nhỏ nhắn của Tô Tiểu Thư đưa ra một tờ giấy, người hầu lập tức đón lấy, đưa cho Tần Thiếu Du, chỉ thấy trên giấy viết rằng:

“Song thủ thôi khai song tiền nguyệt, nguyệt minh tinh hy, kim dợ đoán nhiên bất vũ”.
(Hai tay đấy tung trăng trước cửa, trăng sáng sao thưa, đêm nay chắc chắn không mưa).

Tô Thức ở bên cạnh đọc được, cười thầm, giơ ngón tay chỉ vào chữ “vũ”, Tần Thiếu Du hiểu ra, lập tức đáp rằng:

“Nhất thạch kích phá thủy trung thiên, thiên cao khí sảng, minh triêu nhất định thành sương”.
(Một đá ném vỡ trời trong nước, trời cao khí trong, sáng mai nhất định có sương).

Câu “đêm nay chắc chắn không mưa”, bề ngoài là tiếp nối ý “trăng sáng sao thưa”, nhưng thực tế lại ấn chứa ý nghĩa mây mưa hoan lạc. Chữ “vũ” đồng âm với chữ “ngữ”, còn có ý nghĩa là đêm nay không nói chuyện. Tần Thiếu Du lấy câu “sáng mai nhất định có sương” để đáp lại, chữ “sương” và chữ “song” gần âm với nhau, có ý nghĩa là sau đêm mây mưa, sáng ra nhất định thành đôi.

Tờ giấy của Tần Thiếu Du vừa đưa vào, cửa khuê phòng lập tức mở ra, Tô Tiểu Muội e lệ đứng đón bên cửa. Tần Thiếu Du vui vẻ nhập động phòng, thế là tài tử giai nhân đã đẹp duyên loan phượng.

Xem thêm: chuyện kể về Tô Tiểu Muội và tích đầy đủ của Tô Tiểu Muội thử chồng trong đêm động phòng: Chuyện kể về Tô Tiểu Muội


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Tô Tiểu Muội Nan Phu

Yếu quyết sinh tồn của người xưa

Một bài viết chia sẻ kinh nghiệm về bảo vệ sức khỏe và phòng bệnh của Phan Tử Ngư rất hay. Mời các bạn tham khảo.
Yếu quyết sinh tồn của người xưa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nước luôn chảy thì không bị úng, trục cửa luôn xoay thì không bị gỉ sét. Cho nên chúng ta nên thường xuyên rèn luyện thân thể nhưng không nên vận động quá nặng hoặc quá độ.

2. Không nên đi nhiều, đứng nhiều, ngồi nhiều, nằm nhiều, xem nhiều, nghe nhiều. Bởi vì, xem nhiều sẽ khiến căng mạch máu, nghe nhiều sẽ căng thẳng tinh thần, ngồi nhiều thì khí huyết tổn thương, đứng nhiều xương khớp tê mỏi, nằm nhiều thì thịt da phì ra, đi nhiều thì gân cốt đau nhức.

3. Không nên ăn uống quá độ.

4. Không nên mang vác vật nặng, làm việc quá sức.

5. Không nên thức khuya, đặc biệt là thức khuya đánh bạc sẽ tổn thọ.

6. Không nên ưu tư suy nghĩ hoặc nổi nóng, cáu giận, nếu không sẽ ảnh hưởng đến gan, hơn nữa như thế huyết áp sẽ tăng cao, dễ xuất huyết não, hậu họa khôn lường.

7. Không nên hoảng hốt.

8. Không nên cười to.

9. Không nên vui chơi quá độ.

10. Không nên nói nhiều.

12. Không nên quá kỳ vọng vào những điều bản thân khó đạt được.

13. Có gieo trồng thì mới có thu hoạch, vì thế không làm được thì cũng đừng tham cầu, tiền tài dù 1 xu không phải là của mình thì chớ nên tham tiếc.

14. Không nên giữ mãi lòng hận thù.

15. Giữ vững nguyên tắc "thập nhị thiểu" (12 điều nên hạn chế), "thập nhị thiểu" chính là chỉ:

Thiểu tư, thiểu niệm, thiểu dục, thiểu sự, thiểu ngữ, thiêu tiếu, thiêu sầu, thiểu lạc, thiểu hỷ, thiểu nộ, thiểu hiểu, thiểu ố (ít nhớ, ít nghỉ, ít ham muốn, ít việc, ít cười, ít nói, ít buồn, ít vui, ít mừng, ít giận, ít yêu, ít ghét)

Bởi vì:

Nhớ nhiều thì suy nhược thần kinh, nghĩ nhiều thì phân tâm, ham muốn nhiều thì mê muội, làm nhiều thì kiệt sức, nói nhiều thì thiếu khí, cười nhiều thì tạng thương, buồn nhiều thì tâm hoảng, vui nhiều thì ý quá, mừng nhiều thì chí loạn, giận nhiều thì kinh mạch bất định, yêu nhiều thì mê muội không rõ, ghét nhiều thì tiều tụy khó yên.

Những điều đã trình bày trên đây nhiều người không làm được, khí huyết mất cân bằng, hành vi bừa bãi, để đến nỗi mất mạng.

Nếu chúng ta có thể tu dưỡng đạt đến mức chẳng nhiều chẳng ít, vừa phải hợp lý thì đã gần với đạo rồi vậy!

(Tử vi đẩu số giải đoán hạn bệnh - Phan Tử Ngư)

---

Mình xin chú thích thêm những tìm hiểu của bản thân về Phan Tử Ngư và phái Nhất Diệp Tri Thu:

Ông Phan Tử Ngư này là người thực tài đưa ra khái niệm "trích kim thấy máu" đại để là đoán mệnh phái chính xác luôn. Ông dám đoán mệnh cho các nhân vật đương thời, như thủ tướng, các lãnh đạo đương thời của Đài Loan. Nên trình độ rất kinh khủng.

Phái "Nhất Diệp Tri Thu" của ông Phan Tử Ngư này khá kỳ, họ không coi ông Trần Đoàn là tổ sư sáng lập Tử Vi Đẩu Số mà lại là ông Tôn Tư Mạo - ông Tôn Tư Mạo này là tổ sư của Đông Y, ông đặc biệt rất tinh thông y dược. Chính vì vậy môn đồ của phái này ngoài học về Đẩu Số Mệnh Lý thì còn được học cả Đông Y, đó chính là nét đặc sắc của việc xem Tôn Tư Mạo là tổ sư của Tử Vi Đẩu Số.

Chính vì vậy các chia sẻ về nhân sinh quan, đông y, dưỡng sinh của Phan Tử Ngư rất có giá trị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yếu quyết sinh tồn của người xưa

SAO TRÀNG SINH TRONG TỬ VI

Tràng sinh (Thủy) *** 1. Ý nghĩa tướng mạo: Tràng Sinh cũng như Đế Vượng chỉ sự phong phú nên người có tầm...
SAO TRÀNG SINH TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Tràng sinh (Thủy) 



***

1. Ý nghĩa tướng mạo: Tràng Sinh cũng như Đế Vượng chỉ sự phong phú nên người có tầm vóc, mập mạp, có sức khỏe tốt, có tư chất cơ thể tốt, có triển vọng sống lâu.

2. Ý nghĩa tính tình, phúc thọ:             - độ lượng, nhân từ, quảng đại             - làm tăng thêm phúc thọ, tài lộc, con cái             - có lợi ích cho sự sinh nở (như Long Phượng, Thai)

3. Ý nghĩa của tràng sinh và một số sao khác:
Tràng Sinh, Tử, Phủ: người bao dung, quảng đại, dễ tha thứ, không câu chấp. Nếu có quan chức lớn thì ân đức rộng.
Tràng Sinh, Thiên Mã: được vận hội may về nhiều mặt; công danh tiến đạt, tài lộc gia tăng, công việc thành tựu. Nếu đồng cung thì càng đẹp. Tuy nhiên, riêng ở Hợi, vốn bất lợi cho Mã nên vất vả, trắc trở, không lợi về danh, tài, quan.
Tràng Sinh, Đế Vượngmập mạp, phong túc

4. Ý nghĩa của tràng sinh  ở các cung:
Chỉ trừ phi ở cung Tật gặp nhiều sao xấu thì bệnh tật nhiều và lâu khỏi, ở các cung khác, Tràng Sinh đem lại phúc thọ, tài lộc.
Tại Bào thì anh em đông, sung túc. Tại Tử thì đông con. Tại Tài thì dồi dào tiền bạc. Tại Phúc thì thọ. Tại Hạn thì gặp vận may. Tùy ý nghĩa sao đi kèm, Tràng Sinh làm tăng thêm cái hay của cát tinh hoặc cái dở của sao xấu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO TRÀNG SINH TRONG TỬ VI

Cách tính năm tháng nhuận âm lịch –

Muốn tính năm âm lịch có tháng nhuận hay không, ta lấy năm dương lịch chia cho 19, nếu chia hết hoặc cho các số dư 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm đó sẽ có tháng nhuận. Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung bình có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Muốn tính năm âm lịch có tháng nhuận hay không, ta lấy năm dương lịch chia cho 19,  nếu chia hết hoặc cho các số dư 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm đó sẽ có tháng nhuận.

Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).

cuoi18-377101-1368233872_500x0

Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.

Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.

Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận chỉ việc lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.

Ví dụ:
  • Năm nay Bính Thân 2016 không nhuận vì 2016/19 dư 2 nên không phải năm nhuận.
  • Năm sau Đinh Dậu 2017 là năm nhuận vì 2017/19 dư 3 nên năm sau là năm nhuận.

Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính năm tháng nhuận âm lịch –

6 KHÔNG và 1 NÊN cho phòng khách may mắn

Đầu động vật, hoa khô hay vật sắc nhọn là những đồ mà bạn tuyệt đối không nên đặt trong phòng khách nếu không muốn rước vận xui vào nhà.
6 KHÔNG và 1 NÊN cho phòng khách may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu động vật, hoa khô hay vật sắc nhọn là những đồ mà bạn tuyệt đối không nên đặt trong phòng khách nếu không muốn rước vận xui vào nhà. 
 

1. Không trang trí phòng khách theo kiểu khách sạn, nhà hàng hay câu lạc bộ đêm
 
Một số người thích trang trí phòng khách theo thiết kế như một khách sạn 5 sao, một nhà hàng cao cấp hoặc thậm chí là hộp đêm để thể hiện sự giàu có. Có thể là rất hào nhoáng, song nó lại không thực tế và theo phong thủy thì nó hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả. Bạn sẽ cảm nhận được điều gì đó rất mới mẻ từ nó nhưng sau đó, bạn sẽ cảm thấy một chút thiếu hụt. Những người sống trong ngôi nhà này họ tự quan niệm như mình đang sống trong một khách sạn thay vì một ngôi nhà. Đây chính là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là cặp vợ chồng có thể dẫn đến ly hôn. Vì vậy, phòng khách nên được trang trí theo một cách hợp lý, ấm áp và thiết thực hơn.
 
2. Không để phòng khách bừa bộn

6 KHONG va 1 NEN cho phong khach may man hinh anh
Nên giữ phòng khách gọn gàng và ngăn nắp

Một phòng khách bừa bộn, lộn xộn sẽ luôn làm cho người ta cảm thấy khó chịu, và cũng làm tư duy của gia chủ trở nên chậm hơn. Vì vậy tốt hơn hết là hãy luôn giữ cho phòng khách sạch sẽ và ngăn nắp.
 
3. Không đặt điều hòa ngay phía trên ghế sô-pha

Nếu treo điều hòa ngay phía trên ghế sô pha thì khí lạnh từ điều hoa phả xuống sẽ khiến người ngồi dưới trở nên lạnh nhạt và thờ ơ. Để tránh phạm phải điều này thì nên để điều hòa xa khu vực đặt ghế sô pha.
 
4. Không treo sừng, đầu động vật, da động vật, hoa khô

6 KHONG va 1 NEN cho phong khach may man hinh anh 2
Chớ nên treo sừng, đầu động vật trong phòng khách mà rước xui

Sừng, đầu hay da động vật, hoa khô… có nguồn gốc từ những cá thể đã chết. Nếu đặt những đồ này trong phòng khách thì về lâu dài, gia chủ sẽ có những cảm xúc tiêu cực về cuộc sống, điều này cũng ảnh hưởng tới sự nghiệp và khiến cho công việc kinh doanh không được thuận lợi.
 
5. Đặt đồ phong thủy hoặc linh vật ở sai vị trí   Những hòn non bộ, hồ cá hay nhiều đồ phong thủy khác thường được trang trí trong nhà với mục đích thúc đẩy vận tài lộc, cầu phú quý cho gia chủ, song cần có kiến thức và sự hiểu biết nhất định để biết được đặt nơi nào là hợp lý nhất. Nếu không cẩn thận mà đặt sai vị trí thì không những chẳng thấy may mắn mà ngược lại, gia chủ lại gặp phải vận hung, vô cùng xấu. 
 
6. Nên trưng bày những đồ vật tượng trưng cho sự tốt lành

6 KHONG va 1 NEN cho phong khach may man hinh anh 3
Treo tranh cát tường để vạn sự lành

Nên treo những bức tranh có ý nghĩa cát tường:
 
- Tranh hoa mẫu đơn: Hoa mẫu đơn tượng trưng cho sự giàu có và hưng thịnh.   - Tranh sơn thủy: Núi tượng trưng cho một nền tảng sự nghiệp vững chắc, còn nước mang ý nghĩa là sự giàu sang, phú quý.     - Tranh cá: Cá tượng trưng cho ý nghĩa tốt lành, vận tài lộc hanh thông. Vì vậy, nếu muốn cầu cho tài vận tốt thì nên treo tranh cá phong phòng khách.
 
- Tranh cây tre: Tre biểu thị sự phát triển và thăng tiến trong sự nghiệp. Vì vậy, bạn cũng có thể chọn một số bức tranh tre treo trong phòng khách của mình.

Nguyên tắc bài trí ghế sofa chuẩn phong thủy
Bài trí ghế sofa trong phòng khách sao cho đẹp mắt đã khó, đạt chuẩn phong thủy để rước tài lộc vào nhà càng khó, đòi hỏi gia chủ phải có những nguyên tắc bài
7. Không trưng bày những vật sắc nhọn 

Tuyệt đối tránh việc trưng bày những vật như rìu, kiếm, gươm, đao… trong phòng khách. Nó sẽ khiến cho gia chủ gặp nhiều điều không may, thậm chí là những tai nạn đáng tiếc.    Hãy trang trí phòng khách của bạn theo 7 điều này để rước “hên” vào nhà nhé!

► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

Huyền Nguyễn (Theo Fengshui Beginner)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 KHÔNG và 1 NÊN cho phòng khách may mắn

Hôn nhân của người tuổi Thìn

Sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người khác phái khiến người tuổi Thìn cần cân nhắc kỹ trước khi chọn bạn đời. Sự chân thành và nghiêm túc trong quan niệm về hôn
Hôn nhân của người tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhân đem lại cho họ mái ấm gia đình hạnh phúc. Họ luôn nâng niu, quý trọng và dành nhiều tình cảm cho người thân của mình. Một số người tuổi Thìn thường sống khá tình cảm và vì thế trong đời sống vợ chồng, họ sợ bị tổn thương và cũng sợ làm tổn thương người khác.

Những người chồng tuổi Thìn thường tỏ ra dịu dàng với người vợ và sẵn sàng giúp đỡ vợ công việc nhà. Tuy không ít người vì áp lực nặng nề của công việc hay những tham vọng trong sự nghiệp đã làm cho những giây phút sum họp của gia đình trở nên căng thẳng nhưng nhìn chung họ luôn cố gắng trở thành người chồng, người cha tốt.

Phụ nữ tuổi Thìn luôn cố gắng hoàn thành tốt vai trò của mình trong gia đình. Họ lấy việc chăm sóc chồng con là niềm vui sống, niềm hạnh phúc. Đôi lúc, họ cũng cảm thấy cuộc sống căng thẳng và bản thân ít có được tiếng nói trong gia đình nhưng họ luôn biết cố gắng hiểu, cảm thông với chồng và vun đắp cho hạnh phúc lứa đôi.

(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hôn nhân của người tuổi Thìn

Tướng bất túc –

Là không chuẩn mực, đồng đều nhìn thấy ngay như: 1. Đầu nhọn mỏng: (Hóp) là của người có tướng: Kém trí tuệ, không phúc (hiếm con). 2. Vai lệch là của người có tướng: Hành sử bất nhất (trước sau đổi khác) “nhất bên trọng nhất bên khinh”, thiếu công b
Tướng bất túc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng bất túc –

Nguyên tắc khác tính ngày xung tuổi –

Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim – Thủy – Mộc – Hỏa – Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương sinh là: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim… Hoặc theo quy luật tương khắc là: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

2011771450232

Ngoài quy luật tương sinh, tương khắc chung, các Địa chi còn phân ra sáu cặp Địa chi xung nhau rất mạnh. Đó là:

–     Dần xung Thân và ngược lại – Thìn xung Tuất và ngược lại.

–     Tị xung Hợi và ngược lại – Tý xung Ngọ và ngược lại.

–     Mão xung Dậu và ngược lại – Sửu xung Mùi và ngược lại.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc khác tính ngày xung tuổi –

3 con giáp đón vận thế tài lộc vượng phát sau tiết Hạ Chí

Đang trong tiết Hạ Chí, vận thế tài lộc của bạn dạo này ra sao? Bạn có biết 3 con giáp nào là người sẽ đón tài lộc vượng phát, ra đường cũng nhặt được tiền
3 con giáp đón vận thế tài lộc vượng phát sau tiết Hạ Chí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

không?   Mùa hạ với những cơn mưa rào ào ào và những trận nắng cháy xa cháy thịt. Có lẽ điều an ủi mỗi người trong mùa hạ ngoài du lịch thì chỉ có thể là giữa tiết trời nóng bức mà được tài lộc lên vù vù, chẳng khác nào cốc nước mát lành giúp ta hạ nhiệt.   Đang tiết Hạ Chí, thời tiết có vẻ đỡ phần nào khắc nghiệt. Bạn có biết sau tiết Hạ Chí, con giáp nào sẽ có đường tài lộc rộng mở thênh thang, vận trình tăng tiến không gì ngăn nổi không. Cùng Lịch ngày tốt xem tử vi 12 con giáp để có được câu trả lời nhé.  

Tuổi Dần

  Sau tiết Hạ Chí, vận trình của người tuổi Dần có sự biến chuyển rõ rệt. Công việc thuận lợi, bạn sẽ có nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp. Đó sẽ là những bước tiến mà bạn không thể tưởng tượng được, đem lại niềm vui bất ngờ lớn hơn mong đợi, hãy tỉnh táo để nắm bắt thời cơ nhé.   Nếu bạn dồn hết tâm sức để làm việc, cố gắng không ngừng, học hỏi mọi lúc mọi nơi thì chuyện thăng tiến sẽ chẳng còn xa xôi nữa. Nên tích cực tìm kiếm cơ hội cho mình, mỗi một cơ hội dù nhỏ nhưng cũng cần trân trọng, bởi đó có thể là cơ hội để bạn thay đổi vận mệnh cuộc đời.


tai loc vuong phat 2
 
  Tài lộc vượng phát, tăng tiến không ngừng, nhất là về Thứ Tài, bạn có thể tiến hành đầu tư để sinh lời. Tuy nhiên người tuổi Dần nên chú ý đề phòng tiểu nhân, hành sự cẩn trọng để tránh họa phá tài. Nói thêm chút về đường tình duyên nhé, chuyện tình cảm của con giáp này sắp tới sẽ có chút tiến triển, hãy bỏ thêm thời gian và tâm tư để bồi đắp tình cảm, đừng để lỡ dở mối lương duyên.

Xem thêm Phong thủy bàn làm việc đuổi tiểu nhân, rước may mắn nhé.
 

Tuổi Dậu

  Người tuổi Dậu chỉ ngay sau khi tiết Hạ Chí qua đi là sẽ gặp được cát tinh quý nhân trên đường tài lộc, công danh sự nghiệp thăng tiến ầm ầm, mọi chuyện suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió. Vận thế ngày càng tốt hơn, cát tinh cao chiếu, lại được quý nhân trợ lực thêm phần may mắn. Quý nhân của con giáp này thường là nữ giới, bởi tháng này âm khí rất nặng nên quý nhân là nữ giới sẽ có thể giúp bạn chuyển hung thành cát, gặp dữ hóa lành.


tai loc vuong phat
 
  Cuộc đời có vay có trả, người tuổi Dậu cũng nên nhớ nhắc mình giúp đỡ mọi người, nhất là bạn bè là nữ giới. Nhiều chuyện vốn đã là sở trường của bạn, giải quyết dễ dàng như nước chảy mây trôi, nên quyết đoán, hành động dứt khoát, chớ do dự không biết tiến lùi sẽ để thời cơ qua đi trước mắt.   Tình cảm gia đình của con giáp này đang rất tốt đẹp, những mâu thuẫn trước đó sẽ được giải quyết, gia hòa vạn sự hưng.  

Tuổi Hợi

  Sau tiết Hạ Chí, người tuổi Hợi được cát tinh dẫn đường, chuyện tốt liên tiếp kéo đến. Nhiều chuyện nhìn bề ngoài cát hung khó đoán nhưng con giáp này được phúc khí đầy mình nên về tổng thể đều có kết quả khá tốt, không cần phải lo lắng sợ hãi điều gì.


tai loc vuong phat 1
 
  Công việc có thể có một vài thay đổi, dẫn đến biến động về sự nghiệp. Vào giờ phút quyết định, phải giữ đầu óc bình tĩnh, suy nghĩ kĩ càng, xem xét các phương diện khác nhau. Nếu không thể làm được điều đó thì tốt nhất đừng nên quyết định thay đổi gì mà cứ giữ nguyên hiện trạng thì hơn.

Bạn đã biết Vị trí làm việc vượng tài của 12 con giáp nằm ở đâu chưa? Đọc ngay nhé.
  Nhớ kĩ, làm chuyện gì cũng phải chắc chắn, đừng đứng núi này trông núi nọ, để rồi cuối cùng chẳng việc gì được ra hồn. Vạn sự lấy cẩn trọng làm đầu, lấy tĩnh chế động, chớ gây chuyện thị phi.    Tài lộc vượng phát, luôn giữ mức ổn định nên con giáp này có thể xem xét tính toán đến chuyện đầu tư sinh lời, song nên chọn lĩnh vực đầu tư thích hợp, lựa sức mà làm, tránh làm chuyện quá mạo hiểm kẻo tiền bạc dù nhiều nhưng vẫn có nguy cơ phá sản, tiền của một đi không trở lại. Bước đầu hãy chọn những lĩnh vực an toàn, lợi nhuận ít hơn chút mà ổn định. Đợi khi có kinh nghiệm thì có thể mạnh tay dấn mình làm những chuyện có tính thử thách cao hơn.    
Hy Vũ

Cách siêu dễ thu hút thịnh vượng bằng tiền xu phong thủy Ánh sáng trong phong thủy: Sử dụng hợp lý sẽ đón tài lộc miễn phí Xem tướng tay chân biết ngay giàu tài lộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp đón vận thế tài lộc vượng phát sau tiết Hạ Chí

Ngủ ngon nhờ đặt giường đúng phong thủy

Đặt giường ngủ đúng vị trí theo khoa học phong thủy sẽ giúp giấc ngủ ngon và đem nhiều lợi ích về mặt sức khỏe của chúng ta.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia chủ thuộc hành nào thì đặt giường ngủ theo hướng ấy:

• Gia chủ thuộc ngũ hành Thủy, Mộc, Hỏa (mệnh Đông tứ) nên đặt giường ngủ ở hướng bắc, đông, nam, đông nam.

• Gia chủ thuộc mệnh Kim, Thổ (Tây tứ) nên đặt giường ngủ ở hướng đông bắc, tây bắc, tây nam và tây.

• Nên đặt giường ở vị trí có ba mặt tựa vào.

Các vị trí nên tránh trong phòng ngủ:

• Không đặt giường hướng ra cửa hay từ cửa có thể nhìn chính diện vào giường bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh của gia chủ. Trong tình thế không thể xoay giường thì nên xoay đầu lại để ngủ như là một cách hóa giải.

• Không đặt giường cạnh nhà vệ sinh hoặc dưới nhà vệ sinh tầng trên hoặc đầu giường chiếu thẳng vào nhà vệ sinh. Vì nhà vệ sinh thường được xem là nơi không sạch sẽ.

• Không được kê đầu giường ngay dưới cửa sổ, hoặc sát cửa số bởi vì cửa sổ là nơi có luồng khí và luồng ánh sáng mạnh nhất, có động hướng rất lớn, ảnh hưởng nhiều đến giấc ngủ và bất lợi cho sức khỏe.

• Không đặt đầu giường nơi có xà ngang bắt ngang qua, vì sẽ gây mất ngủ, hoặc cảm thấy khó thở khi ngủ giống như có vật gì đè trên người.

• Đầu giường không nên chiếu thẳng vào bếp đun hoặc kê sát với phòng bếp không tốt với sức khỏe của con người, có thể sinh ra các chứng bệnh đau tim…

• Đầu giường không nên “lộ không”. Nếu đầu giường không kê sát vào tường được thì cuối giường nên kê sát vào tường, còn nếu không có thể đặt kệ tủ sát đầu giường cạnh vách tường cũng là một cách hóa giải.

• Giường ngủ kiêng chiếu thẳng từ ống khói ở bên ngoài. Phong thủy học cho rằng “ống khói làm cho chủ giường khó sinh nở”. Nếu xảy ra trường hợp trên thì có thể dùng rèm để che cửa sổ để tránh nhìn thấy ống khói là được.

• Đầu giường không nên chiếu thẳng vào gương (dù không phải là gương bát quái hay gương cửa). Nếu để gương chiếu trực tiếp vào đầu giường thường sẽ bị giật mình ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ dẫn tới hiện tượng mất ngủ, đau tim, tinh thần phân tán. Tốt nhất, nên treo gương ở phía trong cánh tủ quần áo để không làm ảnh hưởng đến sức khỏe.

Cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc đặt giường ngủ theo phong thủy làm nhiều người hoang mang không biết đâu là đúng. Tuy nhiên, chúng ta nên áp dụng những điểm cơ bản nhất và dễ thực hiện.

(Theo Dân Việt)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngủ ngon nhờ đặt giường đúng phong thủy

Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Một bài viết trình bày bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi rất hay! Vương Đình Chi là một bậc thầy tử vi!
Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.

Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".

"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.

Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.

Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.

Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?

Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:

Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.

Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN

1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng

Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.

Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.

Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.

Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.

Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.

Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".

Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.

Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.

Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.

Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.

2- Quan sát toàn diện 12 cung

Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.

Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.

Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.

3- Các bước luận đoán mệnh bàn

Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:

3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.

Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.

3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch

Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.

Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.

3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức

Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.

Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.

3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý

Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.

Xin đưa ra một ví dụ thực tế:

- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.

3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn

Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.

Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.

Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).

Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.

Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".

Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.

Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.

3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung

Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.

Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo

- Mượn sao an cung

Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.

Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.

Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.

Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.

Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.

Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.

Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.

Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.

Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau

Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".

Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:

Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.

Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.

Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.

Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).

Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.

Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.

Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".

"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm

Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.

Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.

Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.

Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:

+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang

+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt

+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã

+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.

Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.

- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.

- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.

- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".

- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.

Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:

Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).

Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.

"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )

Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".

Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.

Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)

Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.

Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:

1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.

Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.

Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.

Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.

Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.

Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.

Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.

Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.

Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.

Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.

Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.

Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.

Mệnh bàn nguyên cục:

- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.

Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.

Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.

Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.

Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.

Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.

Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.

Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.

Ghi chú về phép định Tiểu hạn

Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt

Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.

Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.

Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.

Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.

Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.

Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.

- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát

- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.

- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.

- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.

- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.

- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.

- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban

Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con

Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.

Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:

- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)

Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.

4)- Cách luận đoán lưu nhật

Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.

Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.

Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...

Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.

Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.

Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.

Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:

- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.

Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.

Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.

Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.

Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.

Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.

Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.

Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.

Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.

Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.

Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.

Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.

5)- Cách luận đoán lưu thời

Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.

Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:

- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý

Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Ba yếu tố Chủ, Môn, Táo trong phong thủy nhà ở

Chủ - Môn - Táo trong Phong thủy học chính là phòng ngủ chủ nhà, bếp, cửa ra vào. Với một căn nhà, đây là ba yếu tố đặc biệt cần coi trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Phong thủy cũng như những bộ môn khoa học khác đều có những quy luật được đúc kết qua thời gian dài của cuộc sống. Vì thế, có những yếu tố dù đã lâu đời nhưng vẫn được chú trọng trong thời hiện đại, cụ thể ở đây là ba yếu tố Chủ - Môn - Táo, tức phòng ngủ chủ nhà, bếp và cửa ra vào.


Những yếu tố này không chỉ được thừa nhận như những yếu tố tiên quyết trong trường phái Dương Trạch Tam Yếu mà trong Huyền không học hay Bát trạch phong thủy đều dựa vào và coi đó là yếu tố then chốt để luận đoán cát hung trong một căn nhà, hay một đối tượng xem xét của khoa phong thủy.



Trong kiến trúc hiện đại, Chủ - Môn - Táo đã có nhiều thay đổi khác trước. Vì vậy mà những quan niệm về Chủ - Môn - Táo trong Phong thủy xưa cũng nên  nhìn nhận thấu đáo hơn trước khi ứng dụng cụ thể vào thực tiễn cuộc sống.

Cụ thể, đối với phòng ngủ chủ nhà được xem xét là có mối quan hệ mật thiết đến sức khoẻ của chủ nhân. Bởi một phần ba cuộc đời của con người là ở trong phòng ngủ. Do vậy, việc sắp đặt không gian phòng ngủ luôn được coi trọng để tạo nên một môi trường cho sự thư giãn tối ưu.

Bếp trong phong thủy tượng trưng cho tài lộc và cũng là nơi mang dưỡng khí cho gia đình. Vì thế, hướng bếp và vị trí bếp là những yếu tố then chốt để cấu thành nên tính phong thủy của một gian bếp.

Cửa nhà có vai trò dẫn khí phân bổ tới từng khu vực của ngôi nhà đó, là nơi giao tiếp đầu tiên, giữ liên hệ giữa hai yếu tố nội và ngoại... Ngoài cửa chính, các hành lang cầu thang và các cửa phòng, cửa hậu chính cũng là những nơi có nhiệm vụ giúp điều tiết luồng năng lượng trong căn nhà. Vì thế, không thể xem xét một yếu tố cửa trong căn nhà. Ngoài ra, cửa là một trong những yếu tố giúp định vị hướng nhà, một yếu tố tối quan trọng theo phong thủy cổ truyền.

Chuyên gia phong thủy Phạm Cương

(Theo Kienthuc)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba yếu tố Chủ, Môn, Táo trong phong thủy nhà ở

Mơ thấy ruột: Nên kết hợp hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi, chú ý đến việc ăn uống –

Mơ thấy ruột nhắc nhở bạn nên kết hợp hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi. Ruột là bộ phận trong bộ máy tiêu hóa của con người, có tác dụng tiêu hóa và hấp thu thức ăn. Sự tốt xấu của ruột và dạ dày trực tiếp ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa và hấp th
Mơ thấy ruột: Nên kết hợp hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi, chú ý đến việc ăn uống –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ruột: Nên kết hợp hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi, chú ý đến việc ăn uống –

3 chòm sao vô tâm, không biết nhận chân tình

Trong tình yêu, có biết bao người hết lòng hết dạ nhưng đối phương vĩnh viễn không thấy tâm ý, 3 chòm sao vô tâm dưới đây là vậy, không ghi nhận chân tình.
3 chòm sao vô tâm, không biết nhận chân tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tình yêu, có biết bao người hết lòng hết dạ, nhất kiến chung tình, chấp nhận hi sinh nhưng đối phương vĩnh viễn vẫn không thấy được tâm ý, mãi mãi chỉ là cuộc tình đơn phương. 3 chòm sao vô tâm dưới đây chính là như vậy, không bao giờ thực sự ghi nhận chân tình.


► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của 12 cung hoàng đạo được cập nhật mới nhất

3 chom sao vo tam, khong biet nhan chan tinh hinh anh
 

Nhân Mã

  Chòm sao vô tâm Nhân Mã dường như chỉ biết đến tự do và phóng khoáng của bản thân mình, ít khi thấu hiểu lòng tốt và tình cảm mà người khác đang dành cho. Họ luôn nghĩ rằng, người đó tốt với mình là ý muốn đơn phương, đau khổ là sự trả giá phải chấp nhận vì ý muốn đó, đối với Nhân Mã không có quan hệ, càng chẳng có trách nhiệm. Vẫn là vô tư sống theo ý thích của mình, thậm chí có lúc vì người khác si tình mà bực bội, thiếu kiên nhẫn, xua đuổi người ta để bản thân cảm thấy thoải mái hơn.  

Sư Tử

  Chòm sao Sư Tử kiêu ngạo tự phụ, mãi mãi cũng là cao cao tại thượng, đối với người khác biểu hiện ý tốt thì lại coi như bố thí mà xem thường, không chấp nhận, tỏ thái độ lạnh nhạt, bài xích. Chòm sao vô tâm này vừa kiêu ngạo nhưng cũng lại mẫn cảm, yếu đuối, sợ người khác coi thường mình, ban phát tình cảm và lòng tốt cho mình nên vẫn cứ là cự tuyệt, để không ai phải vương vấn gì với ai. Thà phụ người còn hơn để mất hình tượng đẹp đẽ, hoàn mĩ của mình là nguyên tắc sống của Sư Tử.
3 chom sao vo tam, khong biet nhan chan tinh hinh anh
 

Xử Nữ

  Theo đuổi hoàn mĩ và nguyên tắc, nội tâm chuẩn mực những cũng rất mẫn cảm là Xử Nữ. Nói họ là chòm sao vô tâm cũng đúng, nói họ là chòm sao nghi ngờ cũng phải. Người khác tốt với Xử Nữ, họ lập tức cho rằng không ai vô duyên vô cớ đối xử tử tế như vậy nên tốt nhất là phớt lờ, làm như cái gì cũng không biết, cái gì cũng không hay. Xử Nữ thích cuộc tình đôi bên cùng tự nguyện hơn là mối tình đơn phương dai dẳng, nên với những người có ý, chòm sao này dứt khoát tỏ rõ lập trường, không cho người ta có một chút cơ hội mà lưu luyến.
3 chòm sao khiến đối phương yêu - hận khó phân Điểm danh 3 chòm sao biến cuộc sống chung thành thiên đường Thổ lộ khuyết điểm khiến tình yêu tan vỡ của 12 chòm sao
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao vô tâm, không biết nhận chân tình

Nguyên tắc lấy số tử vi của làng tử vi Đài Loan

Một bài viết trình bày cách lấy lá số tử vi của làng tử vi Đài Loan của cụ Đẩu Sơn. Mời bạn đọc cùng tham khảo!
Nguyên tắc lấy số tử vi của làng tử vi Đài Loan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt nặng vấn đề tiết khí để tính tháng

Tác giả Đẩu Sơn

Tôi sẽ xin cống hiến làng tử vi Việt nam hai lá số: một của Tây Thái Hậu, một của bà thổng thống Kennedy; hai lá số này đều lấy trong ba lá số: Tử vi tam phương phả ở trong cuốn sách ”Tử vi xiển vi lục bình giải”. Những lá số này được viết trên sách dùng làm số kiểu mẫu kinh nghiệm như số ”danh nhân” của ta. Ba phượng mà tôi loại ra một, còn giữ lại hai phượng, Tây thái hậu chắc độc giả K.H.H.B ai cũng biết vì trong báo có đăng một bữa tiệc bà đãi các Đại sứ các nước huy hoàng và tốn kém như thế nào. Bà là Hoàng hậu, vua Hàm Phong đã mất, vua Quang Tự còn nhỏ, bà làm phụ chính nên chính quyền của nước Tàu đều ở trong tay bà.

Còn bà tổng thống Kennedy người Việt Nam mình chắc hiểu biết nhiều lắm. Sau xin nói qua về tác già cuốn sách này:

Ông Trương Diệu Văn là một người Trung Quốc, ông đã theo học bên Anh quốc nhiều năm có bằng Thạc sĩ về kinh tế học. Thửo nhỏ ông được thừa thụ gia học về thuật số. Khi ông theo học ở Luân Đôn, ông muốn phổ biến khoa Tử Vi cho các bạn hữu người Anh. Chẳng bao lâu danh ông nổi dậy như sóng cồn khắp châu âu, còn lan sang Mỹ nữa. Giới khoa học huyền bí âu Mỹ lấy làm lạ là sao trong tử vi biết được hình tướng đương số, hơn nữa lại còn biết cha mẹ anh em nhà cửa đương số nữa.

Nguyên tắc

Tôi lại xin lưu ý chư vị độc giả rằng nhà thuật số này đã lấy nhiều lá số cho người âu Mỹ không phải giản dị như ta tưởng: chỉ có đổi Dương lịch sang âm lịch rồi lấy bừa phứa đi tưởng là đúng. Phái tử vi này rất chú trọng đến khí tiết, nếu chỉ đổi sang âm lịch thì sai bét: vì phái tử vi này không công nhận tháng giêng âm lịch là tháng sau ngày lập xuân. Cũng bởi lẽ đó trong sách tử vi của họ có phụ thêm trước sau hiện thời là 100 năm gọi là ” Chiêm tinh lịch” làm theo đúng thời tiết. Nếu đổi sang âm lịch mà lấy bừa đi thì không đúng. ông là thạc sĩ về kinh tế học thì ông đâu có chịu làm như thế. ông sở dĩ muốn phổ biến môn khoa học này cho người âu Mỹ thì ông phải nắm chắc được một yếu tố gì để lấy lá số cho được chính xác. ông chọn các phái tử vi trong nước ông xem phái nào được quần chúng ham chuộng nhất và được chính xác hơn cả. Ở Trung Quốc hiện nay có nhiều phái tử vi, sau ông lựa chọn được ”Thấu phái” là hợp ý ông vì phái này được nhiều người trong nước tín dụng hơn cả và lấy số theo nguyên tắc phái này chính xác hơn cả, bởi lý lẽ rất tự nhiên là phái này lấy khí tiết làm then chốt cho vấn đề lập thành lá số. Bởi lẽ đó cuốn sách ”Tử vi xiển vi lục” chú giải là ”Thấu phái bí bản”. Ta hãy đọc bài tựa cuốn sách của ông:

Thường văn tử vi chư thư, dĩ xiển vi lập luận tối tinh. Dư nhiệt độc chi hậu, phương tri thử ngôn bất liêu. Cái tục bản giai dĩ Thái âm khởi mệnh, mỗi ngộ nhuận nguyệt, mâu thuẫn bách xuất, vô tòng giải quyết, xiển vi tắc mệnh dụng Thái Dương, thân dụng Thái âm, lập luận tinh xác, tiện vô nhuận nguyệt chi phiền, thực khố vi chư thư chi phạm.
Nguyên bản dĩ cửu, phá lạn bất kham. Mưu đa ca quyết, từ xáp ý thâm. Dự toại chú giải lệ biểu, trùng tán bài bản, dĩ tiện sơ học
".

Nghĩa: Thường nghe các sách tử vi lấy sự xiển vi (xiển: mở rõ, bật mí, vi: những cái vi diệu) lập luận rất là tinh tế. Tôi nhiệt tâm đọc các sách ấy, sau tôi nhận thấy rằng lời nói kia không phải láo. Bởi lẽ các sách của người đời nay đều lấy Thái âm bắt đầu tính tháng an Mệnh Thân. Mỗi khi gặp tháng nhuận này ra trăm điều mâu thuẫn, không thể giải quyết được. Xiển vi tức là mệnh dùng Thái Dương, thân dùng Thái âm (Thái Dương là Dương lịch, Thái âm là âm lịch) lập luận như vậy thật là tinh xác, không còn có cái phiền của năm nhuận nữa, thực đáng là khuôn phép cho các sách.

Sách này nguyên bản cũ quá, rách nát nhiều, lại có ca quyết, lời lẽ rất đúng, ý đúng tinh thâm. Tôi chú giải thêm và lập thêm những bản, đem in lại để tiện cho người mới đọc. Đến khi an mệnh, sách này dạy như thế này:
Đại để nhân mạnh câu tòng. Dần thượng khởi Dần nguyệt.
Dần nguyệt là tháng giêng. Dần nguyệt ông chú thích như vầy: Dần nguyệt là tháng sau tiết lập xuân, tháng giêng âm lịch đã vị tất là Dần nguyệt. Đây thực là vấn đề then chốt cho phương pháp lấy lá số tử vi. Lấy lá số tử vi bao giờ an Mệnh cũng khởi tháng giêng từ cung Dần, sao đây lại không nhận tháng giêng là tháng Dần. Muốn rõ cho được tường tận ta phải hiều Dương lịch và âm lịch.

Dương lịch và âm lịch

Dương lịch tính theo bóng Thái Dương chiếu trên mặt địa cầu, âm lịch tính theo bóng Thái Ấm cứ ngày rằm trăng tròn.
Dương lịch một năm có 365 ngày kể từ xuân phân trước đến xuân phân sau là địa cầu chạy quanh mặt trời một vòng.
Một năm âm lịch có 354 ngày thành ra mỗi năm âm lịch kém Dương lịch là 11 ngày. Luôn 3 năm phải thiếu tới 33 ngày nghĩa là hơn 1 tháng. Như vậy hai thứ lịch càng lâu ngày bao nhiêu càng xa nhau bấy nhiêu nhất là về khí tiết.
Muốn cho số ngày trong hai thứ lịch bằng nhau hay xấp xỉ nhau, hoặc 3 năm hoặc 2 năm người ta đặt thêm 1 tháng nhuận thành ra hai thứ lịch không xê xích nhau mấy và khí tiết hợp với mùa của nó. Bởi các lẽ trên phái đẩu số Trung Quốc này đã lấy tiết lập xuân làm khởi điểm cho cách lấy lá số của họ. Tiết lập xuân là tiết đầu tiên trong 24 tiết của một năm:

  • Lập Xuân
  • Vũ Thủy
  • Kinh Trập
  • Xuân Phân
  • Thanh Minh
  • Cốc Vũ
  • Lập hạ
  • Tiểu Mãn
  • Mang Chủng
  • Hạ Chí
  • Tiểu Thử
  • Đại Thử
  • Lập Thu
  • Xử Thử
  • Bạch Lộ
  • Thu Phân
  • Hàn Lộ
  • Sương Giáng
  • Lập Đông
  • Tiểu Tuyết
  • Đại Tuyết
  • Đông Chí
  • Tiểu Hàn
  • Đại Hàn

(Giai phẩm K.H.H.B đã nói rõ các tiết và có đăng cả Vạn Niên Lịch nêu rõ các tiết)

Mỗi tiết lại có 3 hầu thì có tất cả 72 hầu.

Sở dĩ phái tử vi này được đồng bào của họ tính dụng nhiều và danh tiếng vang ra cả ngoại quốc nữa là vì những lá số của họ lấy ra đều đúng.

Yếu tố khí tiết quan trọng

Đúng là vì ba yếu tố cấu tạo nên con người thì phái này đã nắm được một để làm nền tảng xây dựng nên lý thuyết của họ. Ba yếu tố ấy là:

  • Huyết thống của cha mẹ
  • Các thức dinh dưỡng mà đương số đã dùng được chế biến ra da, thịt, xương của họ
  • Khí tiết

Tại sao khí tiết cũng quan trọng như hai yếu tố trên? Tôi nhận thấy rằng: mỗi khi khí tiết đến vạn vật trong trời đất này đều có biến cải xin lấy mấy tiết ra đây để làm chứng:

Lập xuân:

  • Đông phong giải đông (Gió tan giá) Vật vô tri cũng thay đổi
  • Trập trùng thể chấn (Trùng núp mới dậy) Động vật chuyển động
  • Ngư trắc phụ băng (Cá đeo băng giá) Động vật chuyển động

Vũ thủy:

  • Lại tế ngư: (Rái cá dưng cúng cá) Động vật chuyển động
  • Hồng nhạn Bắc (Chim Hồng nhạn trở về Bắc) Động vật chuyển động
  • Thảo mộc manh động (cây cỏ nứt mộng) Thực vật chuyển động

Kinh Trập

  • Đào thi hoa (Cây đào trổ bông) Thực vật chuyển động
  • Thương canh minh (Chim hoàng oanh hót) Động vật chuyển động
  • Ưng hóa vi cưu (Chim Ưng hóa thánh tu hú) Động vật chuyển động

Xin đón xem hai lá số (sẽ đăng số giai phẩm sau): một của bà Tây thái hậu, một của bà thổng thống Kennedy mà tôi đã sao lại của họ rất đúng không thêm bớt một ly để giới thiệu với làng tử vi Việt Nam.

Ít lâu nay tôi nhận thấy trên văn đàn Tử vi, mấy vị nghiên cứu về khoa này rất là tinh thâm. Tôi nhận thấy lập luận của phái này khác hẳn của các phái mà ta biết từ trước đến nay. Tôi cũng lại tin rằng bài này thêm một chút tài liệu đã nghiên cứu.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc lấy số tử vi của làng tử vi Đài Loan

Văn phòng của “chủ quản” nên lựa chọn như thế nào? –

Vì sao văn phòng phải tìm được môi trường tốt Phân tích từ góc độ phong thủy chuyên nghiệp, lựu chọn nơi chốn của văn phòng, nhất định cần khiến cho Ngũ hành nơi đó "sinh vượng" (có tác dụng trợ giúp con người) trong nghiệp chủ mệnh có "hỷ dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì sao văn phòng phải tìm được môi trường tốt

Phân tích từ góc độ phong thủy chuyên nghiệp, lựu chọn nơi chốn của văn phòng, nhất định cần khiến cho Ngũ hành nơi đó “sinh vượng” (có tác dụng trợ giúp con người) trong nghiệp chủ mệnh có “hỷ dụng thần” mới là sinh tài bảo địa lý tưởng nhất. Một môi trường tốt mà phong thủy sinh ra trường khí sẽ có tác dụng trợ giúp nhất định cho cơ thể và trí tuệ của con người, từ đó mà từng bước làm ăn hưng vượng, sự nghiệp thành công.

1329467198_318240843_2-cong-ty-noi-that-deN-BaO-chuyen-thiet-ke-van-phong-da-Nng

 Văn phòng của chủ quản nên lựa chọn như thế nào?

Văn phòng là nơi quan trọng sinh tài, muốn tài vận hưng thịnh, phong sinh thủy khơi thì phải tìm được môi trường tốt, phong thủy tốt. Chủ quản nắm chính sách quản lý công ty, cần có những khả năng phán đoán và khả năng quyết sách mạnh, thì mới có thế chớp được thời cơ. Nếu phong thủy không tốt ảnh hưởng đến khả năng quyết sách của chủ quản, quyết sách sai lầm tất sẽ đem lại tổn thất to lớn cho công ty, cho nên cần phải tạo ra phong thủy môi trường tốt đẹp, tạo ra khả năng quyết sách tốt nhất, vì công ty giành được những lợi ích lớn nhất.

Phân tích từ góc độ phong thủy chuyên nghiệp, lựa chọn một nơi văn phòng cho chủ quản nhất định cần khiến cho Ngũ hành nơi đó sinh vượng, đồng thời tổng mệnh ông chủ phải có “hỷ dụng thần”, tốt nhất có thể tỷ hợp hoặc cùng nhau sinh vượng của chủ quản mới là lý tưởng nhất.

Một công ty hoặc một đơn vị hưng vượng thì “mệnh cục” hoặc “hỷ dụng thần” giữa ông chủ và chủ quản đều là tương sinh tương vượng, một người chủ quản mà có thể trợ giúp cho ông chủ thì mệnh cục phần lớn là tương hợp với ông chủ hoặc có dụng thẩn Ngũ hành khỏi trợ vượng.

Nếu không phải như vậy, nhất định sẽ đem lại cho ông chủ và chủ quản đó những phiền muộn và tổn thất. Đối với ông chủ mà nói, lựa chon văn phòng cho chủ quản và chủ quản lựa chọn là bước đầu của sự thành công, nhất thiết không được coi nhẹ. Một môi trường phong thủy tốt thì trường khí sinh ra đều có lợi rất lớn đối với cơ thể, chiến lược, trí tuệ, tài vận của ông chủ và những thuộc hạ bên dưới, tiếp đó có thể làm hưng vượng công ty, sự nghiệp đi tới thành công.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn phòng của “chủ quản” nên lựa chọn như thế nào? –

Xem tướng số qua hình cái mũi

Cái mũi là 1 trong những tướng số quan trọng nhất. Đối với đàn ông mũi biểu tượng về tiền tài còn đối với phụ nữ thì mũi biểu tượng về chuyện chồng con. Coi bói qua cái mũi giúp bạn có thêm những dự đoán thú vị.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mũi giữ vai trò rất quan trọng trên khuôn mặt con người. Dù cho tai mắt miệng có hài hoà đẹp đẽ đến bao nhiêu mà mũi xấu xí lệch lạc thì khuôn mặt cũng xem như bị phá cách.

Xem tướng số qua hình cái mũi

Coi bói qua cái mũi

Theo một thuyết coi bói về nhân tướng học cuả người Nhật, mũi được chia thành 3 khu vực, mỗi khu vực biểu hiện rất rõ ràng cá tính cuả một người với ý nghĩa như sau:

  • Khu vực sống mũi: bao gồm Sơn Căn ( gốc mũi nằm giữa hai mắt ), Niên Thượng và Thượng Thọ, biểu hiện về những khả năng tiềm tàng của một người. Khi coi bói tùy theo khu vực này rộng hẹp phát triển ra sao mà người coi bói này có thể mạnh mẽ hoặc yếu kém.
  • Khu vực Chuẩn Đầu: biểu hiện cho trí lực, có liên quan rất lớn đến sự phát triển cuả trí óc và tinh thần của người coi bói.
  • Khu vực phụ trợ: tức là hai cánh mũi ( Giản Đài và Đình Uý) thể hiện cho năng lực hoạt động cuả một người.

Người coi bói cũng nên chú ý đến chiều dài và độ cao thấp cuả mũi. Một chiếc mũi được gọi là trung bình khi có chiều dài bằng 1/3 chiều dài cuả khuôn mặt. Còn để nhận biết mũi là cao hay thấp thì dùng cách so sánh sự cân đối giữa chiều cao của mũi với chiều cao lưỡng quyền hay chiều cao cuả cằm để nhận biết độ cao thấp.

Trong sách tướng nói rất nhiều về các tướng mũi, sau đây là một vài hình dáng thông thường của cái mũi để bạn có thể tham khảo khi coi bói (mũi đã được sửa hong có tính nhé) .

Xem tướng số qua hình cái mũi

 

  • Coi bói mũi phú quý : Mũi cao, cánh mũi to dày, lỗ mũi rộng , chuẩn đầu tròn đầy.Người có dạng mũi thường sống trong giàu sang, sung sướng.
  • Coi bói với mũi dọc dừa : người coi bói có dạng mũi này là người có tính tình trung hậu, khoan hoà trong xử thế, thiên về văn chương nghệ thuật nên thường được danh tiếng hơn lợi lộc.
  • Coi bói mũi nghèo khó: Lỗ mũi lớn và quá lộ hay hếch lên.
  • Coi bói mũi hung ác: mũi có nhiều nếp ngang dọc, thân mũi cao gầy, lỗ mũi hẹp, Chuẩn Đầu nhọn trơ xương.
  • Coi bói mũi gian trá xảo quyệt: mũi nhỏ và ngắn, mềm, lỗ mũi hếch. Cánh mũi lệch hoặc cụp xuống như mỏ chim nhiều hâu.
  • Coi bói mũi đầy đặn, rộng từ trên xuống dưới Chuẩn Đầu khiến Gián Đài và Đình Úy bị thu hẹp: Người coi bói bình thường có thể được giàu sang.
  • Coi bói mũi đầy đặn, cao và rộng nhưng hơi thiếu chiều dài giống như mũi cọp: người có cá tính thiên về vật chất, ăn to nói lớn, thích danh vọng. Khi coi bói quan sát nếu có thêm Đình Úy và Giản Đài cân xứng thì có thể thành công về đường võ nghiệp hay binh nghiệp.
  • Coi bói mũi đầy đặn, phát triển cả bề cao lẫn chiều rộng, không bị phá cách: là tướng đại phú qúy, người coi bói có dạng mũi này là người rất thông minh, mưu trí và dũng cảm hơn người công thêm  tính tình trung thực, thẳng thắng giao thiệp rộng nên thường rất thành đạt trong công việc.

 

Xem tướng số qua hình cái mũi

Coi bói với mũi đầy đặn của Goo Hye Sun

  • Coi bói mũi thẳng nhưng hẹp ở phiá trên, khi đến Chuẩn Đầu mới phát triển, lỗ mũi lộ rõ: người coi bói có dạng mũi này là người có tính tình phóng khoáng, thích kết hợp bè bạn, vận số ở mức bình thường nhưng nếu đắc cách với ngũ quan thì có thể hưng vượng hậu vận.
  • Coi bói mũi dài nhưng không đầy đặn, bề ngang quá hẹp giống như thân cá kết hợp với phần Niên Thượng, Thọ Thượng nổi cao: người coi bói có dạng mũi này là người có cá tính nhỏ nhen, hay nghi ngờ người khác nên thiếu sự thân thiện, hường khó thành công trong cuộc sống.
  • Coi bói mũi gấp khúc nhiều đoạn: người có tính khí thất thường, kiến thức nông cạn, gặp nhiều nhiều trắc trở trong sự nghiệp. Khi coi bói quan sát thấy phần Lưỡng Quyền khuyết hãm thì càng xấu tướng hơn, không đủ tài sức đủ ăn đủ mặc.
  • Coi bói mũi hẹp ở phần trên nhưng đến Chuẩn Đầu thì nở nang quá mức, kéo theo hai canh mũi to: người coi bói với mũi này là người có tâm tính hời hợt, thường thích được người khác nịnh hót, sinh kê, vất vả.
  • Coi bói mũi nhìn khô khốc và xương xẩu: người có đời sống tình cảm nghèo nàn, gia đình bất hoà.
  • Coi bói mũi thon nhỏ nhưng Giản Đài và Đình Úy hơi trễ xuống dưới nhân trung: người coi bói có dạng mũi này là người có cá tính nhanh nhẹn, thích nhàn nhã chứ không thích làm việc nặng nhọc, cuộc sống đủ ăn chứ không giàu sang.

Một vài đặc điểm về sống mũi , lỗ mũi :

  • Coi bói  sống mũi lệch trái: Mẹ thọ hơn Cha
  • Coi bói với sống mũi lệch phải: Cha thọ hơn Mẹ
  • Coi bói sống mũi nhỏ và hẹp: là người thẳng tính nhưng lại quá cứng rắn, thường hay cố chấp, thiếu kiên nhẫn khi gặp khó khăn.
  • Coi bói sống mũi lớn nhưng cong vào khiến Chuẩn Đầu thấp hẳn xuống: người coi bói này có tính tình nhân hoà. Khi coi bói nếu thấy Lưỡng Quyền tốt thì có thể làm ăn thành công rất đễ dàng. Trường hợp Lưỡng Quyền phá cách thì tướng tốt cũng bị giảm sút nhiều, chỉ là người có ăn có mặc vưà đủ mà thôi.
  • Coi bói sống mũi có nốt ruồi: cần thận sự nghiệp bị gãy đổ nửa chừng.
  • Coi bói lỗ mũi nhỏ hẹp, Gián Đài và Đình Úy đầy đặn và cân bằng nhau:người coi bói này có tính tham lam hoặc keo kiệt.
  • Coi bói lỗ mũi rộng , Giản Đài và Đình Úy xẹp, đường nét không rõ : người thích nghe lời ngọt ngào , nịnh hót ,chi tiêu phung phí .
  • Coi bói lỗ mũi rộng, Giản Đài và Đình Úy đầy đặn và cân bằng nhau : người coi bói này rất thông minh , trí tuệ hơn hẳn người khác, thích hợp với những công việc dùng đầu óc .

Mũi là dấu hiệu chủ yếu trên khuôn mặt thể hiện nguyên tố Kim và tượng trưng cho khả năng sở hữu sức mạnh.

Xem tướng số qua hình cái mũi

Coi bói với mũi to của Quang Thắng

Người ra nói rằng ở Trung Đông thời cổ đại, mũi của các hoàng tử trẻ được kéo ra và được xoa bóp vì họ tin rằng không ai có thể làm vua mà lại không có một cái mũi thật to. Nếu nét này có kích thước lớn thì nó cũng thể hiện tham vọng và tính độc lập; mũi to quá cỡ lại là dấu hiệu cho thấy người nào đó có thể có tính tự cao tự đại và tự cho mình là trung tâm. Và nếu mũi bạn nhô ra khỏi mặt quá nhiều- nhô ra hơn khoảng 1 inch( khoảng 2,54cm) – thì đó là dấu hiệu cho thấy bạn là người đi tiên phong. Vì vậy, việc giải phẫu thẩm mỹ ở vùng mũi không những có thể làm hạn chế những trải nghiệm cuộc đời mà bạn có thể có ở tuổi 40( như tôi đã đề cập ở phần trước) mà nó còn có thể tác động đến khí chất của con người bạn nữa.

Khi coi bói, mũi không cần phải có kích thước lớn thì mới có thể chứa đựng một nét tinh túy thuộc nguyên tố Kim. Trong điều kiện hoàn hảo, nét mũi này là dấu hiệu thể hiện phẩm chất thuộc Nguyên tố Kim của một người có lý tưởng cao cả. Bạn rất coi trọng tầm nhìn của mình và khao khát sống một cuộc đời có ý nghĩa.

Nguồn: Xem tướng số qua hình cái mũi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng số qua hình cái mũi

Những điểm sai lầm trong các sao tử vi

Một bài viết của cụ Ân Quang chỉ ra những điểm sai lầm trong các sao tử vi. Mời quý bạn đọc tham khảo!
Những điểm sai lầm trong các sao tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Ân Quang

Cung Quan có Đào Hồng tại Tý
Tuổi Tý, Dậu làn nên sớm nhưng yểu.

Câu này ở trang 66, trong cuốc Tự Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản năm 1952 tại Hà Nội.

Và cũng lại có một câu tương tự, ở trang 223, sách Tử Vi Đẩu Số của Vân Đằng Thái Tứ Lang, xuất bản năm 1957. Câu ấy như sau:

“Đào Hồng toạ thủ tại Tý” tuổi Tý Dậu hiển đạt nhưng chết non.

Theo phương pháp an sao, lập thành lá số, mà các tác giả ấy hướng dẫn nơi phần đầu cuốn sách thì:

Tuổi Tý, Hồng Loan tại Mão, Đào Hoa tại Dậu

Tuổi Dậu, Hồng Loan và Đào Hoa đồng cung tại Ngọ.

Chỉ có tuổi Mão mới có Đào Hồng cũng ở Tại cung Tý mà thôi! Không thê nào tuổi Tý Dậu (hoặc Tỵ, Dậu) mà lại có Đào Hồng toạ thủ tại Tý được!

Người sinh lục Giáp, Lục Mậu, Mệnh cư Dần Thân có Kình Dương toạ thủ là cô đơn, không giữ được tổ nghiệp, mang hai họ thì sống lâu, làm nghề khéo léo.

Ở trang 172, Tử Vi Đẩu Số, quyền Thượng, tác giả Nguyễn mạnh Bảo đã luận như thế, và qua trang 173 thì lại nói Kình Dương “ở cung Dần là đắc địa”.

Cuốn Tử Vi Đẩu số của tác giả Nguyễn Mạnh Bảo xuất bản năm 1951, đến năm 1957, lại thấy một câu tương tự trong cuốn Tử Vi Đẩu Số của tác giả vân Đằng Thái Thứ Lang, trang 155 nói về sao Kình Dương:

“Kình toạ thủ tại Dần, Thân, tai hại nhất đối với tuổi Giáp, Mậu v.v..

Tuổi Giáp, tuổi Mậu tính làm sao cho có được sao Kình Dương ở Dần, Thân. “Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương”

Trước Lộc Tồn một cung là sao Kình Dương.

Giáp Dần, Ất Mão lộc chỉ khoa
Canh Thân, Tân Dậu lộc diệu đa
Nhâm trư, Quý thử tòng trung lại
Đinh Kỷ Ngọ trang, Bính Mậu xà.

Đó là một trong nhiều bài phú tương tự nói về cách an sao Lộc Tồn. Khi đã có sao Lộc Tồn thì “tiền Kình, hậu Đà”, cung trước Lộc Tồn là Kình Dương, cung sau Lộc Tồn là Đà La.

Lại còn có biết bao nhiêu đồ biểu chỉ vẽ cách an sao Lộc Tồn, Kình Dương, Đà La. Đồ biểu trình bày có vẻ rất khoa học. Áp dụng các đồ biểu ấy cũng chẳng thấy tuổi nào có Kình Dương ở Dần, Thân.

Đến đây buộc lòng chúng ta phải hoài nghi khả năng bấm Tử Vi thuộc lòng của các tác giả ấy. Nếu đã thuộc lòng bản cửu chương, chín lần chín là tám mươi mốt, khi nghe ai nói chín lần chín là tám mươi, thì chúng ta sẽ thấy ngay là người ấy có nhầm lẫn. Nếu đã thuộc lòng tuổi Giáp có Lộc Tồn ở Dần, thì chẳng thể nào viết sách, rằng tuổi Giáp có Kình Dương ở Dần được.

Tiếc thay, trong một cuốn sách Tử Vi xuất bản gần đây, có những bài phú chỉ dẫn cách an sao thuộc lòng, lại cũng chẳng thấy có đoạn tương tự!

“Người tuổi Giáp, tuổi Mậu mà Mệnh đóng tại Giần Thân lại gặp Kình Dương thì phá tán tổ nghiệp”.

Nêu lên những sai lầm kể trên, chúng tôi không có ý khen chê một tác giả nào. Chúng tôi chỉ muốn đưa ra một nhận xét rằng khoa Tử Vi đã bị thất truyền, lại còn bị làm rối loạn thêm bởi những “công thức các bộ sao chỉ có thể có trong trí tưởng tưởng, chứ không thể xảy ra khi an sao, lập thành lá số.

Thí dụ như cách “Tả Hữu giáp Thân, Mệnh an tại Dần, Tuất” là phú quý, đàn bà giàu có, kẻ vì người mong và cũng là cách không thể nào xảy ra khi an sao, lập thành lá số (trang 117 - Tự điển Tử Vi – Tác giả Đắc Lộc).
Nếu ở trang 179, cũng sách ấy tác giả nói đến cách:

Vũ, Liêm đồng cung bần cùng” thì tác giả Nguyễn Mạnh Bảo cũng luận về sự Sinh Khắc Chế Hoa của các sao như sau:

Ví dụ như Vũ Khúc là Kim tinh với Liêm Trinh là Hoả tinh, cùng ở với nhau tuy Vũ Khoá là tài tinh, có kiếm được đi chăng nữa thì cũng phải hết vì Liêm Hoả khắc Vũ Kim.

Thật ra không thể nào tính được sao Vũ Khúc và Liêm Trinh đồng cung. Hai sao này luôn luôn ở vào phương vị hạp chiếu nhau, vì cùng nằm trong thứ tự của vòng sao Tử Vi.

Những sự sai lầm ấy, không có gì hại nhiều. Chỉ làm cho học giả Tử Vi mất thêm chút thời gian đọc sách bận rộn trí óc thêm một chút. Chỉ mất thì giờ chứ không có hại, vì khi áp dụng vào luận đoán, nhìn vào lá số, không gặp những cách kể trên thì thôi, không ai thắc mắc làm gì.

Những cách ấy, trường hợp ấy chẳng bao giờ xảy ra. Người nghiên cứu Tử Vi chẳng bao giờ gặp cách ấy trong lá số, để luận đoán, vì vậy cũng chẳng ai đặt thành vấn đề phân tách hoặc rút kinh nghiệm. Những cách ấy có thực đâu mà rút kinh nghiệm.

Chẳng hạn, cứ viết là:

Thất Sát đồng cung với Thiên Cơ thì thiện được bà phần”.

Người viết cứ việc viết, người đọc cứ việc bỏ thì giờ ra mà đọc. Người mới học Tử Vi, làm sao biết được rằng Thất Sát chẳng bao giờ đồng cung với Thiên Cơ.

Những điều kể trên cũng chỉ làm mất thì giờ, bận rộn trí óc người đọc sách chứ không có hại lắm, vì quý bạn nghiên cứu Tử Vi có bao giờ gặp được những cách ấy trong lá số nào đâu.

Còn nhiều cách lẩm cẩm tương tự. Nhưng chúng tôi không làm công việc điểm sách Tử vi vì e rằng có những sự hiểu lầm. Thực lòng, chúng tôi chỉ mong góp một phần nhỏ trong việc bảo tồn và làm sáng tỏ chân lý Tử Vi mà thôi. Chúng tôi xin đề nghị với quý bạn mới nghiên cứu Tử Vi nên chịu tốn công một chút, học cách an sao thuộc lòng, cũng như người làm tóan thì cần thuộc lòng bản cửu chương. Chừng ấy quý bạn có thể tự mình nhận xét, tìm thất những cách không hề xảy ra khi an sao, lập thành lá số. Thí dụ như khi đã quen với cách tính thuộc lòng, lại thất sách viết: “Tử Vi có Thái Âm, Thái Dương hợp chiếu” lúc ấy quý bạn có thể nhận ra rằng đó là một quái thai Tử Vi vậy.

Nếu theo cách an sao trong các sách Tử Vi hiện nay, thì không một tuổi nào có Kình Dương ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, quý bạn cứ xem lại các sách Tử Vi thì sẽ rõ.
Tuổi Giáp, tuổi Mậu thì tuyệt đối không khi nào có Kình Dương ở Dần, Thân.

Còn đối với các tuổi khác thì có thể, theo một cách tính Tử Vi xưa, có Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi không phải ngẫu nhiên mà có chuyện Kình Dương đắc đại ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Trong một số đáng kế những lá số Tử Vi viết và luận sắc sảo bằng chữ Hán mà chúng tôi sưu tầm được, thì thấy có tính đến Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Ngoại trừ hai tuổi Giáp và Mậu.

Riêng trong cuốn Tự Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản năm 1952, có nói vắn tắt là Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Nhưng trong phần an sao thì cũng không trình bày cách tính thế nào mà được Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Tị, Hợi.

Sách Tử Vi Chỉ Nan của tác giả Song An Đỗ vẫn lưu xuất bản năm 1957, cũng có nói đến Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Hợi hãm ở Tị. Thế mà trong phần an sao, cũng không chỉ dẫn tính cách nào cho có được Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi.

Chẳng lẽ đã viết sách lại còn giấu nghề, nhất là đã có công sưu tầm sách chữ Hán để dịch ra chữ Việt. Có lẽ quý vị ấy cũng chưa khám phá hết cái sai lầm có dụng ý của người xưa.

Ông Cao Trung đã có lần nói đến những cái “ sai lầm có dụng ý” của người xưa, trong lá thư Toà soạn kỳ bào số 20.

Chúng tôi được biết số, hiện nay có một thầy Tử vi uyên thâm tại Sài Gòn, khi bấm số Tử vi vẫn tính có trường hợp Kình Dương đóng ở Dần Thân, Tị, Hợi. Nhưng cũng chẳng nói với ai. Không hẳn là vị Thầy ấy giấu nghề. Đứng vào tư thế của một người hành nghề, lại đưa ra một kinh nghiệm, hoặc một quan niệm có vẻ đi ngược lại trào lưu (dù là trào lưu sai lầm) thì dễ gặp những sự chống đối, chất vấn, có khi đi đến chỗ đánh đố vặt, chẳng lợi lộc gì, chi bằng cứ giữ im lắn, chẳng thiệt thòi, lại đỡ va chạm, thêm ồn ào.

Trong một bài khác chúng tôi sẽ trình bày trường hợp Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi và cũng trình bày một vài quan niệm về các trục Tý - Ngọ, Mão - Dậu, Dần – Thân, Tị - Hơị, Thìn - Tuất, Sửu – Mùi.

Bây giờ xin trở lại với điểm chính của bài này.

Nếu những công thức tưởng tượng như đã kể trên không làm hại cho việc luận đoán một lá số ( vì làm gì có những công thức ấy khi an Sao) thiì những câu phú chữ hán được dịch một cách ngớ ngẩn đã làm cho người nghiên cưú Tử Vi rơi vào một “ Mê hồn trận”. Thí dụ như một số câu phú sau đây:

Mộc Dục độc thủ, chỉ hảo dã dong

Được dịch:

“Thân, Mệnh có một sao Mộc Dục toạ thủ thì chỉ làm thợ bạc hay thợ rèn” (trang 47, Tử Vi Đẩu Số, quyển Hạ tác giả Nguyễn Mạnh Bảo).

Cùng viết một các chữ “Dã” có hai nghĩa: một nghĩa là nấu đúng đổ kim khí, nghĩa thứ 2 là trau dồi vẻ đẹp.

Và Dã Dong, hay là Dã Dung là một chữ kép có nghĩa là trau dồi, làm dáng, trau dồi dung mạo.

Lại như câu:

Thái Tuế phùng Thất Sát
Mệnh viên, hung trung gia diệu toán

Được dịch là:

Mệnh có Thái Tuế gặp Thất Sát tuy trọng hung nhưng phải xem các thủ chiếu rồi mới đoán (trang 90, Tử Vi Bổ Túc N, M.  

Hung là lồng ngực, cái ngực của thân mình.

Hung trung là trong lòng.

Gia Diệu Toán là thên tính toán giỏi.

Câu ấy chỉ có nghĩa là Thấy Sát và Thái tuế ở Mệnh thì trong lòng thêm cơ mưu, tính toán giỏi.

Câu này tương tự như câu “Thái Tuế phùng Thất Sát, trí dùng hữu dư” vậy.

Chữ “Hung trung” là để đối lại với chứ “Thân thượng” trong câu”:

“Trường Sinh hội Thiên Lương, ư Phúc địa thân thượng hữu kỳ tài”.

Có lắm trường hợp, câu chữ Hán được in vào sách, gần như chỉ để trang trí cho cuốn sách Tử Vi đó mà thôi.

Thí dụ như câu:

Tinh lâm miếu vượng địa, tái quan sinh khắc chi ư”
“Mệnh sinh cường cung, tế sách chế hoá chi lý
(Tử vi Đẩu Số - Nguyễn Mạnh Bảo – trang 2 - quyển Hạ)

Câu chữ hán đã in sai, còn lời giải thích thì mông lung, gần như không có liên hệ đến câu chữ hán.

Chúng tôi xin miễn nói lại ý nghĩa hai câu này, vị cụ Quản văn Chính đã giải thích rõ trong đặc san này, số 7 và số 9.

Gặp những chữ hán, tương tự như vài chữ Việt, mà vội vã thông qua, vội dịch theo cái cảm quan của riêng mình, thì cũng dễ tạo thành chuyện khôi hài.

Thí dụ như câu:

“Phá toạ ly, ngôn ngữ thô bạo, phùng Lộc, Dương, năng giải xướng cuồng’.
(Tử Vi Đẩu Số tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang – trang 143).

Dịch là:

“Cung Mệnh an tại Ngọ có Phá toạ thủ, nên hay gắt gỏng thô lỗ. Đây, nếu Phá, hoặc gặp lộc đồng cung hoặc gặp Thiếu Dương hội hợp lại vui tính, hay đùa bỡn”.

Chữ “Xướng cuồng” đây nghĩa là làm càn, làm xằng bậy, chứ nào có nghĩa vui sướng, hát xướng, cuồng loạn, rửng mỡ!

Chữ “ Năng giải xướng cuồng” có nghĩa là có thể giả được sự làm càn, làm xằng bậy, đối lại với mấy chữ “ Ngôn ngữ thô bạo” ở trước.

Lại có trường hợp, một câu chữ Hán bị sửa sai lệnh hẳn đi chỉ vì người luận đoán không khiểu nghĩa câu chính.

Thí dụ như câu: “Tử Vi tu cần Tam Hoá, nhược phùng Tứ Sát, phong bãi hà hoa”.

Chữ “Bãi” nghĩa là đưa qua đưa lại.

“Phong bãi hà hoa” là gió thổi cành hoa sen đưa qua, đưa lại, là canh hoá vị gió vùi dập.

Ấy vậy mà chúng tôi đã gặp câu này, trong một vài trường hợp khác lại được sửa là “ Phong Bão hà hoa”.

Thật là một sự phối hợp kỳ diệu chữ Bão (chữ Việt thuần tuý) và chữ Phong ( Chữ Hán Việt) - Chữ Hán làm gì có chữ Phong Bão là gió bão.

Như đã trình bay ở trên, chúng tôi không làm công việc điểm sách Tử Vi, e rằng có sự hiểu lầm.

Trong những sách Tử Vi kể trên cũng như trong một số sách Tử Vi khác, còn nhiều công thức các bộ sao tưởng tượng, mà dường như sách sau chép lại của sách trước, và cũng còn nhyiều câu chữ Hán dịch quá cẩu thả.

Chúng tôi chỉ nên lên một vài trường hợp đặc trưng. Mong rằng quý soạn tác giả khi xuất bản hoặc tái bản sách Tử Vi nên lưu ý thận trọng hơn.

Chúng tôi xin thành thật khâm phụ hầu hết quý vị soạn giả sách Tử Vi., vì đã có công rất lớn trong việc mở đường cho phong trào nghiên cứu Tử Vi được sâu rộng như ngày nay. Tiếc rằng mới đây trên thị trường, đã có cuốn sách Tử Vi, đầy rẫy những lỗi lầm tử phần ấn loát đến phần dịch thuật, mà có lẽ không nói đến tên cuốn sách ấy, quý vị trong giới Tử Vi đều có thể nhận biết dễ dàng. Đó thật là Tử Vi gặp Tứ Sát vậy.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điểm sai lầm trong các sao tử vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd