Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy sân vườn –

"Mặt tiền" vườn cần phải quang đãng, thoáng, có thể thiết kế hòn non bộ, hồ nước hay dòng nước chảy nhẹ để tạo sinh khí cho gia viên. Phía sau vườn cần đặt vật kiên cố, có nét vững mạnh như đá tảng, cây cao to, cụm tre... Ông Đinh Quang Diệp, Trưởng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Mặt tiền” vườn cần phải quang đãng, thoáng, có thể thiết kế hòn non bộ, hồ nước hay dòng nước chảy nhẹ để tạo sinh khí cho gia viên. Phía sau vườn cần đặt vật kiên cố, có nét vững mạnh như đá tảng, cây cao to, cụm tre…

Ông Đinh Quang Diệp, Trưởng Bộ môn Cảnh quan và Kỹ thuật hoa viên, Khoa Môi trường và Tài nguyên, Đại học Nông Lâm TP HCM, cho biết, việc bố trí gia viên theo thuyết phong thủy hiện đại giúp con người xây dựng một cuộc sống hài hòa với thiên nhiên dù ở đô thị hay vùng quê.

Lý luận trong lĩnh vực này chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. “Phong” tức là gió và các tác động của gió, trạng thái thời tiết. “Thủy” là nước, ao, hồ, sông, rạch và tác động của nó đến môi trường. Phong thủy là cách sắp xếp mọi thứ chung quanh để tạo nên môi trường sống hài hòa “âm – dương, ngũ hành”. Phong thủy sân vườn giúp điều khiển sự lưu thông của khí để sinh khí trong vườn luôn hài hòa và hiện diện trong mọi ngóc ngách của vườn.

Xuất phát từ nguyên lý “sơn thủy họa”, sân vườn cần có sự tương phản giữa các hình sắc, thể chất. Ví dụ: vẻ cứng mạnh, cường tráng của núi đá, non bộ tương phản với ao nước sâu lắng; giữa sự tĩnh mịch và tiếng chim ríu rít, nước róc rách; giữa ánh sáng và bóng tối; giữa sắc đỏ, cam rực rỡ và lục, xanh sẫm.

Nhìn chung một khu vườn lý tưởng cần kết hợp được các vật liệu, màu sắc, hình dạng theo phương hướng ngũ hành. Ví dụ các vật dụng trang trí tượng trưng cho 5 yếu tố như: ao hồ (Thủy), tượng đồng (Kim), cây (Mộc), vật có màu đỏ và cam (Lửa), đất vườn (Thổ). Căn cứ vào bảng tóm tắt các biểu tượng của âm dương sau đây, gia chủ có thể lựa chọn màu sắc, hình dáng của vật trang trí hài hòa:

phongthuyok-1355203368_500x0

Hướng sân vườn:

Là hướng mà chủ nhân ra vào vườn. Ví dụ vườn ở mặt trước nhà thì hướng vườn là hướng từ ngoài đường vào vườn. Trong phong thủy, hướng vườn được xác định trùng với hướng của cung danh vọng (trong bát quái đồ, xem ở hình dưới). Ngoài ra, với các vườn có nhiều lối vào thì hướng vườn được quan niệm là hướng sinh khí có ảnh hưởng nhiều nhất.

Sau khi xác định hướng vườn, đặt bát quái đồ (ảnh phía dưới) lên trên sơ đồ vườn sao cho hướng “cung danh vọng” của bát quái đồ trùng với hướng vườn. Từ đó sẽ xác định được các cung vị còn lại tương ứng với từng lĩnh vực sinh hoạt của gia đình.

Trong trường hợp nhà có 2 khu vườn phía trước và phía sau: Nếu 2 vườn có mối liên hệ với nhau và cùng với nhà là một chỉnh thể thống nhất, đặt bát quái đồ với tâm là tâm khu đất, hướng cung danh vọng trùng với hướng cổng; ngược lại, hai vườn tách biệt nhau thì mỗi vườn được xét riêng biệt.
phongthuyghep1-1355203368_500x0

phongthuy10-1355203368_500x0

Bát quát đồ giản lược (trái). Xoay bát quái đồ sao cho hướng vườn trùng hướng với “cung danh vọng” để xác định hướng bố trí các khu vực sinh hoạt của gia đình.

 

Bát quái đồ xoay cung danh vọng theo hướng sân vườn, ta sẽ biết cách sắp xếp bố cục trang trí sân vườn như sau:

– Khu vực cung danh vọng: Đây là nơi lý tưởng để tiếp đãi khách hoặc trồng hoa để tạo ấn tượng. Đừng sử dụng khu vực này vào bất kỳ việc gì riêng tư cần sự yên tĩnh.

– Cung sức khỏe: Là nơi lý tưởng để thư giãn, nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe, nên đặt suối hay vòi nước phun. Tiếng nước róc rách và những loại thảo dược trồng ở đây có tác dụng thư giãn, trị bệnh.

– Cung hoan hỷ: Khu vực vườn này dành cho vui chơi, có thể đặt bàn tiếp đãi bạn bè, hay hồ bơi hồ tắm lộ thiên.

– Cung sự nghiệp: Có thể đặt ở đây nhà kính hay nơi ươm cây tượng trưng cho việc nghiên cứu, hay sự phát triển liên tục các mầm sống mới.

– Cung Quan hệ: Thích hợp trồng các cây lưu niên, hoặc cây ăn quả hoặc là nơi diễn ra các hoạt động chia sẻ, tâm tình với người thân. Điều này tượng trưng cho việc muốn luôn lưu giữ mối quan hệ tốt đẹp với nhau.

– Cung Gia đạo: Với các gia đình có trẻ em, đây là góc thích hợp dành cho bé chơi đùa, có thể là một bãi cỏ rộng với các trò chơi, các tiểu kiến trúc trẻ trung.

– Cung Tri thức: Phần vườn này thích hợp là nơi đọc sách, học hành và các hoạt động phát triển trí tuệ lẫn tâm hồn.

– Cung Tài lộc: Đây là cung mang ý nghĩa thịnh vượng về tiền tài, vật chất, của cải. Có thể đặt nhà kho cất giữ các đồ có giá trị như máy cắt cỏ, đồ gỗ ngoài trời. Có thể là nơi ươm trồng hoa, cây cảnh để bán.

Lối đi và cổng vào vườn:

Nhằm cân bằng không gian trong và ngoài nhà, một khu vườn được xây dựng phía trước như khoảng trung gian quy tụ và cải thiện sinh khí trước khi vào nhà. Lối vào cổng vừa là lối đi chính của khí. Do đó cần tạo sự cuốn hút khí và tạo lối đi cho khí hài hòa, uyển chuyển trong vườn. Tránh lối vào quá thẳng, vì như vậy khí vào vườn quá mạnh, không quân bình luồng khí ở mọi điểm. Hướng lối vào và loại khí nhận được ở mỗi phương có một tính chất khác nhau.

– Hướng Nam (căn cứ vào la bàn): Hướng cát khí, dương khí, tuy nhiên có thể cần tiết chế vì sẽ thừa dương khí. Vì vậy, lối vào vườn cần thông thoáng nhưng không quá rộng tránh khí ùa vào quá nhanh.

– Hướng Bắc: Lối vào vườn từ hướng này cần rộng với lối đi thẳng hoặc hơi cong vì khí đến từ phương này vốn chậm chạp và nặng nề.

– Hướng Tây: Khí đến là khí dữ nên hạn chế sinh khí vào vườn bằng hướng này.

– Hướng Đông: Đây là khí lành nên cần được khuyến khích, lối vào vườn từ hướng này thông thoáng và rộng rãi, cũng cần tiết chế một ít.

Hình dạng của cổng vườn: Nếu quá rộng khí sẽ bị thổi vụt đi mất, nếu quá hẹp khí sẽ trở nên quẩn. Thông thường nên dùng loại cổng song thưa, chỉ nên dùng cổng kiên cố nếu bên ngoài là khí độc hại cần cản trở. Với nhà ở hướng Đông, ứng với hành Mộc, nên dùng cổng gỗ. Nhà ở hướng Tây, ứng với hành Kim, nên dùng cổng kim loại.

Vật liệu lối đi trong vườn có thể thay đổi và sử dụng nhiều loại với màu sắc sáng hay tối tùy thuộc vào tương quan với các thành phần tạo cảnh lân cận.

vuonphongthuyoik-1355203368_500x0

Ngoài ra có thể sắp xếp sân vườn theo nguyên tắc Tứ Linh (lấy ngôi nhà làm tâm để xác định 4 hướng còn lại). Bố cục này thực chất dựa vào mô hình cảnh quan lý tưởng nhằm tạo ra môi trường mà trong đó nhà được che chở bốn bề, khí vào nhà luôn được điều tiết và thanh lọc thông qua mô hình: Tiền án (Chu tước) – Hậu chẫm (Hắc quy), Tả Thanh long – Hữu Bạch hổ.

Cụ thể áp dụng nguyên tắc này như sau: người đứng trước cửa nhà, trước mặt là hướng “tiền”, sau lưng là “hậu”, bên tay trái là “tả”, tay phải là “hữu”. Việc bố trí vật ở 4 hướng phải đạt yêu cầu sau:

– Tiền: ở khu này cảnh quan phải quang đãng, thoáng, có thể thiết kế hòn non bộ, hồ nước hay dòng nước chảy nhẹ để tạo sinh khí cho gia viên.

– Tả: Cần thêm đá và cây cỏ um tùm hay đồi thấp Bố trí vật ở bên tả làm sao để cao hơn “Thanh long” trấn được “Bạch hổ”.

– Hữu (Bạch hổ) nên bố trí bằng phẳng để hàng phục tiềm năng bất kham của mãnh hổ.

– Hậu: Cần vật liệu kiên cố, có nét vững mạnh như đá tảng, cây cao to, cụm tre.

Ngoài ra có thể dùng la bàn để xác định hướng: Bắc bố trí vật tương ứng với “hậu”. Hướng Đông tương ứng “tả”. Hướng Tây là “hữu”. Hướng Nam là “tiền”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy sân vườn –

Mơ thấy tấm gỗ: Chỉ an toàn khi tự giải quyết vấn đề –

Nếu mơ thấy mình đứng yên trên một tấm gỗ, dự báo người nằm mơ sắp phải gánh lấy những hiểm nguy trong vấn đề tình cảm. Hình ảnh tấm gỗ trong mơ cho thấy người nằm mơ chỉ có thể an toàn và ổn định khi tự thân giải quyết những yêu cầu của cuộc sống. &
Mơ thấy tấm gỗ: Chỉ an toàn khi tự giải quyết vấn đề –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tấm gỗ: Chỉ an toàn khi tự giải quyết vấn đề –

Kỵ làm cổng chính theo kiểu lồi ra ngoài –

Khi đi tìm thuê hoặc sửa chửa lại cửa hàng phải chú ý cẩn thận đến cổng, cửa của cửa hàng. Cổng, cửa cửa hàng có 3 loại: 1. Cánh cửa kéo thẳng. 2. Cánh cửa mở vào trong. 3. Cánh cửa đẩy hai chiều. 4. Ngoài ra còn một loại nửa là bên ngoài xông thẳng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi đi tìm thuê hoặc sửa chửa lại cửa hàng phải chú ý cẩn thận đến cổng, cửa của cửa hàng. Cổng, cửa cửa hàng có 3 loại:

cua-hang

1. Cánh cửa kéo thẳng.

2. Cánh cửa mở vào trong.

3. Cánh cửa đẩy hai chiều.

4. Ngoài ra còn một loại nửa là bên ngoài xông thẳng vào.

Hình thức cửa thứ nhất là phổ thông nhất. Hình thức cửa thứ hai là tốt nhất, mở vào bên trong có nghĩa là nhận khí tít bên ngoài vào.

Hình thức thứ ba mang phong cách hiện đại, nếu thiết kế hợp lý thì vừa đẹp về mỹ quan mà cũng đẹp về phong thủy. Riêng trường hợp thứ tư thì rất xấu. Hĩnh thức cửa kiểu này không những không thể tụ khí vượng tài mà còn thất thoát và không an toàn về giao thông, gây nguy hiếm cho nhân viên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỵ làm cổng chính theo kiểu lồi ra ngoài –

7 loại cây trồng trong phong thủy để chiêu tài lộc

Cây hoa đồng tiền trong phong thủy còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình.
7 loại cây trồng trong phong thủy để chiêu tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cây phất dụ

Cây phất dụ còn được gọi là cây phát tài (do cách đọc của người Trung Quốc: phất dụ đồng âm với phát tài), trong phong thủy, đây là loài cây mang lại may mắn cho gia chủ.

Cây phất dụ có hơn 20 loài cùng họ ở Việt Nam. Trong đó, gần như cây nào cũng mang lại may mắn, phát tài đúng như tên gọi của nó: Phất dụ xanh – biểu tượng của may mắn; phất dụ thơm – là cây thiết mộc lan, thơm về đêm; phất dụ rồng – còn gọi là huyết rồng, được dùng làm thuốc chữa bệnh; phất dụ lá hẹp – còn gọi là bồng bồng, thường dùng làm bánh; phất dụ trúc xua đi vận đen, vận hạn còn gọi là trúc thiết Quan Âm…

7 loại cây chiêu tài lộc trong phong thủy

Trồng cây phất dụ (phát tài) không nên trồng trong nhà vì lá cây này nếu dùng trong nhà nhiều sẽ không tốt cho sức khỏe, tuy nhiên, một chậu cây nhỏ thì không ảnh hưởng lắm.

Bạn nên trồng phất dụ ở phía Đông hoặc Đông Nam ngôi nhà – khu vực đại diện cho Mộc và là nơi có ánh sáng thích hợp cho cây.

2. Cây lộc vừng

Theo cha ông xưa thì “Lộc” ứng với tài lộc, “Vừng” ứng với nhỏ nhưng nhiều. Hoa màu đỏ tượng trưng cho hỷ sự, tức là chuyện vui trong nhà. Tóm lại, cây lộc vừng có ý nghĩa mang lại nhiều lộc, nhiều niềm vui trong gia đình.

Nên trồng cây ở sân trước, vị trí thoáng đãng cả 4 phía để tán cây phát triển đều.

3. Cây kim tiền

Kim tiền thuộc cây cảnh họ Thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất. Mầm nảy mạnh và hình thành nhiều thân nhỏ. Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 - 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy, kim tiền được coi là cây “phát” - Kim phát tài.

Được coi là loại cây "phú quý", có tác dụng chiêu tài nên kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương. Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt.

Nên bày cây ở hướng Đông, Đông Bắc trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.

4. Vạn niên thanh

Vạn niên thanh sống lâu năm mà vẫn xanh tốt, mùa đông lá không héo úa nên được coi là loài cây cát tường, sử dụng rộng rãi. Dùng vạn niên thanh trong ngày lễ tết là ngụ ý sung túc tốt đẹp, trong việc hôn nhân là cầu chúc như ý, trong lễ mùng thọ là để chúc sống lâu.

Tuy nhiên, không nên trồng cây vạn niên thanh trong nhà, đặc biệt là phòng ngủ vì cây có chất độc, khi vô tình bị nhựa cây dính vào mắt, da sẽ gây bỏng rất, nhất là trẻ nhỏ.

5. Cây ngọc bích

Cây ngọc bích có nguồn gốc từ châu Á. Ở một số nước, loài cây này còn có tên gọi khác là cây thường xanh. Tại Việt Nam, nhiều nơi gọi là cây hoa đá. Dựa vào ứng dụng phong thủy cổ đại, cây ngọc bích được đặt đúng vị trí sẽ mang lại sức khỏe và sự may mắn.

7 loại cây chiêu tài lộc trong phong thủy

Với đặc tính rất dễ nhân giống, chỉ cần lấy một chiếc lá đặt xuống đất ẩm thì nó sẽ nảy mầm mọc thành cây mới. Ngọc bích được coi là biểu tượng của sự chia sẻ và tình bạn. Ngoài ra, tên gọi thường xanh còn tượng trưng cho tuổi trẻ vĩnh hằng. Đây là loài cây không ưa nước. Do đó, bạn hãy để chúng ở nơi thoáng mát, có đủ ánh sáng và nhiệt độ thấp.

6. Hoa đồng tiền

Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình.

Là biểu tượng của mùa xuân. Chúng cũng rất hữu ích trong việc lọc khí benzen - thường có mặt trong nhiều loại sơn. Vì thế, nếu bạn vừa sơn lại phòng, nên đặt một chậu hoa đồng tiền để loại bỏ các hạt benzen lơ lửng trong không khí.

7. Hoa cúc

Trồng những chậu cúc nhỏ hay cắm hoa cúc có thể giúp ổn định phúc khí trong nhà. Cũng lưu ý rằng, hoa cúc nên đặt nơi có nhiều ánh sáng trong nhà để sự may mắn thêm mạnh mẽ và rực rỡ.

Ngoài ra, nguồn năng lượng mà hoa cúc đem lại khiến cho gia chủ có một cuộc sống bình dị và cân bằng trong mọi việc. Đồng thời, nó cũng mang đến may mắn cho ngôi nhà.

Chuyên mục Phong Thủy Đời Sống - Tạp chí Lịch Vạn Niên 365


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 loại cây trồng trong phong thủy để chiêu tài lộc

Tâm linh - Huyền bí-001

Lời Nguyền kinh hoàng của xác chết 5.300 năm. Một xác ướp cách đây 5.300 năm đã trở nên nổi tiếng bởi sự bảo quản tuyệt vời nhờ băng tuyết, và nhất là những bí ẩn kinh hoàng xung quanh nó khiến người ta không thể lý giải được.
Tâm linh - Huyền bí-001

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người ta vẫn quen gọi là “Lời nguyền của người băng Otzi.” Đó là "Người băng Otzi" - đây cũng là tên gọi của một xác ướp tự nhiên được bảo quản trong tuyết lạnh có niên đại cách đây 5.300 năm.

Xác ướp này được các nhà khoa học phát hiện ra từ năm 1991 trên dãy núi Alps, biên giới của nước Áo và Italy. Tên của xác ướp được các nhà khảo cổ đặt theo tên của thung lũng nơi nó được tìm thấy.

Xác ướp này được xác định là của một người đàn ông và được xem là xác ướp cổ nhất được bảo quản tự nhiên ở châu Âu.

Hiện xác ướp đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở phía Bắc Italy. Không giống những xác ướp khác, xác ướp Otzi dù đã được các nhà khoa học thực hiện hàng trăm nghiên cứu nhưng vẫn ẩn chứa nhiều bí ẩn bất thường.

Mặc dù xác ướp được xác định là có niên đại khoảng 5.300 năm, thế nhưng, trên xác ướp người ta lại thấy một mũi tên có niên đại 7.000 năm, một chiếc rìu thuộc niên đại 2.000 năm và một chiếc áo niên đại 8.000 năm. Điều này cho thấy, không lẽ người đàn ông này đã sử dụng tên và áo khoác của cụ tổ nhưng lại cầm rìu của… con cháu mình.

Từ đó, các nhà khoa học đưa ra giả thuyết, đây có thể là một phù thủy có khả năng đi xuyên thời gian nên ông ta mới có được những vật dụng của các thời đại khác nhau…

Và, đến cả nguyên nhân về cái chết của người băng cũng là bí ẩn. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn không thể xác định được người đàn ông này chết là do bị giết hay gặp bão tuyết hoặc bị hiến tế…???

Xác ướp này được phát hiện bởi một cặp vợ chồng người Đức là Helmut và Erika Simon. Ban đầu, người ta nghĩ đây chỉ là một xác chết bình thường. Và, tất cả họ không biết rằng, xác ướp có niên đại 5.300 năm và từ nó đã dẫn tới một loạt những tai họa sau đó. Có một sự thật không thể phủ nhận là 7 mạng người liên quan tới người băng Otzi đều biến mất.

Nạn nhân đầu tiên chính là người đã tìm ra xác ướp này - ông Helmut Simon. Ông này đã đòi hơn 100.000 USD tiền công tìm ra xác ướp và được đồng ý.

Ông đã vui mừng trở lại vùng núi tuyết để ăn mừng nhưng bỗng nhiên một cơn bão tuyết xuất hiện đột ngột đã vùi chết Helmut. Ông ta được tìm thấy trong tư thế co ro y như người băng.

Người thứ 2 là giáo sư Rainer Henn, 64 tuổi, dẫn đầu đội nghiên cứu xác ướp, người đã tham gia quá trình khám nghiệm người băng.

Một lần, khi đang trên đường đến một buổi hội thảo về người băng Otzi, xe của Henn đâm vào một chiếc xe khác và ông chết ngay lập tức. Các cơ quan an ninh đã không tìm được nguyên nhân của vụ tai nạn.

Nạn nhân thứ 3 là nhà leo núi kinh nghiệm Kurt Fritz, người đã đưa giáo sư Henn cũng như nhiều người khác tham quan khác vị trí tìm ra người băng cũng bị tuyết vùi chết trong khi những người khác thoát nạn.

Nạn nhân thứ 4 là nhà làm phim Rainer Hoelzl - người đã đưa những tư liệu về người băng lên màn ảnh và công bố chúng ra khắp thế giới. Ông bị chết vì một căn bệnh lạ khiến ông đau đớn quằn quại trong nhiều tháng sau khi bộ phim tư liệu của mình được công chiếu.

Dieter Warnecke, 45 tuổi, người đã tìm ra chỗ Helmut Simon bị chôn vùi, là nạn nhân thứ 5. Chỉ vài giờ sau lễ an táng của Simon, Dieter chết do đau tim, dù cho thể trạng sức khỏe của ông rất tốt.

Konrad Spindler, 66 tuổi, là một nhà khoa học, đứng đầu một nhóm nghiên cứu, người từng thực hiện các khám nghiệm trên xác ướp người băng năm 1991. Konrad đột ngột chết mà không rõ nguyên nhân.

Tom Loy, 63 tuổi, một nhà khảo cổ học, người đã phân tích những mẫu máu trên vũ khí và quần áo của người băng là nạn nhân thứ 7. Ông này chết khi đang thực hiện những nghiên cứu về người băng.

Từ sau 7 cái chết bí ẩn, ai cũng sợ rằng mình là nạn nhân tiếp theo. Tại địa điểm trưng bày người băng, có nhiều khách tham quan cứ nhìn vào người băng là ngất mà không phải do phòng trưng bày thiếu khí.

Đến tận bây giờ, vẫn không ai lý giải nổi các câu hỏi về thân thế, cuộc đời của người băng. Và "lời nguyền" dẫn tới 7 cái chết kia có thật hay không, cũng không ai biết đích xác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tâm linh - Huyền bí-001

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Giáp Thìn

Người sinh ngày Giáp Thìn thông minh, vô lo vô nghĩ tuy nhiên đường tình duyên khá kém. Hãy cùng ## khám phá thêm.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Giáp Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Giap Thin hinh anh
 
Trụ ngày Giáp Thìn có mệnh chất Mộc Thổ Thủy tạo nên tính cách trọng chữ tín và trí thông minh. Ngoài ra, họ có mệnh chủ thuộc Thìn Thổ có năng lượng cân bằng, mang đặc điểm giống Ất Thổ, Quý Thủy và Mậu Thổ, nên có năng lực nhưng không quá chăm chỉ, tính cách không nóng không vội, vô lo vô nghĩ. Vậy nên trụ ngày Thìn Thổ có tính cách ôn hòa; đặc biệt, nữ mệnh là tuyệt sắc giai nhân, đa tài đa nghệ. Mệnh chủ nên kết hợp với trụ ngày Kỷ Dậu, trong cuộc sống tất gặp Hợi Thủy. 
21 thần khí phong thủy chiêu tài nạp phúc 2016: Thất tinh trận đồ
Thất tinh trận đồ là thần khí phong thủy có tác dụng trấn sát, cầu may. Để đạt được công dụng tối đa khi sử dụng, hãy cũng lichngaytot tìm hiểu.
Người sinh ngày Giáp Thìn có tài, phát triển nhanh chóng từ trung vận, thích hợp theo đuổi các nghề: học giả, giáo viên, bác sĩ, nhà truyền giáo. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên những người này nhận được phúc lộc trong cuộc đời. Điều đáng tiếc là sinh vận của họ không mạnh, không dễ đạt được công danh. Các chuyên gia nhận định, những người sinh ngày Giáp Thìn nên thuận theo tự nhiên, không nên miễn cưỡng, như vậy mới có thể đạt được thành tựu trong sự nghiệp và cuộc sống.   Đường hôn nhân của người sinh ngày Giáp Thìn khá kém. Nam mệnh nhận được sự giúp sức của vợ, nhưng cần chú ý sức khỏe của người bạn đời. Trong khi đó, nữ mệnh có tính cách ngoan cường, cả đời lo lắng việc chồng ngoại tình.   Bát tự trụ ngày Giáp Thìn thích hợp kết hôn cùng những người sinh ngày: Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão, Bính Thân, Bính Tuất, Bính Thìn, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Đinh Dậu, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Mậu Tý, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi, Kỷ Mùi, Canh Thân, Canh Tý, Canh Dần, Tân Mùi, Tân Hợi, Tân Dậu, Tân Mão, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi, Quý Mùi.
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn  Xem thêm Clip: Bí mật của may mắn

   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Giáp Thìn

Mậu Ngọ mệnh gì –

Người sinh 1978, Mậu Ngọ, có Ngũ hành năm sinh là Thiên Thượng Hoả, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung TỐN, hành MỘC, hướng Đông Nam, quái số 4, sao Tứ Lục, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Bắc, Nam, Đông, Đông Nam). Đeo đá màu Đen, Xan
Mậu Ngọ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mậu Ngọ mệnh gì –

Xem tuổi chọn nghề –

Bạn có biết không, ngày sinh có tác động không nhỏ tới sự thành công trong sự nghiệp của bạn đấy. Vì vậy ngày sinh là một trong nhiều yếu tố để bạn xem xét khi chọn nghề. Thử mà xem, sẽ biết ngay bài viết này “phán” có đúng hay không! Bạch Dương (21/

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có biết không, ngày sinh có tác động không nhỏ tới sự thành công trong sự nghiệp của bạn đấy. Vì vậy ngày sinh là một trong nhiều yếu tố để bạn xem xét khi chọn nghề. Thử mà xem, sẽ biết ngay bài viết này “phán” có đúng hay không!

681080

Bạch Dương (21/03-19/04)

Bạn là người nhiệt tình, tỉnh táo, trực tính, có tham vọng, cứng cỏi và sáng tạo. Một sự nghiệp về truyền hình phát thanh, quảng cáo hoặc kiến trúc sẽ phù hợp với bản chất giàu tham vọng và sáng tạo của bạn. Do bạn là một nhà lãnh đạo bẩm sinh nên quân đội hoặc cơ quan pháp luật cũng sẽ là điểm đến hấp dẫn.

Kim Ngưu (20/04-20/05)

Bạn là người thực tế, làm việc có phương pháp, quả quyết, kiên nhẫn, chân thực và biết hoạt động theo nhóm. Hãy tìm kiếm công việc thuộc các lĩnh vực ngân hàng, kế toán và nghiên cứu khoa học.

Song Sinh (21/05-21/06)

Bạn rất lạc quan, tò mò, thông minh và luôn tràn đầy năng lượng. Bạn cần một công việc tạo được sự hứng thú và có cơ hội đi lại nhiều như hướng dẫn viên du lịch, nhà thám hiểm hoặc vị trí bán hàng cần phải di chuyển thường xuyên.

Cự Giải (22/06-22/07)

Bạn là người giàu tưởng tượng, can đảm, biết chăm sóc và che chở người khác. Bạn giỏi nhất trong việc đưa ra các lời khuyên, vì vậy hãy xem xét đến ngành luật, tâm lý học, giảng dạy, y tá hoặc công tác xã hội.

Sư Tử (23/07-22/08)

Bạn là người ghét gò bó, thích giao du, tự lập và sinh ra để lãnh đạo với niềm khát khao thực sự đối với quyền lực. Những đặc điểm đó sẽ giúp bạn trở thành những CEO, giám đốc, biên tập viên giỏi. Lý tưởng nhất là làm việc trong chính phủ.

Xử Nữ (23/08-22/09)

Tỉ mỉ, dí dỏm, vui tươi, ưa hoàn hảo, hướng chi tiết, chăm chỉ và ngăn nắp cùng với sở trường về ngôn ngữ – đó là bạn. Do đó, lựa chọn nghề nghiệp hoàn hảo của bạn là kỹ sư, nhà thống kê, nhà nghiên cứu hoặc biên dịch viên.

Thiên Bình (23/09-22/10)

Bạn có tài ngoại giao, hấp dẫn, giỏi giao tiếp, dễ gần và có tinh thần sẵn sàng hợp tác. Cảm nhận của bạn về việc hợp tác cùng với thỏa hiệp đồng nghĩa bạn sẽ làm tốt ở chiếc ghế luật sư, nhà môi giới, nhà thương thuyết hoặc nhà quản lý.

Bọ Cạp (23/10-21/11)

Bạn có cảm nhận trực giác rất nhạy bén, thông minh, có óc phân tích, chăm chỉ, tích cực, tận tụy và tháo vát. Với bản tính thích giải quyết những bí ẩn, bạn rất phù hợp với công việc điều tra, luật, vật lý học, nghiên cứu và viết lách.

Nhân Mã (22/11-21/12)

Bạn có thái độ tích cực, năng lượng vô hạn, yêu thích du lịch. Một vị trí bán hàng sẽ là lý tưởng. Ngoài ra bạn có thể nghiên cứu công việc PR, quản lý xã hội.

Ma Kết (22/12-19/01)

Bạn rất cứng cỏi, đáng tin cậy, có trách nhiệm, giỏi tổ chức, hướng mục đích, có tư duy lô gíc và tháo vát. Bạn sẽ phát triển với các vị trí quyền lực hoặc có liên quan đến tiền hoặc toán học. Hãy xem xét vị trí IT bởi bạn cũng rất yêu thích phần mềm và máy tính. Bạn còn phù hợp với nghề bác sĩ, thư ký hoặc luật sư.

Bảo Bình (20/01-18/02)

Thông minh, độc đáo, nhân đạo, nhìn xa trông rộng là đặc điểm của bạn. Hãy lựa chọn các công việc về thiên văn học, lịch sử tự nhiên, hàng không, nhiếp ảnh, thơ ca.

Song Ngư (19/02-20/03)

Bạn là người hào phóng, thân thiện, nhạy cảm, có óc thẩm mỹ, nồng nàn và linh hoạt. Bạn sẽ làm tốt trong bất kỳ lĩnh vực nghệ thuật nào như kịch, văn học, hội họa, âm nhạc. Nhưng đam mê của bạn cũng khiến bạn đủ khả năng đảm đương công tác từ thiện xã hội và thẩm phán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi chọn nghề –

Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Một bài viết tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên. Mời mọi người cùng đọc.
Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên về dịch số, quẻ dịch, mai hoa trên các diễn đàn lý số

Sự Thiếu Sót của quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ

Vinhl, Thứ tư, 20/05/2009 | 01:35, hỏi:

Xin Chào các bạn,

Gần đây VinhL cùng với một người bạn nghiên cứu và bàn luận về quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ, qua nhiều khảo nghiệm thì khám phá ra quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ chỉ sử dụng được 192 quẻ trùng một hào động.

VinhL xin giải thích như sau:

Quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ:

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, chia cho 8, lấy số dư làm Thượng Quái

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, Giờ (12 Chi), chia cho 8, lấy số dư làm Hạ Quái

Dùng tổng số lấy được khi tìm Hạ Quái chia cho 6, lấy số dư làm Hào Động.

Quẻ Mai Hoa dùng 64 trùng quái, mỗi quái có 6 hào, như vậy mỗi trùng quái có 6 quẻ một hào động. Như vậy toàn bộ có 64 x 6 = 384 quẻ một hào động.

Trong các phương pháp lấy quẻ Mai Hoa, ngoài trừ phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ, thì các phương pháp khác đều có thể lấy được bất cứ quẻ nào trong 386 quẻ một hào động.

Tại sao phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ của Mai Hoa chỉ có thể lấy được 192 quẻ một hào động mà không phải 384 quẻ?

Xin dẫn chứng như sau:

Thượng Quái = (Năm + Tháng + Ngày) – 8t, t=0,1,2,....

Hạ Quái = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 8h, h=0,1,2,...

Hào Động = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 6d, d=0,1,2,...

Từ sự tương quan giữa Hạ Quái và Hào Động ta có

Hạ Quái + 8h = Hào Động + 6d

tức là

(Hạ Quái – Hào Động) = 2 x (3d – 4h)

Vì vậy ta có

(Hạ Quái – Hào Động) / 2 = 3d – 4h

Theo công thức trên (Hạ Quái – Hào Động) / 2 phải là một số nguyên, tức (Hạ Quái – Hào Động) phải là một số chẳn. Như vậy muốn có được (Hạ Quái – Hào Động) là số chẳn thì Hạ Quái và Hào Động đều phải cùng là số chẳn hoặc số lẻ.

Từ đó ta có: Hạ Quái là số lẻ thì Hào Động là số lẻ, Hạ Quái là số chẳn thì Hào Động là số chẳn.

Nay xin liệt kê tất cả các quẻ có thể xảy ra khi dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa (một hào động).

Hạ Quái............ Hào Động....................... Tổng số quẻ

Càn 1................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Càn

Đoài 2............... 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Đoài

Ly 3.................. 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Ly

Chấn 4.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Chấn

Tốn 5................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Tốn

Khảm 6............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khảm

Cấn 7................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Cấn

Khôn 8.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khôn

24 x 8 = 192 quẻ một hào động.

Như thế phương pháp lấy quẻ Mai Hoa bằng Năm Tháng Ngày Giờ không phải đã thiếu đi một nửa bộ của dịch 384 quẻ một hào động không?

Kết quả trên cho thấy dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa thì các bạn sẻ không bao giờ lấy được quẻ Thiên Phong Cấu động hào 4, vì Hạ Quái Tốn là số 5, thì chỉ có thể động hào 1, 3, va 5 thôi.

Thiển nghỉ theo phương pháp của ông Thiệu Khang Tiết thì ta thấy Thượng Quái không thay đổi trong 1 ngày, Hạ Quái và Hào Động thì thay đổi từng giờ, mà mỗi giờ thì Hào Động lệ thuộc vào Hạ Quái và chỉ có thể động 1 hào trong 3, thay vì 6.

Để có thể sử dụng toàn bộ 384 quẻ một hào động thì phương pháp lấy hào động không nên lệ thuộc vào Hạ Quái. Có thể chỉ lấy giờ để tính hào động hoặc lấy tổng số (Ngày + Giờ) để tìm hào động.

Thân

Vâng, xin chào VinhL

Phương pháp phân tích, chứng minh và giải quyết vấn đề của anh VinhL, thông qua ví dụ diễn giải, đã làm sáng tỏ một cách minh triết vấn đề, mà không phải ai, khi đọc sách ứng dụng nó, nhìn nhận được ra. Cảm ơn anh.

Hà Uyên chỉ thắc mắc, đối với "Hoàng cực kinh thế" và "Mai hoa dịch số", cùng một tác giả, có lẽ Thiệu Ung xây dựng một hệ thống tính toán chặt chẽ hơn. Đây có phải do lỗi Nhà xuất bản không in, hay vì một lý do nào đấy không? Vậy mà cuốn sách vẫn được phát hành.

Hà Uyên cùng trao đổi với anh VinhL, ở góc độ này, Hà Uyên đang thống kê để tìm quy luật:

- Năm-Tháng-Ngày-Giờ, xác định được "thứ tự số" theo Tiên thiên, ví dụ Ngoại quái được "thứ tự số" là 3, Nội quái được "thứ tự số" là 7, ta được quẻ Hỏa Sơn Lữ.

- Khi theo Hậu thiên, thì số 3 Ngoại quái gồm những quẻ:3, 13, 23, 33, 43, 54, 63. Số 7 Nội quái gồm những quẻ: 7, 17, 27, 37, 47, 57

- Trên nguyên lý: Dịch luôn luôn biến đổi không ngừng - Vậy thì sau quẻ Hoả Sơn Lữ, sẽ tiếp diễn đến quẻ nào? Và khi nào thì xác định được "đầu" và "cuối" (có chung có thuỷ), có đầu có cuối?

- Khi chúng ta sử dụng hệ thống Thiên can để xác định thời điểm Khởi đầu - Kết thúc, Hà Uyên vẫn đang còn lúng túng về vấn đề này, Ví dụ:

+ BÍNH TÂN HỢP: năm 1916 - 1917 là năm Bính - Đinh, cho chúng ta biết điểm khởi đầu là "Tụ", đến năm 1991 là năm Tân, cho chúng ta biết điểm kết thúc là "Tán". Thực tiễn cho chúng ta thấy Liên bang Xô viết "tụ" lại thành một khối thống nhất năm 1916 - 1917, và đến năm 1991 thì "tán". Ở đây chúng ta chỉ xét về những tinh hoa của quá khứ đã để lại cho chúng ta, mà không bàn về Chính trị. Đây là nguyên lý âm - dương, tụ tán, ẩn hiện, đến đi, chính phản,...

+ Điểm xuất phát của phương pháp, Hà Uyên vẫn từ thứ tự số Tiên thiên, nhưng khi tính thì theo Hậu thiên.

Xin cảm ơn VinhL

...

VinhL, Thứ năm, 21/05/2009 | 12:01 hỏi:

Thưa Bác Hà Uyên,

VinhL đọc thấy Sư Phụ Thiên Sứ gọi Bác là Anh, thế thì VinhL phải thành thật xin lỗi là đã xưng hô với Bác là Bạn. Theo các bài viết của Bác thì Bác đã đọc qua Hoàng Cực Kinh Thế rồi, như thế thì chắc củng biết là sau quẻ Hoả Sơn Lư thì đến quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá theo như vòng tròn 64 quái của ông Thiệu Khang Tiết. Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì bắt đầu là quẻ Phục, đến quẻ Bác, thì trở Phục, vì một vòng tròn thì đâu có kết thúc.

Nếu Bác lập một bảng trùng quái theo Ngoại quái Nội quái, sự vận hành của các quái trong bảng này sẻ hình thành một vòng Thái Cực Càn Đoài Ly Chấn nghịch hành Tốn Khảm Cấn Khôn thuận hành.

Theo cách lấy quẻ trong Hoàng Cực Kinh Thế:

(Để phân biệt Phút Giây theo Hoàng Cực Kinh Thế, VinhL xin gọi Phút là Phân, và Giây là Miễu theo Hán Việt)

1 Nguyên = 12 Hội = 129600 năm

1 Hội = 30 Vận = 10800 năm

1 Vận = 12 Thế = 360 năm

1 Thế = 30 Phân = 30 năm

1 Năm = 12 Tháng = 129600 Phân

1 Tháng = 30 Ngày = 10800 Phân

1 Ngày = 12 Giờ = 360 Phân

1 Giờ = 30 Phân

1 Giờ = 12 Miễu

Theo quyển “Nguyên Lý Chọn Ngày Theo Lịch Can Chi” của Tiến Sỉ Hoàng Tuấn thì Hội Ngọ bắt đầu vào năm 2198 Trước Công Nguyên.

Năm 1916 có

2198 + 1916 = 4114

4114 / 360 = 11 dư 136 năm tức hiện đã ở Vận thứ 12 của Hội Ngọ

136 / 30 = 4 dư 16 năm tức hiện ở vào Thế 5 của Vận 12, Hội Ngọ

1916 đang ở Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, năm thứ 16

Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì 64 quẻ trùng không dùng 4 quẻ tứ Chính Càn Khôn Khãm Ly, còn lại 60 quẻ chia cho 12 Hội, mỗi Hội được 5 quẻ. Hội Tý có 5 quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Chấn Vi Lôi, vvv... Hội Ngọ có 5 quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại Quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Tốn Vi Phong.

Mồi Hội có 5 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, 5x6 = 30 Vận.

1916 ở vào Vận thứ 12 Hội Ngọ tức quẻ Trạch Phong Đại Quá Động Hào Lục biến thành quẻ Cấu.

1 Vận có 12 Thế, mồi quẻ có 6 hào, tứ 2 Thế biến 1 hào. Thế 5 biến hào tam của quẻ Cấu tức là quẻ Thiên Thủy Tụng. 1 Thế có 30 năm, 2 Thế tức 60 năm, quẻ Thiên Thủy Tụng có 6 hào vậy 10 năm động một hào.

Năm thư 16 động hào 2 của quẻ Thiên Thủy Tụng tức được quẻ Thiên Địa Bỉ.

Tóm Lại 1916 có

Vận 12 Hội Ngọ: Quẻ Trạch Phong Đại Quá biến Cấu

Thế 5: Cấu biến Thiên Thủy Tụng

Năm thứ 16: Tụng biến Bỉ

Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế.

VinhL thì củng ít khi sử dụng kiến thức của mình để chiêm đoán thế sự, về mặt này rất là kém, phải nhờ Bác chỉ dạy thêm.

Nếu Bác muốn nghiên cứu sâu vào sự ứng dụng của Hoàng Cực Kinh Thế kết hợp với Tử Vi, thì Bác phải nghiên cứu đến Thiết Bản Thần Số rồi. Hiện nay VinhL củng đang tìm tòi sưu tầm sách về môn này đây.

Theo truyền thuyết, ông Thiệu Khang Tiết biết con gái mình sẻ không tài ba như mình nên lập ra Thiết Bản Thần Số để đường cùng thì có thể dùng nó để sinh sống. Vì vậy mà củng có thuyết là bí mật của Thiết Bản Thần Số chỉ truyền cho phái nử (Không biết truyền thuyết này có đúng không). Hiện nay trên thị trường mỗi môn phái mồi cách tính, không biết đâu là giả đâu là thật. Ngoài Thiết Bản Thần Số lại còn Hà Lạc Lý Số củng do ông Thiệu Khang Tiết kết hợp Bát Tự Hà Lạc với phương pháp của Thiết Bản Thần Số mà lấy các câu quyết đoán.

Nếu có chỗ nào sơ sót xin Bác cứ thẳng thắng mà chỉ giáo nhé.

Kính

Hà Uyên xin chào các Anh Chị trên diễn đàn

Hà Uyên chào VinhL

Sự đàm luận cùng bầu bạn tâm giao, bằng những ngôn ngữ hiểu nhau, có phần hơi kiêu kỳ, nó được coi như một hoạt động tinh thần tế nhị. Sự thanh đàm này, chỉ có được giữa bạn bè có cùng một nhận thức. Chữ "nhận thức" ở đây, Hà Uyên chỉ muốn nói về góc độ, khi chúng ta đọc sách Dịch Kinh, tìm hiểu về Dịch học và khi ứng dụng những kiến thức của Dịch học, vào cuộc sống thực tiễn vậy.

Thực học càng được, thì Tính càng mất đi.!

Chúng ta có thể, nên thống nhất với nhau, rằng: chúng ta đã trải qua giai đoạn "Đồng thanh tương ứng", mà hiện tại, chúng ta đang ở giai đoạn "Đồng khí tương cầu", có nghĩa là, chúng ta đang chạy maratong 42 km, không phải là đang chạy 100 mét.

Người nước lớn công nhận tên được ban là "Khang Tiết" tại đời vua Nguyên Hựu, hiện tại chúng ta đang thừa nhận tìm hiểu hệ thống học thuyết, nên gọi chính danh là: Thiệu Ung.

Chúng ta bắt đầu từ: QUY LUẬT THỜI GIAN

- Toàn thể loài người đang sử dụng thời gian: một ngày có 24 giờ, một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây. Chúng ta tạm gọi là Dương lịch.

- Thiệu Ung khi xây dựng kết cấu cho hệ thống tính toán của mình, đã lấy "đơn vị ngày" làm đơn vị cơ sở cốt lõi, với phương pháp theo "tư duy số". Tại sao phải lưa chọn như vậy?

Khi chọn "năm" làm đơn vị để tính, thì sẽ vướng phải lịch "tiết khí", cứ 19 năm thì có 7 năm, phải tồn tại một "tháng nhuận", mâu thuẫn với nguyên tắc của "số 7", đó là 12 +7 = 19, sẽ là 19 x 360 = 3420, khi lấy đơn vị tính là "một Nguyên = một năm", thì 129600 là số không chia hết.

Khi chọn "tháng" làm đơn vị tính, thì sẽ mâu thuẫn với Nguyên lý Ngũ hành, về "Kỳ hạn biến hoá" (thời gian tới hạn) của vật chất làm đơn vị tính để tính, khi định cát - hung.

Thiệu Ung xây dựng hệ thống "tư duy số" cho cá nhân mình, Ông lấy đơn vị là "ngày" có 12 giờ, một Giờ có 30 vận, một Vận có 12 thế, một Thế có 30 Giây. Chúng ta tạm gọi là Ngày âm lịch, có nghĩa là:

- Một ngày có 129600 giây, tương đương với một Giờ có 10800 giây

- Một Giờ có 30 vận, thì một giờ có 180 phút, có nghĩa là: một Vận là 6 phút, và như vậy thì: một Thế có 30 giây

Như vậy mối quan hệ của một ngày Dương lịch là 86400 giây, so với ngày Âm lịch 129600 giây, sẽ tồn dư 129600 - 86400 = 43200 giây, tương đương với 72 phút, tương dương với 4 giờ âm lịch.

Đến đây, có thể Thiệu Ung đành phải dùng Lý học, mà không dùng "tư duy số". Tại sao lại như vậy? Vì một ngày, theo giờ phương Đông có 12 Giờ, chi phí cho thời gian bảo tồn năng lượng và tái hồi sức sống, thì loài người, chúng ta phải ngủ mất 4 Giờ, chỉ còn lại 8 giờ là thức. Do vậy, trong "Hoàng cực Kinh thế" ông đã viết: "bỏ một lấy hai, bỏ ba chọn bảy,..." (Hoàng cực kinh thế - tập 2). Có nghĩa là, trong tính toán, chia làm 3 phần, thì bỏ một phần lấy hai phần, tức là bỏ 4 lấy 8 để dụng.

Về công thức tính, chúng ta sẽ trao đổi từng phần. Theo Hà Uyên, với công thức tính toán của Thiệu Ung, thì loài người đang ở vào Tháng Bảy, ngày 12 âm lịch, giờ Mão.

Hà Uyên xin cảm ơn VinhL đã quan tâm.

....

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 13:57

Chào Bác Hà Uyên,

Nghiên cứu lại các bài viết về 12 biến của Bác, và vấn đề tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ Hành, không cho biến đến hào 6, thì VinhL suy luận là chổ quan trọng không phải là 2 quẻ động hào 6 mà là sự thiếu sót của phương pháp biến hào tiệm tiến. Nếu lấy 8 quẻ bát thuần theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì sẻ không bao giờ biến ra được 8 quẻ Du Hồn và 8 quẻ Quy Hồn, cho nên khi biến đến hào năm thì phải quay lại biến hào 4 và kế đến là biến 3 hào dưới. Theo phương pháp biến hào tiệm tiến 6 biến sau củng chính là 6 biến đầu của quẻ đối hào, cho nên có sự lập lại. Vì vậy theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì 8 quẻ Bát Thuần chỉ biến ra được 48 quẻ thiếu đi 16 quẻ Du Hồn và Quy Hồn.

Nếu tám quẻ thuần biến quẻ theo thứ tự quẻ đơn của Tiên Thiên Bát Quái thì sẻ biến ra đủ 64 quẻ, có lẻ vì vậy mà ông Thiệu Khang Tiết dùng phương pháp biến quẻ Tiên Thiên làm gốc, và kết hợp với cách biến hào tiệm tiến. 12 Hội thì dùng quẻ biến theo Tiên Thiên, Vận Thế thì biến theo tiệm tiến.

Về năm tháng ngày theo Nguyên Hội Vận Thế của 1916 thì theo Bác là Tháng 7 Ngày 12 Giờ Mão. Theo VinhL tính thì Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, Phân 16, tức là Tháng 7 Ngày 12, giờ Thìn, 16 Phút, như vậy có sai biệt 1 giờ, mong Bác giải thích cách tính của Bác để VinhL biết được chổ sai. Thành thật cám ơn.

Vài lời suy luận nếu có gì sai Bác cứ thẳng thắng chỉ điểm.

Kính

Vâng VinhL đã để lại cho Hà Uyên một nội hàm (cảm giác bên trong) thực sự phấn chấn. Sau hơn 2000 năm, người Việt nam, khi nói theo đơn vị hành chính, dân tôc Lạc Việt, khi nói theo tiến trình logic của Lịch sử, đã và đang tìm về côi nguồn của mình. Chúng ta đã đánh giá đúng về Kinh Phòng, khi ông dùng hào 1 quẻ Thuần Càn: "vật dụng", phối hợp với Ngũ hành nạp hào quẻ Dịch, thì 8 quẻ "Bát thuần", Kinh Phòng gọi là quẻ Bố - Mẹ, không tồn tại quẻ "Quỷ dịch": Du hồn và Quy hồn. Đây là một "chìa khoá" rất quan trọng đối với các môn học thuật Phương Đông. Cảm ơn, cảm ơn VinhL nhiều. Đến tại thời điểm này, theo những gì Hà Uyên được biết, Thiệu Vĩ Hoa hay những diễn đàn chính thức, chưa có những công bố về: công thức tính toán trên của Kinh Phòng. Do vậy, khi Bốc Dịch theo phương pháp của Kinh Phòng, gặp phải quẻ Quỷ Dịch, chất lượng thông tin thường gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta sẽ bàn lại chủ đề này sau. Một hào của một quẻ Dịch bất kỳ, luôn luôn trải qua 12 giai đoạn tiệm tiến, theo Hà Uyên, đây là Nguyên lý cơ bản của Dịch học. Tại sao? Trải dài với thời gian hơn 5000 năm, không một ai thay đổi Quái danh, Quái tượng, ngôn ngữ của Hào từ. Một hào tiệm tiến trải qua 12 quá trình (12 quẻ dịch), nhưng ngôn ngữ của Hào 1, luôn luôn thông khí với toàn bộ các hào 1 của 11 quẻ còn lại. Đây là một "chìa khoá" cũng rất quan trọng, khi đưa ra lời giải cho những môn học thuật cao. Ví du: quẻ Sơn Lôi Di hài 1: - Hào 1 quẻ Sơn Lôi Di: "Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình, mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm." - Hào 1 quẻ Sơn Trạch Tổn: "Hào Chín Đầu, hoàn thành sự nuôi dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên trông trước giảm bớt tính cương cứng của bản thân" -....... Như vậy, quẻ Di có hình tượng tượng trưng là: "nuôi dưỡng", thì hào 1 quẻ Tổn tiếp lời: "hoàn thành sự nuôi dưỡng,...". Khi chúng ta thống kê toàn bộ 64 quẻ, hay 4608 sự chuyển hoá, ta sẽ thấy rất nhiều điều thú vị, đặc biệt là phương pháp tư duy "tượng số" đối với những môn học thuật cao (Tam minh). Tại một thời điểm thuộc quá khứ, khi Anh Hoàng Tuấn làm Trưởng đoàn, vào miền Nam nghiên cứu môn bấm huyệt của bà Huỳnh thị Lịch tại quận Phú Nhuận, phương pháp bấm có tên gọi: "Thập Thủ Đạo", thì Hà Uyên có trao đổi với anh Hoàng Tuấn: Hội Ngọ được tính bắt đầu từ năm 2198 Tr.CN là căn cứ vào đâu?, anh Hoàng Tuấn có trả lời rằng: lấy theo quyển: Địa Lý Ngũ quyết và quyển Địa lý mật truyền cáo tập. Về việc này, chúng ta sẽ trao đổi sau. Cảm ơn VinhL đã quan tâm.

...

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 23:46  hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thấy Bác phấn chấn, VinhL củng phấn chấn theo. VinhL rất vui mừng có người để chia sẻ và bàn luận những khám phá trong khi nghiên cứu Dịch.

Thấy Bác nói đến học thuật cao (Tam Minh), có phải là Tam Thức theo như các sách Hán đề cập không?

Như Thái Ất, Kỳ Môn và Lục Nhâm. Thú thật VinhL củng có nghiên cứu sơ qua 3 môn này. Nếu Bác thích thú bàn thảo về 3 môn này thì VinhL củng rất vui mừng hồi ứng.

Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác.

Khi nạp chi cho các hào, quẻ Càn nạp Tý Dần Thìn, Ngọ Thân Tuất, Tý đối Ngo, Dần đối Thân, Thìn đối Tuất.

Theo Khách Khí của thuyết Ngũ Vận Lục Khí, các năm Tý Ngọ thì khí Dương Minh tại tuyền ứng với khí Thiếu Âm tại thiên. Năm Dần Thân, thì khí Quyết Âm tại tuyền ứng với Thiếu Dương tại Thiên., vv....

Lục Khí, Tam Âm ứng với Tam Dương, Sơ với Tam ứng nhau, Nhị với Tứ ứng nhau, và Tam với Lục ứng nhau.

Trong các sách về Dịch và Lý Số, không hiểu tại sao không có sách nào bàn đến Ngũ Vận Lục Khí, trong khi đó nó là lý thuyết vô cùng quan trọng trong môn Y học Đông Phương. Có phải bí mật của sự tương quan của Ngũ Vận Lục Khí trong Dịch và các môn lý số đã bị thất truyền??? Chỉ có môn Thái Ất là có đề cập và sự ứng dụng tới thuyết này.

Có gì thiếu sót, sai lầm mong Bác chỉ điểm.

Kính

Chào VinhL Trên diễn đàn này, chúng ta đã dùng Đạo "hối minh", thì "minh" ấy càng được sáng tỏ. VinhL và Hà Uyên khởi đầu giao lưu từ ngày 10/5/2009, bắt đầu từ Mai Hoa Dịch số, đến ngày 22/5/2009, thì VinhL đã Thấy được Bốc Dịch, do học thuyết của Kinh Phòng xây dựng nên, mà ngày hôm nay người Phương Đông đang ứng dụng nó một cách phổ biến, những căn nguyên mà VinhL đã tìm hiểu ra, sự không đồng bộ trong hệ thống tính toán của Kinh Phòng, sự thiếu chặt chẽ trong học thuyết mang tính ngiêm trọng, nó ảnh hưởng tới tính chính xác và độ tin cậy của thông tin rất nhiều. Cho phép Hà Uyên nghĩ thế này: kể từ ngày 10/5/09, cộng thêm với 196 ngày nữa, VinhL sẽ ở vào một tư thế mới. Dương khí có xu hướng đang tiệm tiến chuyển dịch vào bên trong con người của VinhL "nén chặt". Khi Dương khí co rút vào càng nhiều, càng lớn, càng mạnh, thì sự giãn nở ra càng lớn. Giới hạn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, là chu vi phát triển ngày càng lan rộng. Hà Uyên tin như vậy. Cũng như Hà Uyên đã trao đổi với Liêm Trinh, người thứ 5 giao lưu với Hà Uyên là anh Thiên Sứ. Vì rằng, VinhL đã quyết định đúng, khi nói Thiệu Ung dùng phương pháp biến quẻ Tiên thiên làm gốc. Có điều này, Hà Uyên cũng nghiêm túc muốn trao đổi với VinhL. Khi tiến tới một giới hạn cho phép, thì chúng ta phải đối mặt với sự hiểm nguy. Người nước lớn không bao giờ muốn dân tộc chúng ta có người tài giỏi cả đâu. Đặc biệt là những môn học thuật này. Lịch sử đã cho chúng ta biết như vậy. Đến tận ngày hôm nay, sự hiểm nguy còn lan rộng hơn. Vấn đề này hết sức nhậy cảm và tế nhị.! Thiệu Ung khi xây dựng hệ thống kết cấu cho học thuyết của mình, không thể để "thời gian" trôi tuột đi được. Do vậy, Hà Uyên đã trao đổi với VinhL giữa học thuyết tính toán của Thiệu Ung, so sánh với thời gian thực, đã ẩn giấu một "chìa khoá". Từ xưa đến nay, dù chúng ta có dùng "100 khắc", hay gọi là "miễu", thì thời gian vẫn không thay đổi. Một ngày gồm 86400 giây là đơn vị tính cơ sở, khi thêm đơn vị tính cơ sở của Thiệu Ung là 4320 (43200), thì chúng ta hiểu: tai sao Thiệu Ung dùng 129600 làm đơn vị để tính. Từ ngày 10/3/2008 khai trương diễn đàn Lyhocdongphuong, cho tới ngày hôm nay 23/5/2009, số ngày đã trải qua là 439 ngày. Chúng ta đang ở Hạ nguyên, vậy thì từ Giáp Tý sau đông chí Thượng nguyên, đến ngày hôm nay là bao nhiêu ngày? Thiệu Ung có nghĩ như vậy Không? Tại sao chúng ta lại lệ thuộc vào sự quy định khởi đầu của Hội Ngọ, vào những năm TR.CN như vậy?

....

"Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác."

Đất chựu Trời thì chấp thuận 5 vận (chế)

Trời chựu Đất thì chấp thuận 6 khí (tiết)

Đối ngoại thì có 4 phương, cùng với Trung tâm mà sinh ra "khí" - "động"

Đối nội thì có bởi 8 cực. Khi tĩnh thì hướng tâm, xu hướng phát triển theo "vỹ". Khi động thì ly tâm, xu hướng phát triển theo "kinh".

Cửu cung: khi số Trung tâm là số "chẵn", thì số ở 4 góc là số "lẻ". Số nhập Trung cung là số "lẻ", thì số của 4 góc là số "chẵn". Sao Thuỷ chuyển 4 độ thì trái đất chuyển 1 độ.

Năm 1999: Chính của Dương minh thuộc về kỷ của Mão - Dậu: Dương minh - Thiếu giác - Thiếu âm thanh nhiệt, thắng phục đồng, giống, chính, thương. Đinh Mão tuế hội - Đinh Dậu vận ấy là thanh nhiệt. Thiếu giác sơ chinh, thiếu cung, thái dương, thiếu vũ cuối.Chính của Dương minh chỉ năm Dương minh táo kim Tư thiên.

Kỷ Mão - 1999: vận Thổ bất cập, Khí Tư thiên là Dương minh táo kim, khí tại tuyền là Thiếu âm quân hoả. Tố vấn di biên - Thiên luật pháp: Kỷ Mão: sao Lâu, hành Kim ở phương Tây, trộm cướp Thái quá, giao thông bế tắc. Sao Kim - Hoả có ảnh hưởng nhiều tới trái đất.

Ngày 3/10/1999, Làng văn hoá các dân tộc Viết nam động thổ tại Đồng Mô - Sơn tây. Bản tính Dự báo Thời tiết năm 1999 đã được gửi từ đầu năm, ghi rõ: ngày 3/10/1999 là ngày Giông tố. Chủ khí Dương minh táo kim, gió Tây và Tây Bắc hanh khô (21/9 - 21/11). Khách khí Quyết âm phong mộc, xuân lệnh nghịch lại lưu hành. Khí gió thiên thắng. Khí hậu lạnh không lạnh được. Thực tiễn ngày 3/10/1999 đã xẩy ra giông tố.

Đây là một đóng góp mang tính thực tiễn mà Hà Uyên đã làm. Chỉ tiếc rằng, tại thời điểm đó lãnh đạo vẫn chọn ngày 3/10 làm ngày động thổ với số vốn đầu tư 70 triệu us.

...

VinhL,.. hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế, thì có hai số mà được lập đi lập lại đó chính là số 12 và 30. Toàn bộ Nguyên Hội Vận Thế Niên Nguyệt Nhật Thì Phân Miễu (Giờ Phút Giây) điều dùng 12 và 30 xen kẻ lẫn nhau.

Nguyên = 12 Hội

1 Hội = 30 Vận

1 Vận = 12 Thế

1 Thế = 30 Niên

1 Niên = 12 Nguyệt

1 Nguyệt = 30 Nhật

1 Nhật = 12 Giờ

1 Giờ = 30 Phút

1 Phút = 12 Giây.

Phút và Giây đây không phải là đơn vị Phút và Giây chúng ta đang dùng hiện tại mà là đơn vị thời gian do ông Thiệu Ung phân chia theo phương pháp 12, và 30 xen kẻ.

Trong Hoàng Cực Kinh Thế có đề cặp đến Niên (Tuế) Nguyên, Nguyệt Hội, Nhật (Tinh) Vận, Thìn (Thời) Thế. Từ đó ta thấy Nguyên Hội Vận Thế Niên, Niên Nguyệt Nhật Thời Phân, tương quan với nhau vì tính ra thì đều là 12x30x12x30 = 129600. Khi coi Nhật là Nguyên, thì Bác phải chia Giờ ra thành Vận, Thế rồi đến Giây tức là Nhật, Thời, Vận, Thế, Giây, thì đơn vị Phút đã không còn tuân theo luật 12, 30 của Hoàng Cực Kinh Thế nữa.

Theo VinhL nghĩ, đễ khỏi vướng phải “tháng nhuận”, cho nên ông Thiệu Ung đã dùng Nguyệt theo Tiết Khí, tức một tháng là 2 tiết khí, tháng Tý bắt đầu ở tiết Đông Chí. Một năm lúc nào củng có 24 tiết khí, vì tiết khí căn cứ vào vòng hoàng đạo 360 độ (Sun Longtitude), mồi tiết khí là 15 độ. Luật nhuận được dùng khi tính tháng theo chu kỳ mặt trăng. Mùng 1 âm lịch thì lúc nào củng phải đúng vào ngày trăng mới (New Moon), nên có năm lại có tới 13 lần trăng mới nên phải đặt nhuận.

Cũng vì vậy khi ông Thiệu Ung đề cặp đến Tuế (Niên), 1 Niên = 12 Nguyệt x 30 Nhật = 360 Ngày, ở đây có thể hiểu là 360 độ của vòng hoàng đạo. 1 độ là 1 ngày. Như vậy muốn chính xác 100% thì chúng ta phải dùng đến công thức của Thiên Văn Học để tính ra các đơn vị Nguyệt, Nhật, Thời, vv...

VinhL có đọc qua phần Thiên Môn Địa Hộ của Bác, theo như vậy, trong Kỳ Môn Quý Nhân Đăng Thiên Môn tức là khi sao Bắc Đẩu (Khôi hay Âm Quý tức Tứ Mộ Khu Toàn Cơ Quyền, củng là Tham Cự Lộc Văn, Việt hay Dương Qúy tức Tam Quang Tiêu Dao Du củng là Liêm Vũ Phá ) ở vào khu vực Khuê Bích.

Nhân đây nhắc đến Kỳ Môn, không biết Bác có ý kiến gì về sự khác biệt giữa các môn Bát Trạch, Huyền Không Phi Tinh, Phép Tôn trong Thái Ất, và Kỳ Môn Độn Giáp. Ngoại trừ Bát Trạch, thì 3 môn kia đều bày bố Bắc Đẩu Thất Tinh theo phương pháp khác nhau.

Huyền Không thì cho sao phi vào cung trung, Kỳ Môn thì theo tiết khí và Lục Nghi mà bày bố, Thái Ất Phép Tôn không chú trọng đến tiết khí. Trong 3 môn thì chỉ có Kỳ Môn Độn Giáp là coi trọng việc Siêu Thần Tiếp Khí để lập Cục. Theo như sách của ông Thẩm Trúc Nhưng, thì nhờ mượn đọc được tác phẩm “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” của Trương Trọng Sơn thêm vào nhiều năm nghiên cứu mà biết được phương pháp sao nhập trung cung. So sánh giữa 2 phương pháp bày bố cửu tinh, thì VinhL thấy sao nhập trung cung thiếu sự hợp lý với các hiện tượng thiên văn. Phương pháp của Kỳ Môn thì có vẽ hợp lý hơn. Có khi nào ông Thẩm Trúc Nhưng thấy sao vào cung giữa mà cứ nghỉ đó là phương pháp, mà thật ra cửu tinh phải bày bố theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Cục của tiết khí mà khởi Lục Giáp theo đường lường thiên xích (Tiên Thiên Bát Quái Nạp Số Thái Huyền) mà an bày 9 sao. Không biết nếu dùng cách an sao của Kỳ Môn áp dụng vào Huyền Không có thích hợp hơn không?. Theo VinhL biết trong quyển La Kinh Thấu Giải có nói đến phương pháp ứng dụng Kỳ Môn và trùng quái để tìm 24 ngôi châu bảo thấu địa long.

Vài lời lạm bàn nếu có sai sót mong Bác chỉ điểm.

Kính

Hà Uyên chào VinhL Tại thời gian của Thiệu Ung, lịch Đại diễn vẫn đang được sử dụng. Năm 721 (CN) Tăng Nhất Hành phung chiếu, sáng tác Lịch mới được gọi là lịch Đại diễn. Thực chất sáng tác của lịch Đại diễn này, là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ vào lịch pháp của Tăng Nhất Hành. Hà Uyên nghĩ Thiệu Ung vẫn phải sử dụng hệ thống lịch Đại diễn này. Ví dụ: Tháng Dần - hội thứ ba, hào 6 - 3 trở về trước quẻ Phong, cùng với quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thuỷ. Hào 9 -4 quẻ Phong trở về sau, cùng với quẻ Cách, và quẻ Đồng nhân chủ khi Kinh trập. Do vậy, số 129600 sẽ không chia hết cho 2520. VinhL tham khảo thêm

..

THUYẾT QUÁI KHÍ CỦA TĂNG NHẤT HÀNH VỚI LỊCH ĐẠI DIỄN

Năm Khai Nguyên thứ 9 triều Đường (721 CN), Tăng Nhất Hành phụng chiếu, sáng tác Lịch mới. Nhất hành dựa vào thuật suy diễn các con số để diễn giải Lịch mới. Năm Khai Nguyên thứ 17 (729CN), Lịch mới đã được ban hành, được gọi là Lịch Đại diễn. Song, số liệu Thiên văn và phương pháp giải thích của Nhất Hành còn thiếu độ chính xác. Tại thời điểm đó, đã được kiểm tra lại, thì Lịch Đại diễn đạt độ chính xác 70% - 80%.

Ảnh hưởng từ Dịch - Hệ từ, ông nói: “Trời bắt đầu từ 1, Đất bắt đầu từ 2. Hợp hai số đầu này lại thì thành “cương – nhu”. Số cuối của Trời là 9, số cuối của Đất là 10, hợp hai số cuối lại để ghi số dư. Số giữa của Trời là 5, số giữa của đất là 6, hợp hai số giữa này để thông luật Lịch”. Hệ từ: “Trời số 5, Đất số 5, năm vị trí đều thành, và các vị trí có sự hoà hợp khác nhau, nên mới có biến hoá của Quỷ thần”. Từ đây, ông đã suy ra phép thông 3040 trong Lịch pháp đại diễn.

3040 là nhật pháp, phương pháp tính ngày, tương tương trong Lịch chia 4 cổ, và 81 trong Lịch Thái sơ. Song, trong lịch Đại diễn, tất cả ngày, tháng, và chu kỳ vận động của 5 hành tinh lớn, đều được biểu thì bằng phân số, có mẫu số chung là 3040. Ví như 3040 = 19 x 160, trong đó 19 là biểu thị 19 năm tăng thêm 7 tháng nhuận, được gọi là “Chương pháp”, các nhà làm Lịch gọi là “thông pháp” (nghĩa như chương pháp cũ).

Theo Tăng Nhất Hành, 19 của chương pháp cũ, là sự phối hợp hai số cuối (9&10) của Trời - Đất để tính. Ông cho rằng: “Phu số tượng vi vu tam, tứ, nhi chương vu thất, bát”. Nghĩa là nói: 3 và 4 là “vi”, còn 7 và 8 là “chương”.

Ông lại nói: “Tự ngũ dĩ giáng, vi ngũ hành sinh số, tự lục dĩ vãng, vi ngũ tài thành sinh số”. Sinh số là 1, 2, 3, 4, 5, thành số là 6, 7, 8, 9, 10. Tổng của sinh số là 15, tổng của thành số là 40. Khi 15 x 40 = 40 x 15 = 600. Tổng thành số nhân với tổng sinh số gọi là “tích thiên trung”, đều có tích là 600.

Tích của Thiên trung và Địa trung, nghìn có 200 (tức là 1200). Gấp 4 thành hệ số hào là 300. Đem 10 vi nhân với 2 chương, thì có tích là 3000. Đem 5 tài nhân với 8 tượng, thì được 2 vi, hoặc được tích là 40. Tích của chương nhân vi, là mẫu số của khí số. đây chính là nguồn gốc của 3040.

Nhất Hành còn sáng tạo thuận Hô - Hấp kết hợp với lịch Đại diễn, đây chính là tìm cách tiếp cận quái khí, đem 64 quẻ đối chiếu với 72 hậu, đồng thời đưa Ngũ hành vào cuộc.

Dịch vốn là “Khí”, về sau mới rõ Dịch còn nói về con người và sự vật. Chứng tỏ thuyết Quái khí của Nhất Hành là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ.

Đầu tiên là lịch Chính Quang thời Bắc Nguỵ. Phương pháp của nó là, trước tiên suy ra 4 quẻ chính, tức là cầu ngày Đông chí là ngày quẻ Khảm vào cuộc, ngày Xuân phân là ngày quẻ Chấn tham gia, ngày Hạ chí là ngày quẻ Ly hành sự, ngày Thu phân là ngày quẻ Đoài hành sự. Sau đó, thông qua ngày Đông chí, hoặc ngày quẻ Khảm vào cuộc, để cầu quẻ Trung phu. Từ đây, tiếp tục cầu các quẻ khác.

Suy diễn 72 hậu, ví như ngày Đông chí bắt đầu nhập vào Hậu, mỗi một tiết khí tương ứng với 3 đốt hậu. Song, trng thuật hô hấp và lịch Đại diễn áp dụng, trước tiên lập một số liệu cơ bản, tức là: chuỗi 5 của thiên trung (thiên số 1, 3, 5, 7, 9), chuỗi 6 của địa trung (địa số 2, 4, 6, 8, 10), chuỗi của 3 chinh hối, (quẻ xấu). Cầu 72 hậu: “các nhân trung, tiết mệnh chi, đắc sơ hậu”. Ý nói là, căn cứ vào Trung khí và Tiết khí định được tên gọi của 3 hậu. Trước tiên từ Trung khí được: Sơ hậu, thêm chuỗi (5 ngày) của thiên trung được Thứ hậu, tiếp tục thêm, thì được Mạt hậu. “Nhân trung khí mệnh chi, đắc công quái dụng sự”, tức là quẻ Công quái bắt nguồn từ Trung khí. Luỹ tiến (tăng dần theo cấp số cộng) của địa trung, thì được quẻ tiếp theo.. Giả sử đem chuỗi 3 của “trinh hối”, cộng với quẻ Hầu, thì được đầu của 12 tiết, là quái thể ngoài vào cuộc (tức là thể trên của quẻ hầu)

...

Hà Uyên chào VinhL.

Tất cả các môn học thuật mà chúng ta đã và đang quan tâm, đều phải thông qua đơn vị "thời gian", đó là Lịch pháp. Đặt vào bối cảnh Lịch sử của các môn học thuật này khi ra đời, được truyền bá và ảnh hưởng rông rãi trong dân gian, thì vấn đề Lịch pháp, theo Hà Uyên, chiếm 50% giá trị thông tin, còn mức độ tính toán học thuật là phần còn lại cộng với kinh nghiệm bản thân của mỗi người.

Trước triều Hán, lịch pháp được dùng là “Cổ tứ phân lịch” (lịch chia bốn). Đến đời Hán, gọi là “Tứ phân lịch”. Cơ sở của lịch đời Hán là căn cứ vào sự giãn cách thời gian của mặt Trời hai lần liên tục, thông qua thời điểm Đông chí. Mãi sau này mới chọn thời điểm giãn cách hai lần liên tục của mặt Trời thông qua điểm Lập Xuân. Tức là trái Đất quay xung quanh mặt Trời một vòng, lấy điểm Lập Xuân làm mốc khởi, để tính lịch.

Như vậy, từ ngày Đông chí tới trước quẻ Khôn đợi lệnh, khi tới ngày Đông chí, một dương được sinh ra thành quẻ Phục đối ứng với tháng 11 Thiên chính Tý, tháng 12 Địa chính Sửu là quẻ Lâm, tháng Giêng Nhân chính Dần là quẻ Thái. Đối với Lịch pháp hiện nay chúng ta đang sử dụng, thì lại lấy điểm Lập xuân để khởi Lịch pháp. Hà Uyên cũng tự hình thành cho mình một loại Lịch pháp quái khí riêng, để trong quá trình tính toán áp dụng, thấy tính thực tiễn thông tin khác rất nhiều so với khi chúng ta sử dụng Lịch hiện hành.

Có thể Hà Uyên đánh giá chưa hết, nhưng rõ ràng, Kinh Phòng và Thiệu Ung đều phải sử dụng lịch Thái sơ làm kết cấu khung khi xây dựng học thuyết cho mình.

Hà Uyên chỉ muốn đặt chúng ta vào bối cảnh cách đây hàng ngàn năm, thì sự định hướng trong tư duy sẽ có những thay đổi nhất định. Vấn đề ở chỗ là đi tìm mức độ chính xác của thông tin, khi chúng ta sử dụng các môn học thuật liên thông với quy luật thời gian Lịch pháp. Công thức tính toán thì căn cứ vào Lịch pháp Quái khí, khi xác lập thông tin ngày hôm nay thì lại căn cứ theo Lịch pháp hiện hành.

VinhL tham khảo thêm.

...

VinhL đã viết

"Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế."

Hà Uyên kiến thức sư phạm không có, từ trước cho tới nay, bằng sự yêu thích mang tính cá nhân của mình, vậy thôi. Sự yêu thích khởi đầu của Hà Uyên bắt đầu như sau:

---------------------------------------------------------------

G. Tý - Â.Sửu - B.Dần - Đ.Mão - M.Thìn

1 -------2 ----3 ----- 4 ------ 5 ------ ==> Sinh

---------------------------------------------------------------

KTị - C.Ngọ - T.Mùi - N.Thân - Q.Dậu

6 ---- 7 ----- 8 ---- 9 ----- 10 ------ ==> Thành

---------------------------------------------------------------

G.Tuất - A.Hợi - B.Tý - Đ.Sửu - M.Dần

11 ------ 12 ---- 13 --- 14 ---- 15 ------ ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Mão - C.Thìn - T.Tị - N.Ngọ - Q.Mùi

16 ----- 17 ----- 18 ----- 19 ----- 20 ==> Thành

----------------------------------------------------------------

G.Thân - A.Dậu - B.Tuất - Đ.Hợi - M.Tý

21 ----- 22 ------ 23 ------ 24 ----- 25 ----- ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Sửu - C.Dần - T.Mao - N.Thìn - Q.Tị

26 ----- 27 ----- 28 ---- 29 ----- 30 ------- ==> Thành

------------------------------------------------------------------

G.Ngọ - A.Mùi - B.Thân - Đ.Dậu - M.Tuất

31 ------ 32 ------ 33 ----- 34 ------ 35 -------- ==> Sinh

------------------------------------------------------------------

K.Hợi - C.Tý - T.Sửu - N.Dần - Q.Mão

36 ----- 37 ----- 38 ----- 39 ----- 40 -------- ==> Thành

-------------------------------------------------------------------

G.Thìn - A.Tị - B.Ngọ - Đ.Mùi - M.Thân

41 ---- 42 ---- 43 ----44 ----- 45 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Dậu - C.Tuất - T.Hợi - N.Tý - Q.Sửu

46 ----- 47 ----48 ----- 49 ----- 50 ------- ==> Thành

--------------------------------------------------------------------

G.Dần - A.Mão - B.Thìn - Đ.Tị - M.Ngọ

51 ---- 52 ----- 53 ---- 54 ----- 55 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Mùi - C.Thân - T.Dậu - N.Tuất - Q.Hợi

56 ------ 57 ---- 58 ----- 59 ---- 60 ----- = => Thành

Giáp - Kỷ phối ứng cặp số đồng đẳng 1 - 6, Ất - Canh phối ứng với cặp số đồng đẳng 2 - 7, Bính - Tân phối ứng với 3 - 8. Đinh - Nhâm phối ứng với 4 - 9, Mậu Quý phối ứng với 5 - 10

Khi ta coi 60 là một đơn vị tính, thì 60 - 3 = 57 là hệ số can chi Canh Thân, là mốc thời gian để tính trước CN và sau CN. Nhất âm nhất dương = 60 + 60 = 120 - 3 = 117. Trước Công nguyên thì trứ đi 117, sau Công nguyên thì cộng thêm với 117, thì thời gian tính sẽ chia hết cho 360 (117 hay 110 là số tính tương thông với Thái ất)

(8 x 60) - 3 = 477 - 177 = 360 ==> 129600/360 = 360

(14 x 60) - 3 = 837 - 117 = 720 ==> 129600/720 = 180

(20 x 60) - 3 = 1197 - 117 = 1080 ==> 129600/1080 = 120

(26 x 60) - 3 = 1557 - 117 = 1440 ==> 129600/1440 = 90

(32 x 60) - 3 = 1917 - 117 = 1800 ==> 129600/1800 = 72

(38 x 60) - 3 = 2277 - 117 = 2160 ==> 129600/2160 = 60

(44 x 60) - 3 = 2637 - 117 = 2520 ==> 129600/2520 = 51 dư 1080.

+ Bính Tân 3 - 8 hợp: Liên Bang Xô viết "tụ" năm 1916 can "Bính-, năm 1991 can Tân -thì "tán," đến năm Bính Dần 1984 lại xẩy ra sự cố nhà máy điện nguyên tử,....

VinhL tham khảo thêm

...

VinhL,.., hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thành thật cám ơn Bác đã cung cấp nhiều thông tin về Lịch Pháp cổ. Sách về Lịch Pháp cổ thì VinhL không có nên về vấn đề này thì mù tịt. Với kiến thức uyên bác về Lịch Pháp, không biết Bác có ý kiền gì về phương pháp Siêu Thần Tiếp Khí của Kỳ Môn trong việc tính nhuận?

Thưa Bác hai con số 57 và 117 này đúng là có liên quan đến con số 10153917 của Thái Ất.

10153917 / 60 dư 57, 10153917 / 360 dư 117. Con số 10153917 này có thể dùng để tính ra Can Chi của tứ trụ năm tháng ngày giờ bằng dương lịch không cần phải dùng đến âm lịch.

Sẳn đây Bác đề cập đến cái Hợp của Thiên Can, VinhL có một nghi vấn mong Bác có thể giải thíc cho.

Thiên Can có 10, chia 2 thì được 5 cặp, 1 với 6, 2 với 7, 3 với 8, 4 với 9, 5 với 10. Mỗi cặp đều có ngũ hành tương khắc nhưng không gọi là Xung, mà tại sao lại gọi là Hợp?

Địa Chi có 12, chia 2 thì được 6 cặp, 1 với 7, 2 với 8, 3 với 9, 4 với 10, 5 với 11, 6 với 12 tức Tý Ngọ, Sửu Mùi, vv... ngũ hành của mỗi cặp củng đều là tuơng khắc nhưng lại không được gọi là Hợp, mà tại sao lại gọi là Xung?

Thành Thật Cám Ơn Bác.

Kính

Hà Uyên chào VinhL VinhL có thể tham khảo sách: DI SẢN HAN NÔM VIỆT NAM - Thư mục đề yếu - Bổ di 1 - 2 - 3 - Quyển thượng, hạ. Tìm phần "Cổ chỉ". Chuyên đề về Mai hoa chúng ta có thể tạm dừng ở đây được không VinhL? Cảm ơn VinhL đã dành thời gian và quan tâm. Hà Uyên.

Mai Hoa Dịch Số

Minh An, on Oct 17 2009, 10:12 PM, said:

Cháu nghĩ nó là 1 mẹo hỗ trợ trong việc xác định thời gian ứng nghiệm.Cháu còn thiếu kinh nghiệm nên mong các bậc tiền bối kiểm nghiệm.

Không biến dịch thì không sinh ra cái mới, vậy thì tại sao lại tính 2 lần 1 quẻ không động?

Chào Minh An.

Một quẻ Dịch luôn có 7 hào. Hào thứ Bảy luôn ẩn, mà không được nhắc tới, được gọi là Thần tàng, hay là Quy viêm, hay được gọi là Quy tàng. Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

Từ hào Một cho tới hào Sáu, luôn có một hào động, được gọi là hào Chủ, đồng thời với hào Bảy, là hào Quy tàng, cũng luôn luôn động. Như vậy, một quẻ Dịch sẽ có 2 động 5 tĩnh. Kinh Dịch gọi mối quan hệ này là "Hàm tam vi nhất" (5 - 2 = 3 Một Tĩnh ba Động, một chân Tĩnh, chân còn lại và hai tay Động => đạp một đội chín, đạp một đội ba,...,). Đây là nguyên lý: một tĩnh thì có ba động, hai Tĩnh thì có sáu Động, ba Tĩnh thì có chín Động,..., => bỏ một dùng ba (360 thì chỉ dùng 270) => bỏ hai dùng sáu (bố mẹ thân lùi mà sáu con tiến, hai lùi sáu tiến) => bỏ ba dùng chín (12 địa chi thì dùng 9, chỉ dùng từ Trường Sinh tới Mộ, bỏ không dùng Tuyệt, Thai, Dưỡng)

Trong 5 hào tĩnh này, dùng để phản ánh mối quan hệ với 2 hào động. Trong hai hào động này, thì một hào là Quy tàng (Thần tàng), còn một Hào động là hào làm Chủ. Hai Động một Tĩnh, Âm một Dương hai, một tối hai sáng, là để tìm hiểu về xu hướng phát triển của vạn vật trong thế giới Tự nhiên của Người xưa.

Cùng nhau học dịch

Chào Anh Chị Em

Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch.

- Anh Dichnhan viết:

Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy.

Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét:

Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

- Hà Uyên viết:

Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng.

Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị.

Cụ thể:

1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu"

- Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại.

2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

Tôi bình giải theo kết cấu khung:

1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm

- Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu.

- Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.

2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ".

Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch

Hà Uyên.

...

Khi giải Dịch theo trường phái tam tài Thiên - Địa - Nhân, trong chu kỳ 1864 - 2043, thì đối với "tài" của Thiên, chúng ta đang ngồi Hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, lời hào 6 quẻ Đại súc viết:

Hà thiên chi cù, hanh.

Tượng quẻ Sơn Thiên Đại súc

Posted Image

Hỏi rằng:

- Trước hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào đây?

- Sau hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào?

Dịch im lặng, không trả lời.

- Phải chăng, "sau" hào 6 quẻ Đại súc, là hào 1 quẻ Địa Phong Thăng. Rồi tiếp đến hào 2 quẻ Địa Sơn Khiêm.

Posted Image Posted Image Posted Image

- Phải chăng, "trước" hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào 5 quẻ Thủy Thiên Nhu. Lại trước hào 5 quẻ Nhu, là hào 4 quẻ Lôi Thiên Đại tráng.

Posted Image Posted Image Posted Image

Dịch vẫn im lặng.

Vấn đề này, khi chú giải về "Kinh", thật là mông lung về tính liên tục của Hào từ. Vì đã gọi là "Kinh", thì phải là một hệ thống lôgíc chặt chẽ và hoàn chỉnh.

Có thể đây vẫn là một khoảng trống, mà Dịch Kinh chưa đề cập tới. Hay, cũng có thể đã hình thành một hệ thống phương pháp luận về: tính liên tục của hào từ, mà ta chưa biết tới. Hoặc cũng là sự tồn nghi của cá nhân tôi, con người lại đòi hỏi về "tri thiên" thật mơ hồ.

Vậy thì câu: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch" chúng ta nên hiểu như thế nào đây.

...

VinhL, on May 27 2010, 12:08 PM, said:

Kính Bác Hà Uyên,

Thấy bác hỏi về tính liên tục của các hào, và quái, trong đầu lại nghỉ đến âm thanh.

Các lần sóng trong âm thanh và trị số của Hào là giống nhau, sau bác không tìm câu trả lời trong âm thanh. Âm thanh vút cao rồi chìm xuống, ngân nga chuyển qua các sóng, thật tự nhiên, dịch tự nhiên củng thế.

Một ý kiến thoáng qua trong đầu, nếu không hợp lý mong bác bỏ qua nhé.

Kính

Thân mến, chào VinhL

Cảm ơn VinhL đặt vấn đề, đưa ra một hướng kiến giải, tôi sẽ dành thời gian tìm hiểu sâu thêm về góc độ: "Các tần sóng âm thanh và trị số hào giống nhau".

Tôi đặt vấn đề về tính thống nhất và tuần tự liên tục của hào từ. Nguyên nhân nào đã quyết định "chí" hướng chỉ đạo "phương" hướng, mà buộc Người và vạn vật tất phải "vãng - lai", trong nguyên nghĩa của Hào từ (?). Điều gì lấy làm căn cứ, để dựa vào của Hào từ (?).

VinhL có thể gợi mở, đặt vấn đề từ nhiều góc độ, để cùng anh chị em tham gia kiến giải từng bước, tôi cũng hiểu rằng, cái trừu tượng thường gợi mở cho chúng ta một phương hướng nào đó, rồi dần hướng tới quy luật chung của sự vật.

Hà Uyên.

..

dichnhan07, on May 31 2010, 05:40 PM, said:

Tôi nghĩ những câu hỏi của Bác không quan trọng bằng việc là câu trả lời sẽ giúp giải quyết vấn đề gì? Có thể cách nghiên cứu đặt vấn đề của tôi không giống mọi người, có gì bác bỏ qua cho.

Chào anh Dichnhan

Cảm ơn anh có ý kiến về cách diễn ngữ của bài viết, tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Tôi cũng đang nghĩ về bộ khung dàn bài, nên bắt đầu học Dịch từ đâu: nói về "Kinh" thì là những quy luật thường hằng bất biến, không thay đổi. Còn đối với "Dịch": thì sự ảnh hưởng của yếu tố Lịch sử, từ quá trình hình thành sách Dịch, các học phái chú giải, kết hợp với Học thuyết Tam Huyền của Hình nhi thượng, hoặc Học thuyết Tam giáo,...v.v...

- Ví như, chú giải về quẻ Càn, thì sách: Liệt Tử Dịch chú (NXB Thượng Hải cổ tịch - 1986), có viết:

"Thiên hữu thời, Địa hữu lợi", làm căn cứ cho điều kiện tự nhiên khách quan đối với: "Nhân hữu hòa".

Nhưng sách Dịch Vỹ chú về Dịch viết: "Bẩm sinh thụ số, ký hữu chế chi giả hĩ, diệc hữu tri chi giả hỹ, tri mệnh kỳ như nhữ hà" (Bẩm sinh thụ số, thì đã chế định rồi, cũng đã biết, biết mệnh để làm gì).

- Lại như, trong sách Chu Dịch, khi chúng ta đọc và nghiên cứu, cũng thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo độc tôn, mà "Dịch truyện" đã định rõ rằng:

"Hình nhi thượng giả, đạo dã".

Vậy mà, đối với tôn chỉ của Đạo giáo, khẳng định đề xuất, tại "Hệ từ" viết:

"Nhất âm nhất dương chi vị đạo".

Như vậy, giữa "Dịch truyện" và "Hệ từ", ta thấy rất rõ sự ảnh hưởng bản chất "Học thuyết", của hai trường phái vào sách Dịch đã rất sâu rộng, mang theo ẩn nghĩa đặc trưng của từng Học thuyết, từng trường phái.

Mong được anh Dịchnhan luôn quan tâm, gợi mở, định hướng khi chúng ta cùng nhau học Dịch.

Hà Uyên.

...

Thi Quy là cơ sở để Dịch Kinh dựa vào mà hình thành nên sự "chu lưu". Chúng ta khảo sát về con số 49 trong sách Dịch, khi ta đã biết được 1 = 13, tiếp theo là tìm hiểu tại sao lại biết được:

1 = 49

Có nghĩa rằng: Giáp Tý = Nhâm Tý

Sự khởi nguồn nguyên nhân hình thành về TUẦN KHÔNG - Số "trùng lưu", hay là số "trùng hư".

...

Tìm hiểu mối quan hệ giữa Hệ thống 60 Can Chi với Dịch Kinh. Đây là phần kiến thức ít thấy sách vở bàn tới. Trọng tâm tìm hiểu là trường phái Tam huyền đời nhà Hán.

Nhà Đại Dịch học Trịnh Huyền đã công bố về "HÀO THẦN ĐỒ", chúng ta bắt đầu khảo chứng từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH sau:

乾宫八卦属金

Càn cung bát quái thuộc kim 乾为天

Càn Vi Thiên 天风姤

Thiên Phong Cấu 天山遁

Thiên Sơn Độn 天地否

Thiên Địa Bỉ 风地观

Phong Địa Quán 山地剥

Sơn Địa Bác 火地晋

Hỏa Địa Tấn 火天大有

Hỏa Thiên Dại Hữu

坎宫八卦属水

Khảm cung bát quái thuộc thủy 坎为水

Khảm Vi Thủy 水泽节

Thủy Trạch Tiết 水雷屯

Thủy Lôi Truân 水火既济

Thủy Hỏa Ký Tế 泽火革

Trạch Hỏa Cách 雷火丰

Lôi Hỏa Phong 地火明夷

Địa Hỏa Minh Di 地水师

Địa Thủy Sư

艮宫八卦属土

Cấn cung bát quái thuộc thổ 艮为山

Cấn Vi Sơn 山火贲

Sơn Hỏa Bí 山天大畜

Sơn Thiên Đại Súc 山泽损

Sơn Trạch Tổn 火泽睽 Hỏa Trạch Khuê 天 泽履

Thiên Trạch Lý 风泽中孚

Phong Trạch Trung Phu 风山渐

Phong Sơn Tiệm

震 宫八卦属木

Chấn cung bát quái thuộc mộc 震为雷

Chấn Vi Lôi 雷地豫

Lôi Địa Dự 雷 水解

Lôi Thủy Giải 雷风恒

Lôi Phong Hằng 地风升

Địa Phong Thăng 水风井

Thủy Phong Tỉnh 泽风大过

Trạch Phong Đại Quá 泽雷随

Trạch Lôi Tùy

巽宫八卦属木

Tốn cung bát quái thuộc mộc 巽为风

Tốn Vi Phong 风天小畜

Phong Thiên Tiểu Súc 风火家人

Phong Hỏa Gia Nhân 风雷益

Phong Lôi Ích 天雷无妄

Thiên Lôi Vô Vọng 火雷噬嗑

Hỏa Lôi Phệ Hạp 山雷颐

Sơn Lôi Di 山 风蛊

Sơn Phong Cổ

离宫八卦属火

Ly cung bát quái thuộc hỏa 离为火

Ly Vi Hỏa 火 山旅

Hỏa Sơn Lữ 火风鼎

Hỏa Phong Đỉnh 火水未济

Hỏa Thủy vị Tế 山水蒙

Sơn Thủy Mông 风水涣

Phong Thủy Hoán 天水讼

Thiên Thủy Tụng 天火同人

Thiên Hỏa Đồng Nhân

坤宫八卦属土

Khôn cung bát quái thuộc thổ 坤为地

Khôn Vi Địa 地雷复

Địa Lôi Phục 地泽临

Địa Trạch Lâm 地天泰

Địa Thiên Thái 雷天大壮

Lôi Thiên Đại Tráng 泽天夬

Trạch Thiên Quải 水天需

Thủy Thiên Nhu 水地比

Thủy Địa Tỉ

兑宫八卦属金

Đoái cung bát quái thuộc kim 兑为泽

Đoài Vi Trạch 泽水困

Trạch Thủy Khốn 泽地萃

Trạch Địa Tụy 泽山咸

Trạch Sơn Hàm 水山蹇

Thủy Sơn Kiển 地山谦

Địa Sơn Khiêm 雷山小过

Lôi Sơn Tiểu Quá 雷泽归妹

Lôi Trạch Quy Muội

Từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH, chúng ta lần lượt xắp xếp Can Chi theo hệ thống, khởi đầu từ Giáp Tý, để xác định HÀO THẦN phối hợp với 60 Can Chi:

1. Giáp Tý – hào 1

2. Ất Sửu – hào 4

3. Bính Dần – hào 6

4. Đinh Mão – hào 2

5. Mậu Thìn – hào 2

6. Kỷ Tị - hào 6

7. Canh Ngọ - hào 4

8. Tân Mùi – hào 4

9. Nhâm Thân – hào 5

10. Quý Dậu – hào 6

11. Giáp Tuất – hào 6

12. Ất Hợi – hào 5

13. Bính Tý – hào 5

14. Đinh Sửu – hào 3

15. Mậu Dần – hào 1

16. Kỷ Mão – hào 1

17. Canh Thìn – hào 3

18. Tân Tị - hào 5

19. Nhâm Ngọ - hào 4

20. Quý Mùi – hào 1

21. Giáp Thân – hào 5

22. Ất Dậu – hào 6

23. Bính Tuất – hào 4

24. Đinh Hợi – hào 4

25. Mậu Tý – hào 6

26. Kỷ Sửu – hào 2

27. Canh Dần – hào 2

28. Tân Mão – hào 6

29. Nhâm Thìn – hào 3

30. Quý Tị - hào 2

31. Giáp Ngọ - hào 4

32. Ất Mùi – hào 1

33. Bính Thân – hào 3

34. Đinh Dậu – hào 5

35. Mậu Tuất – hào 5

36. Kỷ Hợi – hào 3

37. Canh Tý – hào 1

38. Tân Sửu – hào 1

39. Nhâm Dần – hào 2

40. Quý Mão – hào 3

41. Giáp Thìn – hào 3

42. Ất Tị - hào 2

43. Bính Ngọ - hào

44. Đinh Mùi – hào 6

45. Mậu Thân – hào 4

46. Kỷ Dậu – hào 4

47. Canh Tuất – hào 6

48. Tân Hợi – hào 2

49. Nhâm Tý – hào 1

50. Quý Sửu – hào 4

51. Giáp Dần – hào 2

52. Ất Mão – hào 3

53. Bính Thìn – hào 1

54. Đinh Tị - hào 1

55. Mậu Ngọ - hào 3

56. Kỷ Mùi – hào 5

57. Canh Thân – hào 5

58. Tân Dậu – hào 3

59. Nhâm Tuất – hào 6

60. Quý Hợi – hào 5

Hoa Giáp Phối Hào

1. Can Giáp: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Giáp Tý hào 1

- Giáp Tuất hào 6

- Giáp Thân hào 5

- Giáp Ngọ hào 4

- Giáp Thìn hào 3

- Giáp Dần hào 2

2. Can Ất: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ

- Ất Sửu hào 4

- Ất Hợi hào 5

- Ất Dậu hào 6

- Ất Mùi hào 1

- Ất Tị hào 2

- Ất Mão hào 3

3. Can Bính: Cấn – Bí - Đại súc - Tổn – Khuê – Lý – Trung phu - Tiệm

- Bính Dần hào 6

- Bính Tý hào 5

- Bính Tuất hào 4

- Bính Thân hào 3

- Bính Ngọ hào 2

- Bính thìn hào 1

4. Can Đinh: Đoài - Khốn - Tụy – Hàm - Kiển – Khiêm - Tiểu quá – Q.Muội

- Đinh Mão hào 2

- Đinh Sửu hào 3

- Đinh Hợi hào 4

- Đinh Dậu hào 5

- Đinh Mùi hào 6

- Đinh Tị hào 1

5. Can Mậu: Khảm - Tiết – Truân – Ký tế - Cách – Phong – M.di

- Mậu Thìn hào 2

- Mậu Dần hào 1

- Mậu Tý hào 6

- Mậu Tuất hào 5

- Mậu Thân hào 4

- Mậu Ngọ hào 3

6. Can Kỷ: Ly - Lữ - Đỉnh - Vị tế - Mông – Hoán - Tụng - Đồng nhân.

- Kỷ Tị hào 6

- Kỷ Mão hào 1

- Kỷ Sửu hào 2

- Kỷ Hợi hào 3

- Kỷ Dậu hào 4

- Kỷ Mùi hào 5

7. Can Canh: Chấn - Dự - Giải - Hằng – Thăng - Tỉnh - Đại quá – Tùy

- Canh Ngọ hào 4

- Canh Thìn hào 3

- Canh Dần hào 2

- Canh Tý hào 1

- Canh Tuất hào 6

- Canh Thân hào 5

8. Can Tân: Tốn - Tiểu súc – Gia nhân – Ích – Vô vọng - Phệ hạp - Di - Cổ

- Tân Mùi hào 4

- Tân Tị hào 5

- Tân Mão hào 6

- Tân Sửu hào 1

- Tân Hợi hào 2

- Tân Dậu hào 3

9. Can Nhâm: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Nhâm Thân hào 5

- Nhâm Ngọ hào 4

- Nhâm Thìn hào 3

- Nhâm Dần hào 2

- Nhâm Tý hào 1

- Nhâm Tuất hào 6

10. Can Quý: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ.

- Quý Dậu hào 6

- Quý Mùi hào 1

- Quý Tị hào 2

- Quý Mão hào 3

- Quý Sửu hào 4

- Quý Hợi hào 5

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

VÒNG 8

1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại.

2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đáng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6

- “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”.

- “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”.

4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2

- “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”.

- “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”.

5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2

- “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”.

- “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”.

6. Kỷ Tị - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6

- “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”.

- “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”.

7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4

- “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu!”.

- “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”.

8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4

- “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”.

- Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”.

9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

11. Giáp Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5

- “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”.

- “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”.

14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3

- “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”.

- “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”.

15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1

- “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”.

- “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”.

16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1

- “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”.

- “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”.

17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”.

- “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”.

18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5

- “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”.

- “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4

- “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”.

24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4

- “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời”

- “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”.

25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6

- “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”.

- “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”.

26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2

- “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”.

- “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”.

27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”.

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”.

28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự”

- “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3

- “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”.

- “Chín Ba, chin đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang để con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh.

34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5

- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”.

- “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành.

35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”.

- “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”.

36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3

- “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng”

- “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”.

37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1

- “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”.

- “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”.

38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1

- “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”.

- “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”.

39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2

- “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”.

- “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”.

44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6

- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”.

- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”.

45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4

- “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”.

46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4

- “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”.

- “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”.

47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6

- “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”.

- “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”.

48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2

- “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”.

- “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”.

49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”.

51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1

- “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”.

- “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”.

54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1

- “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”.

- “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”.

55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3

- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung”

- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”.

- “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”.

57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5

- “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”.

- “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”.

58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”.

- “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

Vòng 8, với sự khởi đầu là ngày Giáp Tý, cho chúng ta nhận thức được một hàm nghĩa rất rõ ràng: "nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại".

Đạo lý hay thật!!!

...

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

VÒNG 2

...........................LỮ

........TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

VÒNG 1

...........................LY

........TỐN.............................KHÔN

...CHẤN.....................+..............ĐOÀI

.........CẤN.............................CÀN

...........................KHẢM

Khảo sát ngày Giáp Tý phối hợp với Hào từ quẻ Dịch, thông qua 8 vòng

Giáp Tý

1. Ngày Giáp Tý vòng 1: Càn hào 1

- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.

- “Hào Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng”.

2. Ngày Giáp Tý vòng 2: Cấu hào 1

- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịch trục.”

- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”

3. Ngày Giáp Tý vòng 3: Độn hào 1

- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

4. Ngày Giáp Tý vòng 4: Bĩ hào 1

- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

5. Ngày Giáp Tý vòng 5: Quán hào 1

- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

6. Ngày Giáp Tý vòng 6: Bác hào 1

- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”

- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

7. Ngày Giáp Tý vòng 7: Tấn hào 1

- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”

- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.

8. Ngày Giáp Tý vòng 8: Đại hữu hào 1

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

Xét thấy ngày Giáp Tý thông qua 8 vòng mà sao lời Hào từ lại nói "vật dụng" khởi đầu ở Vòng 1, mà tới cùng là Vòng 8 nói "chưa đi lại giao du thì chưa mắc hoạ", lạ thật!!!.

Vậy thì, có sự liên hệ tới Độn Giáp chăng?

...

Bài số #13, chúng ta đã có ví dụ về VÒNG 8, hệ thống 60 can chi phối hợp với Hào từ của 8 quẻ thuộc Vòng 8.

Nhận xét thấy:

- Mỗi quẻ Dịch có 6 hào, ta ví dụ mỗi một Hào trong quẻ Dịch tương đương với đơn vị tính là một ngày. Như vậy, một vòng Dịch Can Chi sẽ tương đương với 60 ngày. Thuận tự hết 8 vòng, thì số ngày là: 60 x 8 = 480 ngày tương đương với 480 hào từ.

- Khi người xưa quy định sự phối hợp Thiên can với quẻ Dịch, thì can Giáp - Nhâm phối với quẻ Càn, can Ất - Quý phối với quẻ Khôn. Từ nguyên nhân này, đã nảy sinh ra số "Trùng lưu" (Lão Tử gọi là Trùng hư), cụ thể như sau:

- Số 1 ~ số 49 ==> Giáp Tý <=> Nhâm Tý

- số 2 ~ số 50 ==> Ất Sửu <=> Quý Sửu

- số 9 ~ số 21 ==> Nhâm Thân <==> Giáp Thân

- số 10 ~ số 22 ==> Quý Dậu <==> Ất Dậu

- số 11 ~ số 59 ==> Giáp Tuất <==> Nhâm Tuất

- số 12 ~ số 60 ==> Ất Hợi <==> Quý Hợi

- số 19 ~ số 31 ==> Nhâm Ngọ <==> Giáp Ngọ

- số 20 ~ số 32 ==> Quý Mùi <==> Ất Mùi

- số 21 ~ số 9 ==> Giáp Thân <==> Nhâm Thân

- số 22 ~ số 10 ==> Ất Dậu >==> Quý Dậu

- số 29 ~ số 41 ==> Nhâm Thìn <==> Giáp Thìn

- số 30 ~ số 42 ==> Quý Tị <==> Ất Tị

- số 31 ~ số 19 ==> Giáp Ngọ <==> Nhâm Ngọ

- số 32 ~ số 20 ==> Ất Mùi <==> Quý Mùi

- số 39 ~ số 51 ==> Nhâm Dần <==> Giáp Dần

- số 40 ~ số 52 ==> Quý Mão <==> Ất Mão

- số 41 ~ số 29 ==> Giáp Thìn <==> Nhâm Thìn

- số 42 ~ số 30 ==> Ất Tị <==> Quý Tị

- số 49 ~ số 1 ==> Nhâm Tý <==> Giáp Tý

- số 50 ~ số 2 ==> Quý Sửu <==> Ất Sửu

- số 51 ~ số 39 ==> Giáp Dần <==> Nhâm Dần

- số 52 ~ số 40 ==> Ất Mão <==> Quý Mão

- số 59 ~ số 11 ==> Nhâm tuất <==> Giáp Tuất

- số 60 ~ số 12 ==> Quý Hợi <==> Ất hợi

Như vậy, trong 24 ngày được gọi là "trùng lưu" này, thì số ngày thực tính mang thông tin, chỉ còn 12 ngày, vậy nên số "thông tin" thực có sẽ là 60 - 12 = 48, tương đương với một vòng Dịch Can Chi - Khi trải qua 8 vòng thì số "thông tin" là 48 x 8 = 384, tương đương với số hào của 64 quẻ Dịch.

Ta có thể đưa ra một kết luận rằng: trong quá trình thực tính, thì tổng số hào của Kinh Dịch là 480 hào, được phân làm 8 vòng, mỗi một vòng là 60 hào tương đương với 60 can chi, trong mỗi một vòng thì số "trùng lưu" sẽ là 12.

Từ đây, chúng ta nhận thức được tại sao LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN chỉ dùng đơn vị số quẻ là 48. Nhưng bên trong số 48 này, vẫn ẩn tàng số "trùng hư", để thuận theo số chu kỳ của thời gian là 60.

480 HÀO LÀ SỐ THỰC CỦA KINH DỊCH.

...

Hệ thống 60 can chi, khi phối ứng với 384 Hào từ quẻ Dịch sẽ thuận tự trải qua 8 vòng, nhận thấy một vòng 60 ngày sẽ có 12 ngày mang "thông tin" trùng nhau, được trường phái "Tam huyền" (Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Dương Hùng) gọi là số "Trùng lưu". Ta xét tỷ lệ: 1 / 4, có nghĩa rằng: 48 ngày mang "thông tin" tỷ lệ với 12 ngày mang "thông tịn" trùng lưu (thông qua một mà biết bốn - Khổng Tử). Tỷ lệ này, được ứng dụng một cách nghiêm mật, rải khắp trong các môn thuật toán Đông Phương học.

Phép bói Cỏ thi mà sách Dịch có bàn tới, sử dụng số 49 cọng cỏ thi. Con số "49" này, xét thấy tương đương với số "1". Chúng ta đã phối ứng "Thời gian" với Hào từ Kinh Dịch, thấy rằng một "thông tin" ẩn tàng trong "can chi", ví như trong ngày Giáp Tý, thì sau 49 ngày, tới ngày Nhâm Tý thì "thông tin" quay trở lại (phản bản hoàn nguyên - quy luật Phản Tổ).

Ta đang bàn về học thuyết thuyết "Bản thể", đã nhận thấy sự khởi nguồn khi người xưa định "Tuần không", khi chúng ta tìm hiểu về học thuyết thuyết "Sinh - Thành", thì sẽ nhận thức rõ thêm tại sao người xưa quy định như vậy.

...

Một Ví dụ mà Tôi thường ứng dụng và trải nghiệm:

Can Chi ngày sinh của Tôi là ngày Ất Mùi, nếu tính theo số TỬ BÌNH hay LỤC NHÂM, thì hiện tại Tôi đang ở trong VÒNG 6.

Trước tiên, Tôi tìm hiểu ý nghĩa cấu tạo của VÒNG 6 cho ta biết về những "Sự" gì?

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Hướng Nam, đó là sự lìa tan - Phong Thuỷ Hoán

- Hướng Bắc, đó là sự thịnh lớn - Lôi Hoả Phong

- Hướng Đông, đó là "Mạch nước ngấm không cùng" - Thuỷ Phong Tỉnh

- Hướng Tây, đó là sự khiêm tốn - Địa Sơn Khiêm

- Hướng Tây - Bắc, đang là sự bong ra từng mảng - Sơn Địa Bác

- Hướng Tây - Nam, đang có sự quyết đoán - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Nam, đang có sự cắn để hợp lại - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Bắc, đang có nhắc nhở về "sự thận trọng trong đi lại" - Thiên Trạch Lý.

Một người bạn có lời mời Tôi đi miền Nam, từ VÒNG 6 xét thấy, phía Nam đang có sự lìa tan, ứng hợp vào tháng nào đây? Chắc là tháng Nhâm Ngọ vậy. Tôi thành thật cảm ơn bạn mình, và trả lời không thể đi được.

Hướng Tây Nam đang có sự quyết đoán, lại có lưu "Lộc Tồn", tôi chiêm đoán rằng: cơ quan mà tôi đã làm việc, đang cân nhắc tiền thưởng cho một số cán bộ lão thành.

Khi tính theo số ĐỘN GIÁP thì can ngày sinh Ất Mùi của Tôi cho tôi biết những thông tin gì đây?

.........................................Tân gia Mậu

..................Kỷ gia Canh................................Đinh gia Nhâm (Đinh gia Giáp)

....Mậu / Tân...............................+.......................Ất / Bính

...................Nhâm / Đinh................................Bính / Quý

.............................................Canh / Kỷ

Như vậy, Can ngày sinh của Tôi đang nhắc nhở tôi, cho tôi biết thông tin rằng: tôi cần phải có sự khiêm tốn (Địa Sơn Khiêm) trong những ngày tới.

Không biết số Thái ất của Tôi còn nói cho tôi biết thêm những thông tin gì đây.!

...

Khảo sát vòng 2

...........................LỮ

.....TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

Nhận xét thấy

- Hướng Tây -Nam cung Khôn 2, mang quẻ Địa Lôi Phục phối hợp với hướng Đông, cung Chấn 3 mang quẻ Lôi Địa Dự, hướng Tây - Nam thì: Địa ở bên ngoài mà Lôi ở bên trong ; Địa ở trên mà Lôi ở dưới ; Địa ở ngọn mà Lôi ở gốc,...v.v... Đối với hướng Đông thì vị trí Nội quái và Ngoại quái được thay đổi cho nhau (không phải là đảo - ngược quái): Lôi lại ở bên ngoài còn Địa lại ở bên trong => Lôi Địa <==> Địa Lôi (Tây Nam <==> Đông). Tương tự:

- Hướng Tây - Bắc cung Càn 6, mang quẻ Thiên Phong Cấu phối hợp với hướng Đông - Nam cung Tốn 4, mang quẻ Phong Thiên Tiểu súc => Thiên Phong <==> Phong Thiên (Đông Nam <==> Tây Bắc)

- Hướng Đông - Bắc quẻ Cấn 8, mang quẻ Sơn Hoả Bí phối hợp với hướng Nam cung Ly 9 mang quẻ Hoả Sơn Lữ => Sơn Hỏa <==> Hỏa Sơn (Đông Bắc <==> Nam)

- Hướng Bắc cung Khảm 1, mang quẻ Thuỷ Trạch Tiết phối hợp với hướng Tây cung Đoài mang quẻ Trạch Thuỷ Khốn => Thuỷ Trạch <==> Trạch Thuỷ (Bắc <==> Tây)

Nội ngoại, trong ngoài, trên dưới, trước sau, gốc ngọn, nhân quả...v.v... đều thay đổi vị trí cho nhau. Khi sự thay đổi vị trí quái như vậy, thì chúng ta nhận thức được gì đây? Phải chăng, cái "bên ngoài" của hướng Tây phản ảnh thông tin cái "bên trong" của hướng Đông - Bắc, cũng như cái "bên trong" của hướng Tây Bắc phản ánh thông tin về cái "bên ngoài" của hướng Đông Nam,...v.v...

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

NHẬN XÉT:

- Cung Càn 6 với cung Cấn 8: trong ngoài, trên dưới, nội ngoại, thay đổi vị trí cho nhau: Thiên Sơn <=> Sơn Thiên, hướng Tây Bắc <=> Đông Bắc.

- Cung Khảm 1 với cung Chấn 3: trên dưới thay đổi vị trí cho nhau: Thuỷ Lôi <=> Lôi Thuỷ

- Cung Khôn 2 với cung Đoài 7: trên dưới thay đổi vị trí: Địa Trạch <=> Trạch Địa

- Cung Tốn 4 với cung Ly 9: Phong Hỏa <=> Hoả Phong.

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

- Cung Càn 6 với cung số Khôn 2: Thiên Địa <=> Địa Thiên => Giáp Nhâm = Ất Quý >> hướng Tây Bắc và hướng Tây Nam

- Cung Đoài 7 với cung Cấn 8: Bính <=> Đinh

- Cung Khảm 1 với cung Ly 9: Mậu <=> Kỷ

- Cung Chấn 3 với cung Tốn 4: Canh <=> Tân

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

- Cung Cấn 8 với cung Khảm 1: Bính <=> Mậu

- Cung Tốn 4 với cung Khôn 2: Tân <=> Ất (Quý)

- Cung Chấn 3 với cung Càn 6: Canh <=> Giáp (Nhâm)

- Cung Ly 9 với cung Đoài 7: Kỷ <=> Đinh

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Tây Bắc cung Càn 6 phối ứng với Tây cung Đoài 7: Đinh <=> Nhâm (Giáp)

- Đông Bắc cung Cán 8 phối ứng với Tây Nam cung Khôn 2: Bính <=> Quý (Ất)

- Hướng Bắc cung Khảm 1 phối ứng với hướng Đông Nam cung Tốn 4: Mậu <=> Tân

- Hướng Đông cung Chấn 3 phối ứng với hướng Nam cung Ly 9: Canh <=> Kỷ.

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

- Cặp [ 9 <=> 2 ] => Ly <=> Khôn (Nam ~ Tây Nam)

- Cặp [ 7 <=> 4 ] => Đoài <=> Tốn (Tây ~ Đông Nam), (Đinh ~ Tân)

- Cặp [ 6 <=> 1 ] => Càn <=> Khảm (Tây Bắc ~ Bắc)

- Cặp [ 8 <=> 3 ] => Cấn <=> Chấn (Đông Bắc ~ Đông)

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

- Cặp 6 ~ 9 => Hỏa Thiên ~ Thiên Hỏa

- Cặp 3 ~ 7 => Trạch Lôi ~ Lôi Trạch

- Cặp 1 ~ 2 => Địa Thủy ~ Thủy Địa

- Cặp 8 ~ 4 => Phong Sơn ~ Sơn Phong

Chúng ta đã xong được một bước. Tiếp theo, ta cần phải biết được, trong 32 cặp phối hợp này, cặp nào là cặp có sự "dao động" mạnh nhất. Hệ số "dao động" này, giúp được gì cho chúng ta khi ứng dụng vào thực tiễn?

Có người, gặp hệ số "dao động" thấp mà vẫn bị họa tai, có người lại gặp hệ số "dao động" cao mà họ vẫn có khả năng vượt qua (!).

Ta tiếp tục khai phá những điều mà người xưa cho là "nghiêm mật".

...

Điều mà người xưa cho là "nghiêm mật", chính là "cái mà phải dựa vào đang dần mất đi sự ổn định".

Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm.

Dịch - Sơn Địa Bác, tượng hào 2 nói: "Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã", có nghĩa rằng: "Đã đến lúc muốn nằm nghỉ, thì giường nằm từ cứng mạnh đang chuyển thành hư yếu".

Phải dừng lại, vì người ta không thể quên nguồn cội của mình. Thường ngày cần phải củng cố cái "gốc" để phòng sự "bác". Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một tăng lên, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi.

Cái mà ta phải dựa vào đó vậy!

...

Chúng ta tiếp tục khảo sát xem người xưa đã tổ hợp như thế nào (?), từ 48 cặp can chi mang thông tin này, làm sao có thể quy tụ về còn 12 cặp can chi, mà người xưa gọi là 12 "thần". Như vậy, sẽ hình thành 4 chu kỳ của 12 "thần".

...

Năm Canh Dần - 2010, do vậy ta bắt đầu khảo sát từ LỤC CANH

Canh Dần

1. Chu kỳ 1 - Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2

- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.”

- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”

- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – ý nói tượng hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

2. Chu kỳ 2 - Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2

- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.”

- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – "Không đợi ngày mà biết", vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

3. Chu kỳ 3 - Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2

- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát.”

- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – "Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành", nói lên được đạo ở giữa không lệch.

4. Chu kỳ 4 - Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2

- “Cửu Nhị, hối vong.”

- “Chín Hai, hối hận tiêu hết.”

- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – "Chín Hai hối hận tiêu hết", nói lên Chín Hai có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

5. Chu kỳ 5 - Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2

- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”

- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi tội lỗi.”

- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

6. Chu kỳ 6 - Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2

- “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.”

- “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc lên.”

- Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - "Rốn giếng bị uổng dùng", nói lên Chín Hai không có ứng với trên. (Mỹ, Nga, Trung quốc)

7. Chu kỳ 7 - Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 1

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - "Lấy cỏ tranh trắng lót vật biếu người trên", nói ý hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8. Chu kỳ 8 - Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu.”

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng.”

- Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - "Quấn quýt với kẻ tiểu tử", nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi.

...

Khảo sát từ LỤC CANH Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 1 viết: "Thiên nhất địa nhị. Thiên tam địa tứ. Thiên ngũ địa lục. Thiên thất địa bát. Thiên cửu địa thập." Như vậy trong hệ chu kỳ số đếm 10, thì can Canh ở vị trí thứ 7. Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 5 viết: "Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã" (Số trong hai thiên của Kinh Dịch là 11520, tương đương với số chỉ vạn vật." Dịch viết: số 11.520 là số tương đương chỉ vạn vật (!), như một di ngôn "mật khẩu" được mật truyền trong Kinh, ta nhận thức như thế nào về lời di ngôn này? Từng bước tiếp cận, khởi đầu từ lời Dịch viết: " Vạn vật xuất hồ Chấn ". Sử dụng 3 chu kỳ: đó là chu kỳ 10, chu kỳ 12, và chu kỳ 14 làm phương tiện nhận thức về Thiên đạo (đường vận hành trời). Chu kỳ 10 được gọi là chu kỳ Thiên can, gồm thứ tự số đếm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Chu kỳ 12 được gọi là chu kỳ Địa chi, gồm thứ tự số đếm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Chu kỳ 10 và 12 cho chúng ta một hệ chu kỳ số đếm 60, khởi nguyên từ Giáp phối ứng với Tí, kết thúc khi Quý phối ứng với Hợi, thường gọi là một Giáp Tí. Khi tổ hợp phối ứng với chu kỳ 14, có nghĩa là khởi nguyên đồng thời cả ba chu kỳ, thì ta được một hệ chu kỳ số đếm 420, thường được gọi là một Đại Giáp Tí (7 x 60). Một Đại Giáp Tí là một chu kỳ gồm 420 năm (ngày).

...

Khảo sát một số sách chú giảng về Dịch nói: số chỉ vạn vật tương đương với số 11520 (!)

1. Sách " Chu Dịch Đại truyện " - Nhà XB KHOA HỌC XÃ HỘI - 2006 - Lê Anh Minh dịch - chú (tr 94):

- "Thiên" = Kinh dịch có hai thiên ; thượng thiên (tức thượng kinh) có 30 quẻ ; hạ thiên (tức hạ kinh) có 34 quẻ.

- 64 quẻ cả thảy 192 hào dương và 192 hào âm. Khi bói:

- Lập được hào Dương, số que kẹp kẽ tay là 13, còn lại là 36 que. Vậy 36 x 192 = 6912.

- Lập được hào Âm, số que kẹp kẽ tay là 25, số que còn lại là 24. Vậy 24 x 192 = 4608

- Kết quả: 6912 + 4608 = 11520

- Khi nói "vạn vật", thì "vạn" là mười ngàn (nhưng đó là nói tổng quát).

- Số 11520 tương đương với con số chỉ vạn vật.

2. Sách: KINH DỊCH - ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ - Nguyễn Hiến Lê - Trang 462 - CHƯƠNG IX - Tiết 5 viết:

- " Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã "

- Dịch: " Số thẻ của hai thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng - vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật ".

- Chu Hi giảng: Hai thiên trong Kinh dịch gồm tất cả 192 hào dương và 192 hào âm. Như tiết trên đã nói, số của quẻ Càn là 216, vậy số của mỗi hào quẻ Càn, tức mỗi hào dương là 216 / 6 = 36. Số của quẻ Khôn là 144, vậy số của mỗi hào quẻ Khôn, tức mỗi hào âm là 144 / 6 = 24.

- Tổng số 192 hào dương là 36 x 192 = 6.912 ; Tổng số 192 hào âm là 24 x 192 = 4.608 Cộng cả dương lẫn âm được 6.192 + 4.608 = 11.520

- Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ thời đó có khoảng một vạn mốt loài chăng?

3. Nguồn sách: Thư viện Đại học Cambridge University Library

http://www.lib.cam.a...lu/fb70306.html

TRUNG HOA ĐẠO THÁNH [ 中华 道 藏 ]

Dịch Số 7 - 8 - 9 - 6

Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động".

Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh".

Các bước thực hiện:

- Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56

- Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49

- Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50

- Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51

- Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52

- Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53.

- Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54

- Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55

Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau:

..49.....50.......51......52.....53....54....55....56.

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày,..., Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn"

Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau:

....................56....................

...........52................55..........

...54...............+.................51..

..........50.................53............

.....................49....................

Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt.

Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212

Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208

Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành?

Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị

Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?)

Lại tiếp tục khảo sát:

..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8)

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9)

Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60.

Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.

...

Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.

...

Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động"

....................CÀN.........................KHÔN..........

Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24......

Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12.....

Hào một...............= 9..........................= 6......

- Quẻ Chấn:

hào một dương 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất)

- Quẻ Khảm:

hào một âm 6,

hào hai dương 9 x 2 = 18,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48

- Quẻ Cấn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương 18 x 2 = 36.

Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54.

- Quẻ Tốn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60

- Quẻ Ly:

hào một dương trị số là 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57.

- Quẻ Đoài:

hào một dương trị số là 9,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12.

Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51.

Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63.

Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42.

.42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63...

Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn..

.49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56...

Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8)

Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9)

Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành?

Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ???.

Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không?

...

Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh.

Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau:

..1......2......3......4......5......6......7......8......9..

.49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41..

.40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32..

.31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23..

.22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14

.13....12.....11....10......9......8......7......6......5

..4......3......2......1......0..............................

.................................9......8......7......6.....???

Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4.

Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau:

...1......2......3......4......5......6......7......8......9..

..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48..

....................................................................

....................................................................

....................................................................

....................................................................

..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3..

...2.......1.....0................................................

Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu?

...

Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.

Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ

Chào Anh Chị Em trên diễn đàn.

Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau:

A: 3 nét ; Ă: 4 nét ; Â: 5 nét

B: 3 nét

C: 1 nét

D: 2 nét ; Đ: 3 nét

E: 4 nét ; Ê: 6 nét

G: 2 nét ;

H: 3 nét

I: 1 nét

K: 3 nét

L: 2 nét

M: 4 nét

N: 2 nét

O: 2 nét

Ô: 4 nét

Ơ: 3 nét

P: 2 nét

Q: 3 nét

R: 3 nét

S: 1 nét

T: 2 nét

U: 1 nét

Ư: 2 nét

V: 2 nét

X: 2 nét

Y: 3 nét

Sắc(/): 1 nét

Huyền (\): 1 nét

Hỏi (?): 2 nét

Ngã (~): 1 nét

Nặng (.): 1 nét

Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau:

Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá,

Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán.

Cụ thể:

- "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái

- "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái

Thực hiện:

- Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1

=> 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12

- Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9

- Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3

=> 1 + 5 + 3 = 9

Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40

40 / 8 = 5 => được quái Khôn.

- Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17.

- Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1

=> 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11

- Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2

=> 1 + 3 + 2 = 6

- Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1

=> 3 + 1 + 3 + 1 = 8

Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42

42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài

Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM.

Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái:

- Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1

=> 4 + 2 + 1 + 1 = 8

- Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1

=> 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11

- Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2

=> 3 + 2 = 5

- Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9

- Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16

Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59

59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly

- Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 1 = 5

- Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1

=> 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10

Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25

25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn

Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU.

- Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6

Posted Image Posted Image

- Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu.

Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch.

Hà Uyên.

...

dichnhan07, on May 17 2010, 03:04 PM, said:

Tôi có một thắc mắc đó là tại sao không phải là an quẻ từ dưới lên mà lại an từ trên xuống, trong khi đó tên gọi lại là Lâm (dưới)-Đại Hữu (trên). Tôi thử biến lại thành Tụy (dưới)-Đồng Nhân (trên), bác thử xét xem liệu quẻ nào hợp hoàn cảnh hơn.

Kính Bác.

Anh Dichnhan

Khi ngài Tiêu Diên Thọ xây dựng kết cấu cho học thuyết của mình, Ông lấy Can Chi "ngày" làm "Bản" (gốc). Do vậy, ngài Tiêu mới lấy "Trực nhật" để minh chứng cho "Tiêu Lâm".

Hôm nay, là ngày Đinh Mão, là Can Chi ứng cho ngày "Âm", nên tôi trải nghiệm theo nguyên tắc mà ngài Tiêu Diên Thọ đã đặt ra.

Anh tham khảo thêm.

Hà Uyên.

...

Chào Thiên đồng

Cảm ơn Bạn rất nhiều từ những ý kiến mà Bạn đặt vấn đề. Tôi đang trải nghiệm, cùng luận giải thêm với Thiên Đồng sau.

Gần đây, về cá nhân, tôi đang thử nghiệm, nhưng không nói ra, về: Họ và Tên của sự Hợp khí, với điều kiện là: Âm dương đã hợp hóa => đã "sinh". Ví dụ như tên của Dương: Trần văn A, tên của Âm là Nguyễn thị B => tôi phân: Trần Văn làm Ngoại quái, còn tên là chữ A, thì đặt làm Nội quái. Đối ứng với Âm, thì Nguyễn Thị tổ hợp làm Ngoại quái, còn tên chữ là B, thì tổ hợp làm Nội quái. Tôi thử nghiệm xét thấy, có nhiều điều rất lạ khi thông tin được bộc lộ ra, từ hai quẻ Đối ứng.

Chia sẻ cùng Thiên Đồng và Anh Chị Em.

Hà Uyên.

HÀO DỊCH THÔNG KHÍ - 72 SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA QUẺ DỊCH

SƠN LÔI DI – 72 CỤC

Di: Trinh cát ; quan di, tự cầu khẩu thực.

Dịch: “Quẻ Di tượng trương cho sự nuôi dưỡng: giữ vững chính bền thì được tốt lành. Xem xét hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, cần biết dùng chính đạo trong việc từ tìm thức ăn nuôi mình.”

Chú thích: chứ “di” cổ văn mà nhìn ngang thì giống như cái mép, là tên gọi “cái mép”, tượng trưng trong mồm ngậm thức ăn, dưới Chấn động trên Cấn ngưng chỉ, có tượng như đang nhai thức ăn, nhai vật, khi động khi ngừng. Trời đất tạo hóa nuôi nấng muôn vật, mỗi vật được một cách nuôi riêng thì đó cũng là chính đạo mà thôi. Xem cách nuôi của người và cách họ tự tìm thức ăn cho mình, thì sự thiên ác lành giữ có thể thấy được.

Thoán viết: Di, trinh cát, dưỡng chính tắc cát dã. Quan di, quan kỳ sở dưỡng dã ; tự cầu khẩu thực, quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật, thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân: di chi thời đại hỹ tai.

Dịch: “Thoán truyện nói: Nuôi dưỡng, giữ vững chính bền thì được tốt lành. Quan sát hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, là quan sát điều kiện khách quan để có được sự nuôi dưỡng ; nên biết dùng chính đạo trong việc tự tìm thức ăn nuôi mình, tức quan sát để biết được về phương pháp chủ quan tự nuôi mình đúng đắn nhất. Trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng người hiền cho tới muôn dân ; công hiệu của thời “di dưỡng” lớn vậy thay!”

Chú thích: Người quân tử cắt (miếng thịt) không ngay ngắn không ăn, huống chi là miếng ăn phi nghĩa. Bởi vậy cho nên kẻ được nuôi dưỡng phải là kẻ hiền minh, từ nuôi mình tất phải hợp lễ, đó là nghĩa “dưỡng chính” vậy. Về sự sinh và sự dưỡng của muôn vật, thì “thời” là lớn.

Tượng viết: Sơn hạ hữu Lôi, di ; quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.

Dịch: “Tượng truyện nói: Dưới núi vang động tiếng sấm của quẻ Chấn (dưới động trên ngưng, như miệng nhai thức ăn), tượng trưng cho sự “nuôi dưỡng”, người do vậy thận trọng nói năng để dưỡng đức, tiết chế sự ăn uống để nuôi mình.”

Chú thích: noi theo đạo “dưỡng chính” của quẻ Di, dưỡng đức và dưỡng thân rất quan trọng đối với thời “nuôi dưỡng”. Họa theo miệng mà ra, hoạn theo miệng mà vào, cho nên đối với sự nuôi dưỡng, thì phải “thận trong” và “tiết chế” vậy.

HÀO 9.1

1- Sơn Lôi Di 9.1:

- “Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa di, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm,”

- Tượng: Hào Chín Đầu không đáng được tôn trọng. Chưa đủ nói lên sự sang giầu quý phái.

2- Sơn Trạch Tổn hào 1:

- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu ; chước tổn chi.”

- Dịch: Hào Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân.”

- Tượng: Hào Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

3- Sơn Thiên Đại súc hào 1:

- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi. Không gặp tai ương.

4- Hỏa Thiên Đại hữu: hào 1

- “Cửu Tứ, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp tội tỗi.”

- Tượng: Hào Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai thì cũng không mắc phải họa hại.

5- Thuần Càn hào 1:

- “Cửu Ngũ, Tiềm long, vật dụng.”

- Dịch: “Hào Chín đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

6- Trạch Thiên Quải hào 1:

- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự họa hại đến.

7- Trạch Phong Đại quá hào 1:

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8- Trạch Sơn Hàm hào 1:

- “Sơ Lục, Hàm kỳ mẫu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu chí hướng phát triển ra phía ngoài.”

9 Trạch Địa Tụy hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy, nhược hào, nhất ác vi tiếu: vật tuất, vãng vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyện tình mà kêu gọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay ; Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu tâm chí có sự mê loạn.

10- Thủy Địa Tỷ hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô vữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục, mà hưởng được sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói hào Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, tất sẽ được tốt lành.

11- Thuần Khôn hào 1:

- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”

- Dịch: “ Hào Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói lên khí âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày sẽ đến.

12- Sơn Địa Bác hào 1:

- “Sơ Lục, bác sàng dỹ túc, miệt ; trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu trước tiên bị làm ruỗng mọt phần nền móng phía dưới.

13- Sơn Lôi Di 9.1

HÀO 6.3

1- Sơn Lôi Di 6.3:

- Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.”

- Tượng: Hào Sáu Ba đại nghịch bất đạo với chính đạo nuôi dưỡng.

2- Hỏa Lôi Phệ hạp 9.4:

- “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu nhân lận, vô cữu.”

- Dịch: “ Hào Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại”

- Tượng: Hào Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán.

3- Thiên Lôi Vô vọng 9.5:

- “ Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”

- Tượng: Hào Sáu Ba vận số đến lúc bị tai bay vạ gió, bị đổ tội oan.

4- Trạch Lôi Tùy 6.6:

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền.”

- Tượng: Hào Sáu Ba là bỏ kẻ tiểu tử ở dưới.

5- Trạch Địa Tụy 6.1:

- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự tiếc nhỏ.”

- Tượng: Sáu Ba lòng muốn hướng lên trên thuận theo dương cứng.

6- Trạch Thủy Khốn 9.2:

- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung.”

- Dịch: “khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dừa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.”

- Tượng: Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương cường. “Về nhà không thấy vợ” đây là hiện tượng chẳng lành.

7- Trạch Phong Đại quá 9.3:

- “Cửu Tam, đống náo, hung.”

- Dịch: “hào Chín Ba, cột ỏe, hung.”

- Tượng: Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp.

8- Thủy Phong Tỉnh 6.4:

- “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ phúc.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng trắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng trong này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.”

- Tượng: Chín Ba có hành vi chưa được hiểu, thật khiến cho người ta động lòng chắc ẩn, “nhà vua sáng suốt” là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch.

9- Địa Phong Thăng 6.5:

- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”

- Tượng: Chín Ba thượng thăng sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

10- Sơn Phong Cổ 9.6:

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn.”

- Tượng: Chín Ba mạo hiểm đưa ra lời can gián, cuối cùng không thể có cữu hại

11- Sơn Thiên Đại súc 9.1:

- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn cư về, lợi hữu du vãng.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe, lợi về có sự đi.”

- Tượng: Chín Ba hợp chí với hào Chín Trên.

12- Sơn Hỏa Bí 6.2:

- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững chính bền được lâu dài sẽ được sự tốt lành.”

- Tượng: Chín Ba có thể làm được như vậy thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

13- Sơn Lôi Di 6.3

HÀO 6.4

1- Sơn Lôi Di 6.4:

- “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn ở ngôi trên mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Lòng đầy thèm muốn. Điềm cát, đã thực hiện xong công việc.

2- Phong Lôi Ích hào 4:

- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân.”

- Tượng: Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công

3- Thủy Lôi Truân hào 4:

- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”

- Tượng: Sáu Bốn muốn cầu hôn ở phía dưới mà tiến lên, như vậy là kẻ sáng suốt hiểu biết.

4- Thủy Địa Tỷ hào 4:

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, ở ngoài thân mật, gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành.”

- Tượng: Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng.

5- Thuần Khảm hào 4:

- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.”

6- Thủy Phong Tỉnh hào 4:

- “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất không cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn chỉ có thể sửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người.

7- Trạch Phong Đại quá 9.4:

- “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng viện với dưới, tất sinh thẹn tiếc.”

- Tượng: Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa.

8- Lôi Phong Hằng hào 4

- Lục Tứ, điền vô cầm.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đi săn không được cầm thú.”

- Tượng: Sáu Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?

9- Hỏa Phong Đỉnh hào 4:

- “Cửu Tứ, đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, vạc khó lòng chựu nổi sức nặng, chân vạc gãy, cao lương mỹ vị của vương công bị đổ hết, thân vạc ướt át bẩn thửu, có hung hiểm.”

- Tượng: Chín Bốn làm sao còn tín nhiệm được nữa. Chân đỉnh bị cắt, tức là lật đổ chế độ cũ, nên tin như thế nào cho phải?

10- Hỏa Thiên Đại hữu hào 4:

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, đừng để tỏ ra quá sự giầu có thì không bị họa hại.”

11- Thuần Ly hào 4:

- “Cửu Tứ, đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán diệt vong, bị vứt bỏ sạch trơn.”

- Tượng: hư thế của Chín Bốn sẽ làm cho nó không còn nơi phụ bám, chứa chấp. Vật đột nhiên đến, không có chỗ dung thân.

12- Hỏa Lôi Phệ hạp hào 4:

- “Cửu Tứ, phệ can tỷ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng, lợi về trong gian nan giữ vững được chính bền, tốt lành.”

- Tượng: đạo trị ngục của Chín Bốn chưa phát huy được sáng lớn, không sáng sủa gì.

13- Sơn Lôi Di hào 4

HÀO 6.5

1- Sơn Lôi Di 6.5

- “Lục Ngũ, phất kinh, cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự kẻ trên nuôi nình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường, ở yên giữ vững chính bền thìđược tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Sáu Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền lương dương cứng Chín Trên. Thuận tình đi theo cấp trên, là điềm lành do “cư trinh”.

2- Địa Lôi Phục hào 5:

- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận.”

- Tượng: Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, tự mình suy xét để thành được đạo phục thiện.

3- Thuần Khôn hào 5:

- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”

- Tượng: Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ đạo “trung”. “Hoàng thường”, văn hóa là trung tâm.

4- Địa Thủy Sư hào 5:

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vây bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nhiệm cho bậc trưởng giả cương chính thì có thể thống xuất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọ tuổi trẻ không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: “trưởng tử xuất sư”, hoạt động của trung tâm ; “đệ tử dư thi”, là kết quẻ của việc sử dụng người không đích đáng. Lệnh ban ra không thỏa đáng.

5- Địa Phong Thăng hào 5:

- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”

- Tượng: hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao, ý chí thật lớn lao.

6- Lôi Phong Hằng hào 5:

- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm.”

- Tượng: cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà tất có hung hiểm. Chồng ở rể, theo vợ là hung.

7- Trạch Phong Đại quá hào 5:

- “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sỹ phu ; vô cữu vô dự.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.”

- Tượng: “dương khô ra hoa” như vậy thì sức sống làm sao lâu bền được. “bà già lọm khọm”, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ.

8- Thiên Phong Cấu hào 5:

- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự nhiên.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che trở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống.”

- Tượng: tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. Hàm nghĩa 9.5 nói về hiện tượng lạ “thiên thạch từ trời rơi xuống.”

9- Thuần Càn hào 5:

- “Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

10- Thiên Hỏa Đồng nhân hào 5:

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp.”

- Tượng: “trước thì khóc lóc kêu rên”, do Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Phải đến khi đại quân xuất chiến mới tương ngộ hội hợp cùng kẻ chí đồng”, là do Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng.

11- Thiên Lôi Vô vọng hào 5:

- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà vui vì khỏi bệnh.”

- Tượng: Chín Năm không dùng thử linh tinh, không thể thử thuốc.

12- Phong Lôi Ích hào 5:

- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: Hữu phu huệ ngã đức.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, có lòng chân thành, tín thực ban ơn cho thiên hạ, không cong nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp: Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta.”

- Tượng: “tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi. “báo đáp ân đức của ta”, nói lên hào Chín Năm được lớn chí tổn thượng ích hạ. Cái đạt được lớn nhất là ý chí.

13- Sơn Lôi Di hào 5

HÀO 9.6

1- Sơn Lôi Di hào 6

- “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Chín Trên có phúc khánh lớn.

2- Sơn Địa Bác hào 6:

- “Thượng Cửu, thạc quẻ bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, quẻ lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”

- Tượng: “quân tử đắc dư”, nói lên ý trăm họ do vậy được bề trên che trở. “tiểu nhân bác lư”, nói lên kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được. Cuối cùng nhà nát không thể dùng được nữa.

3- Sơn Thủy Mông hào 6:

- “Thượng Cửu, kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối, không lợi về dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên ngừa giặc mạnh.”

- Tượng: Chín Trên có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

4- Sơn Phong Cổ hào 6:

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình.”

- Tượng: ý chí của Chín Trên đáng để noi theo. Không việc gì là không đến tay vương hầu.

5- Hỏa Phong Đỉnh hào 6:

- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi.”

- Tượng: Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. Cương nhu hòa hợp.

6- Thiên Phong Cấu hào 6:

- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác, lận, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, gặp nơi trống vắng, lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cưu hại.”

- Tượng: ở nơi cao cùng cực nên dẫn tới sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. Nghèo hèn sinh ra tiếc của (từ giầu có tụt dốc xuống thành nghèo khổ).

7- Trạch Phong Đại quá hào 6:

- “Thương Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập cả đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.”

- Tượng: cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. qua sông hỏng thuyền.

8- Trạch Thiên Quải hào 6:

- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.

- Tượng: Với tình thế ở cao bên trên cuối cùng không thể lâu dài.

9- Trạch Hỏa Cách hào 6:

- “Thương Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện, chinh hung, cư trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau làm thay đổi khuynh hướng thời trước, lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng: “quân tử báo biến”, ngôn ngữ hoa mỹ bay bổng. “Đánh dấu vào mặt tiểu nhân”, thuận tòng sự niến cách của nhà vua.

10- Trạch Lôi Tùy hào 6:

- “Thương Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi; vương dụng hưởng vu tây sơn.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà rằng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây.”

- Tượng: ở ngôi trên cùng, đạo theo cùng tận, “trên” nghèo khổ.

11- Thủy Lôi Truân hào 6:

- “Thương Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có sự cảm ứng) nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa.”

- Tượng: làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

12- Địa Lôi Phục hào 6:

- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc, quân hung, chí vu thập niên bất khắc chinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến nhiều năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển.”

- Tượng: Sáu Trên đi ngược với con đường của đạo quân chủ dương cứng. Ngược với đạo lý của vua.

13- Sơn Lôi Di hào 6

...

Chào VanTrungHac

- Theo Hà Uyên, 1 hào chỉ có 5 quá trình tiệm tiến chuyển hoá, Hà Uyên cũng đã trao đổi với Liêm Trinh. Khi chúng ta trao đổi với nhau, thì Hà Uyên phân tích 12 quá trình là để hiểu thêm về những nguyên lý của Kinh Dịch.

- Hai người cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ đến hỏi vận mệnh, thì Hà Uyên chưa có câu trả lời với VanTrungHac.

- Quẻ ứng tức thì,...Hà Uyên rất ít, thiếu kinh nghiêm.

Hà Uyên có thể cùng thảo luận với VanTrungHac về chủ đề: tại sao một cung, lại quy định 7 quẻ phải theo Ngũ hành của quẻ Bát Thuần, vì phần này Hà Uyên vẫn có nhiều chỗ lúng túng.

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG - HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG

Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số là 99, trong và ngoài đều là số “thành”, nội tĩnh ngoại tĩnh

Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49, trong là số “thành”, ngoài là số “sinh”, do quẻ Càn hào 6 biến. Ngoại động nội tĩnh.

Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, ngoài “sinh” trong “thành”, ngoaì do quẻ Càn hào 5 biến.

Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89, cả trong và ngoài đều là số “thành”, ngoài do quẻ Khôn hào 4 biến.

Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29, nội tĩnh ngoại động, ngoại động do quẻ Càn hào 4 biến.

Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu, số là 79, nội và ngoại đều là số “thành”, ngoại do quẻ Khôn hào 5 biến.

Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69, nội và ngoại đều là số “thành", ngoại do quẻ Khôn hào 6 biến.

Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái, số là 19, nội “thành” ngoại “sinh”.

Vị trí thứ 9 là Thiên Trạch Lý, số là 94.

Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài, số là 44.

Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê, số là 34.

Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội, số là 84 Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu, số là 24.

Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết, số là 74.

Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64 Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm, số là 14.

Vị trí thứ 17 là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách, số là 43.

Vị trí thứ 19 là Thuần Ly (10 + 9), số là 33.

Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong, số là 83.

Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73.

Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí, số là 63.

Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

Vị trí thứ 25 là Thiên Lôi Vô vọng, số 98 Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy, số là 48.

Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp, số là 38.

Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích, số là 28 Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân, số là 78.

Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di, số là 68.

Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục, số là 18.

Vị trí thứ 33 là Thiên Phong Cấu, số là 92.

Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá, số là 42.

Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng, số là 82.

Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, số là 62.

Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

Vị trí thứ 41 là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 82 Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán, số là 27.

Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông, số là 67.

Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư, số là 17.

Vị trí thứ 49 là Thiên Sơn Độn, số là 96.

Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm, số là 46.

Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ, số là 36.

Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá, số là 86.

Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm, số là 26.

Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66.

Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm, số là 16 Vị trí thứ 57 là Thiên Địa Bĩ, số là 91.

Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy, số là 41.

Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn, số là 31.

Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự, số là 81.

Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan, số là 21.

Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71.

Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác, số là 61.

Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

1- Càn ngoại:

- Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số thực dụng là 99

- Vị trí thứ 9 (1 +8) là Thiên Trạch Lý, số là 94.

- Vị trí thứ 17 (9 + 8) là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

- Vị trí thứ 25 (17 +8) là Thiên Lôi Vô vọng, sô là 98

- Vị trí thứ 33 (25 +8) là Thiên Phong Cấu, số là 92.

- Vị trí thứ 41 (33 +8) là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

- Vị trí thứ 49 (41 + 8) là Thiên Sơn Độn, số là 96.

- Vị trí thứ 57 (49 + 8) là Thiên Địa Bĩ (bế tắc), số là 91 2- Đoài ngoại:

- Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49,(58 + 8 = 66 – 64 = 2)

- Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài (vui vẻ), số là 44

- Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách (cải cách), số là 43.

- Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy (theo), số là 48.

- Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá (quá lớn), số là 42.

- Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

- Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm (trai gái cảm nhau), số là 46.

- Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy (nhóm họp), số là 41. 3- Ly ngoại:

- Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, (59 + 8 = 67 – 64 = 3)

- Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê (chia lìa), số là 34.

- Vị trí thứ 19 là Thuần Ly, số là 33.

- Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp (cắn để hợp), số là 38.

- Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

- Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

- Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ (bỏ nhà đi tha hương), số là 36.

- Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn (tiến lên), số là 31. 4- Chấn ngoại:

- Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89,(60 + 8 = 68 – 64 = 4)

- Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội (em gái về nhà chồng), số là 84.

- Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong (thịnh, lớn) số là 83.

- Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

- Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng (lâu dài), số là 82

- Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 87.

- Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá (quá chút ít), số là 86.

- Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự (vui sướng), số là 81. 5- Tốn ngoại:

- Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29 (61 + 8 = 69 – 64 = 5)

- Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu (có đức tin trong lòng), số là 24.

- Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

- Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích (tăng lên), số là 28. -

- Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

- Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán (chia lìa, tan tác), số là 27.

- Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm (tiến dần), số là 26.

- Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan (xem xét), số là 21. 6- Khảm ngoại:

- Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu (chờ đợi), số là 79 (62 + 8 = 70 – 64 = 6)

- Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết (tiết chế lại), số là 74.

- Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73, nạp Mậu Thìn, hành 9 vận.

- Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân (đầy và khó khăn), số là 78.

- Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

- Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

- Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

- Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. 7- Cấn ngoại:

- Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69 (63 + 8 = 71 – 64 = 7)

- Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64.

- Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí (rực rỡ, sáng sủa), số là 63.

- Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di (nuôi nấng), số là 68

- Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, (đổ nát, công việc), số là 62.

- Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông (non yếu, mù mờ), số là 67.

- Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66 (46), Cấn nạp Bính Dần, hành 1 vận.

- Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác (tiêu mòn, bóc lột), số là 61 8- Khôn ngoại:

- Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái (hanh thông), số là 19.

- Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm (lớn tới), số là 14.

- Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

- Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục (trở lại), số là 18.

- Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

- Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư (đám đông), số là 17.

- Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm (nhún nhường), số là 16.

- Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

...

Thiệu Ung viết: "Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8". Theo Tiên thiên, thì quẻ Thuần Càn ở vị trí thứ 1, cộng thêm với 9 thì tới quẻ Thuần Đoài có số thứ tự là 1 + 9 = 10. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Ly có số thứ tự là 10 + 9 = 19. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Chấn có số thứ tự là 19 + 9 = 28. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Tốn có số thứ tự là 28 + 9 = 37. Tiếp tục công thêm với 9 thì được quẻ Tập Khảm có số thứ tự là 37 + 9 = 46. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Cấn có số thứ tự là 46 + 9 = 55. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Khôn có số thứ tự là 55 + 9 = 64. Theo Hậu thiên, quẻ Thuần càn gồm: 1, 9, 17, 25, 33, 41, 49, 57 (1, 9, 7, 5, 3, 1, 9, 7). Từ số thứ tự cuối của quẻ Càn 57 + 9 = 66 ta trừ đi 64 quẻ 66 - 64 = 2. Nên quẻ thuần Đoài mang số thứ tự khởi đầu là 2. Thiệu Ung nói: Càn 1, Đoài 2. Theo Hậu thiên, quẻ Đoài gồm các số: 2, 10, 18, 26, 34, 42, 50, 58 (2, 0, 8, 6, 4, 2, 0, 8). Từ số thứ tự cuối của quẻ Đoài cộng thêm với 9, tức là 58 + 9 = 67 - 64 = 3. Do vậy 3 là số thứ tự đầu tiên của quẻ Ly. Nên nói Ly 3. Tiếp tục như vậy, nên Thiệu Ung viết: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Thiên Trạch Hỏa Lôi, Phong Thủy Sơn Địa - 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8.

...

Từ hai sườn dốc - từ đó sinh ra các đối lập tạo nghĩa. Âm Dương, tự nhiên luôn tồn tại "thái quá" và "bất cập", đối lập tạo nghĩa của Âm Dương cũng theo quy luật của tự nhiên, Âm thái quá và bất cập, cũng như Dương thái quá và bất cập, hình thành bốn trạng thái: Thái âm, Thiếu dương, Thái Dương, Thiếu âm. Trong tự nhiên, đặc thù mang tính khái quát cao đó là "nước", luôn luôn giữ được sự "thăng bằng". Trời 1 ở Bắc, Đất 2 ở Nam, Trời 3 ở Đông, Đất 4 ở Tây, Trời 5 ở Trung tâm, Đất 6 ở Bắc.

...

ỨNG DỤNG TIÊN THIÊN - HẬU THIÊN

Can Chi Năm-Tháng-Ngày-Giờ nạp quẻ Dịch

Ví dụ: Năm Kỷ Sửu 2009, tháng Kỷ Tị, ngày Canh Tý, giờ Mậu Tuất.

- Năm Kỷ Sửu, nạp quẻ Hỏa thủy Vị tế, có số thứ tự là 43, có số thực dụng là 37.

- Tháng Kỷ Tị, nạp quẻ Thủy Lôi Truân, có số thứ tự là 30, có số thực dụng là 78

- Ngày Canh Tý, nạp quẻ Lôi Phong Hằng, có số thứ tự là 36, có số thực dụng là 82.

- Giờ Canh Tuất, nạp quẻ Phong Hỏa Gia nhân, có số thứ tự là 21, có số thực dụng là 23.

+ Thiên Can: Kỷ - Kỷ - Canh - Canh nạp số thực dụng là 3-7-8-2, đã hội đủ TAM QUÝ: Sinh khí - Thiên y - Diên niên (Tham Cự Vũ)

+ Địa chi: Sửu - Tị - Tý - Tuất nạp số thực dụng là 7 -8- 2- 3, cũng hội đủ Sinh khí - Diên niên - Thiên y (Tham-Cự-Vũ)

...

Ý NGHĨA CỦA SỰ KẾT HỢP

CẶP SÔ KÊT HƠP

16, 27, 38, 49 là sao Tham lang, thần là Sinh khí (hào 3 biến)

12, 34, 67, 89 là sao Liêm trinh, thần là Ngũ quỷ (hào 2 – 3 biến)

19, 28, 37, 46 là sao Vũ khúc, thần là Diên niên (3 hào đều biến)

13, 24, 68, 79 là sao Văn khúc, thần là Lục sát (hào 1 – 3 biến)

18, 29, 36, 47 là sao Lộc tồn, thần là Họa hại (hào 1 biến)

14, 23, 69, 78 là sao Cự môn, thần là Thiên y (hào 1 – 2 biến)

17, 26, 39, 48 là sao Phá quân, thần là Tuyệt mệnh (hào 2 biến)

1- Sinh khí – Tham lang: phát sinh sự quan hệ về vật chất hay tinh thần, như có tiền, có tiền để trả nợ,… hay gặp gỡ đồng nghiệp, bạn cũ, chiêu đãi, …Sức khỏe tốt, sinh tài thêm đinh. Là những điều kiện sinh sôi, nảy nở, tiến hành thuận lợi, cây côi tươi tốt, chăn nuôi phát triển,…

2- Ngũ quỷ - Liêm trinh: là 5 thứ tà khí quấy rối sự sống, quấy rối quan hệ con người với con người, thường gây ra sự bực mình, rắc rối (do bị tai nan, mất mát, kiện thưa, cãi vã, vạ miệng,…), đi họp đi công tác, công việc bận rộn. Hay bị tai nạn nếu gặp thêm Ngũ hoàng (số 5)

3- Diên niên – Vũ khúc: là chủ về sự bền vững dài lâu, sức khỏa vững vàng, trường thọ, sự may mắn trong các mối quan hệ tình cảm gia đình và xã hội có tính bất ngờ (như trúng số, hay bị tai nạn mà người thì không bị sao,…) {chỉ Chấn và Tốn kết hợp mới được trường thọ bách niên}

4- Lục sát – Văn khúc: là sự thiệt hại những gì thuộc phạm vi chủ thể có trách nhiệm chăm sóc: như con cái, gia súc, cây trái,…là sự cản trở, công việc trái với ý định ban đầu, quan hệ bị xấu đi do tác động của bên ngoài. Tâm trạng thường bất an, công việc khó có kết quả (va chạm xe cộ).

5- Họa hại - Lộc tồn: là sự thiệt hại, hao tán tài vật thuộc quyền chủ thể quản lý sử dụng. Thiệt hại về vật chất hay tinh thần (trả tiền, mất tiền, đồ đạc đang sử dụng tự nhiên bị hư hỏng, cãi vã về đồ đạc, thị phi điều tiếng,…), phải đi xa, tổn tài, dễ mắc bệnh tật.

6- Thiên y - Cự môn: là sự giải thoát những vướng mắc trong đời sống mọi mặt. Người xưa cho rằng Thiên y như là một lực âm phù đã theo sát để cứu nguy. Giả thoát khỏi sự bế tắc. Đúng lúc gay go nhất, bí nhất, nan nguy nhất thì lại có cơ hội để vượt được qua như vật chất hay tinh thần. Có lợi cho sức khỏe, ít bệnh hay nếu có bệnh thì mau khỏi. Tâm lý ổn định, đạo đức lành mạnh.

7- Tuyệt mệnh – Phá quân: sức khỏe suy giảm, sự nghiệp trở ngại, tai nan, tình cảm hay các mối quan hệ bị xấu đi, bị người trở mặt, gặp sự chia lìa, gặp khách không mời mà đến,…, nhưng những việc lớn trong đời lại thường đến vào thời điểm này, tùy theo mệnh cục của mỗi người mà gặp hung hay cát.

8- Phục vị: là khí chất sinh học theo tự nhiên, mọi việc diễn tiến bình thường, nếu gặp tốt thì sẽ tốt, nếu gặp xấu thì sẽ xấu, căn cứ phụ thuộc vào các mối quan hệ và tại thời gian, thời điểm ảnh hưởng vào lúc đó. Ví như ngày là Phục vị, mà gặp tháng hay năm là Thiên y, thì sẽ thuộc về Thiên y, còn nếu gặp năm, tháng hay giờ là Ngũ quỷ, thì sẽ là Ngũ quỷ. Tuổi Khôn Cấn hay có sự va chạm nhất về xe cộ.

...

Đất và Trời giao nhau thì thái bình (Địa Thiên Thái), Sấm (lôi) và Gió (phong) giao nhau thì lâu dài (Lôi Phong Hằng), Thủy và Hỏa giao nhau thì vượt qua (Thủy Hỏa Ký tế), Đầm (trạch) và Núi (sơn) giao nhau thì trai gái cảm nhau (Trạch Sơn Hàm). Cứ một âm một dương gọi là Đạo, là con đường của sự điều chỉnh.

Dương sinh ở Đông mà thịnh ở Nam ; Âm sinh ở Tây mà thịnh ở Bắc ; trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, rồi Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng, rồi Bát quái, đều là tự nhiên mà có.

Hà đồ giải thích sự sinh thành của Ngũ hành: “Thiên 1 sinh Thủy, địa 6 đã thành ; Địa 2 sinh Hỏa, Thiên 7 đã thành ; Thiên 3 sinh Mộc, Địa 8 đã thành ; Địa 4 sinh Kim, Thiên 9 đã thành ; Thiên 5 sinh Thổ, Địa 10 đã thành”.

Lạc thư: “Dọc ngang đều là 15, mà 7, 8, 9, 6 lặp lại là giảm đi. Hư 5 chia 10, mà 1 hàm 9, 2 hàm 8, 3 hàm 7, 4 hàm 6, như vậy tham ngũ tổng hợp. Đan xen không thích hợp thì không gặp số hợp của nó.

Vạn vật sinh – thành đều có số và môi trường tồn tại, sinh - tử tồn vong, đủ số thì sinh, số tăng thì trưởng, số giảm thì suy, số hết thì mất. Thịnh suy được mất tất cả đều ở số.

Thiên thời, tức là sắp xếp sử dụng thời gian Năm – Tháng – Ngày - Giờ

...

Thiệu Ung viết: “Cái gọi là cung vị Mậu là ở hai ngôi sao Khuê (Tuất) và sao Bích (Hợi). Cung vị Kỷ là ở hai sao Giác (Thìn) sao Chẩn (Tị).

Khuê Bích là thời tiết giữa Lập thu đến Lập đông. Giác Chẩn là giữa Lập xuân đến Lập hạ, vì vậy là cửa ngọc của Trời Đất.”

Ngày dài thì thời tiết ấm áp, vạn vật phát sinh, đều bắt đầu từ cung vị sao Khuê sao Bích (Tuất - Hợi). Ngày ngắn thì thời tiết giá lạnh, vạn vật thu tàng, đều bắt đầu từ cung vị sao Giác, sao Chẩn (Thìn - Tị), vì vậy mà nói rằng: tiết Xuân phân thì chủ “mở”, tiết Thu phân thì chủ “đóng”.

Từ sao Khuê – Bích đi về phương Nam, mặt Trời là đạo Dương, vì vậy gọi là Thiên môn. Từ sao Giác - Chẩn đi về phương Bắc, mặt Trời là đạo Âm, vì vậy gọi là Địa hộ.

Từ cung vị sao Khuê, sao Bích, và can Mậu thì bắt đầu ngày dần dài ra, khí Dương thịnh dần, giống như là mở cửa Trời. Đến cung vị sao Giác, sao Chẩn, can Kỷ thì ngày dần ngắn lại, khí Âm thịnh dần, khí Dương thu bế, giống như mở cửa Đất. Cho nên gọi là Thiên môn Địa hộ.

Thuyết Thiên môn Địa hộ trình bày: “do Âm xuất Dương, do Dương nhập Âm”, thể hiện quy luật thịnh suy, chuyển hoá, tiêu trưởng Âm Dương bốn mùa. Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Nguyên lý này cùng ý nghĩa với “dương trưởng thì âm tiêu”, “âm tiêu thì dương trưởng”.

Cái máy của tạo hoá không thể không có sinh, cũng không thể không có chế ước. Không có sinh thì không có sự phát triển, không có chế ước thì sự phát triển cao lên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được.

Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương?

Quá trình sinh mệnh của con người từ khi sinh ra, lớn lên, khoẻ mạnh, già yếu và chết, cũng là giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương, từ Dương bắt đầu sinh, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng, đến Âm bắt đầu sinh, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh.

Nguyên lý Thái cực sinh ra Âm Dương, Âm Dương hoá hợp sinh ra Ngũ hành, Ngũ hành hàm chứa vạn vật. Khí hoá vận hành, Âm Dương thăng giáng: “Thuỷ là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực âm. Hoả là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương. Mộc chủ thăng phát, nên ở trên, ứng với vị trí phương Đông. Kim chủ thu giáng, nên ở bên phải, ứng với phương Tây. Thổ là mẹ của số thành, nên ở giữa.

Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh biến hoá.

Kỳ số

Nhất Lục cư hạ, Nhị Thất cư thượng, Tam Bát cư tả, Tứ Cửu cư hữu, Ngũ Thập cư trung. Phục hy tắc chi, dĩ họa Bát quái.

Số sinh từ 1 đến 5, tượng trưng sự phát sinh của vạn vật. Số thành từ 6 đến 10, tiêu biểu cho sự hình thành của sự vật. Thổ là nơi vạn vật bắt đầu sinh ra. Thổ là gốc của số sinh, cho nên số sinh và số thành đều là “5”.

Số dương của Hà đồ sinh ở “1”, cực ở “9”. Số âm sinh ở “2”, cực ở “8”. Lấy “9” làm cực của số dương, là bắt đầu của số âm.

...

Mô hình “từ trong ra” là mô hình mở, đi ngược chiều kim đồng hồ, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Khác với chiều vặn đi vào, đi thuận chiều kim đồng hồ, từ trái sang phải, là mô hình đóng.

Khi xét việc đã qua phải theo trật tự thuận, đi theo các con số lớn dần, (tức là chiều từ âm đến dương). Còn khi xét việc sắp tới thì phải theo trật tự nghịch của các con số, đi theo các con số nhỏ dần.(tức là chiều từ dương sang âm)

Theo nguyên tắc cơ chế tâm truyền, mọi thông tin đều phải từ giữa phát ra, đây là thời điểm xẩy ra sự việc. Nếu lấy thời điểm này mà xét, thì việc trở về quá khứ của sự việc, là trở về những quẻ đã sinh, tức là những quẻ ta đã biết trước. Như vậy phải là những quẻ ở miền dương, tức là từ Chấn-4 đến Ly-5, đến Đoài-6, rồi đến Càn-7. Đi từ Chấn đến Càn là miền Dương, là đi theo chiều thuận của các con số 4-5-6-7 là chiều các con số lớn dần.

Khi muốn xét tương lai của sự việc đang xẩy ra thì phải theo hướng các quẻ chưa sinh, tức là những quẻ chưa biết. Như vậy phải là những quẻ ở miền âm, tức là từ Tốn-3 đến Khảm-2, rồi đến Cấn-1, và đến Khôn-0, tức là đi theo chiều ngược của các con số (chiều các con số nhỏ dần 3-2-1-0), như người kể ngược bốn mùa vậy!

Càn-7, Đoài-6, Ly-5, Chấn-4, Tốn-3, Khảm-2, Cấn-1, Khôn-0.

<-- <-- <-- <-- --> - - -> - - -> - - ->

Khi ta cho rằng Chấn-Tốn là thời điểm hiện tại của sự việc thì, muốn biết tương lai phải đi theo chiều nghịch của các con số, tức là chiều các con số giảm dần cùng với các quẻ tương ứng của chúng. Cũng có thể tìm hiểu quá khứ của sự việc để đoán biết tương lai thông qua các quẻ đối xứng, là các quẻ biến dịch hay “quẻ đối” phản của chúng, vì quy luật sinh-thành của các con số là đối xứng từng cặp một, các con số đều có hai miền đối xứng: quá khứ và tương lai so với thời điểm xẩy ra. Tìm hiểu quá khứ để biết được tương lai, đây chính là chìa khóa của Dịch.

Mặt trời mọc từ Đông sang Tây, là quy luật của tạo hóa, là từ tối đến sáng, là từ âm đến dương, từ “không” đến “có”; giai đoạn này được gọi là “ quẻ đã sinh”, đây là trật tự thuận. Ngũ hành thuận bắt đầu từ: Thổ - Thủy - Mộc - Hỏa – Kim. Giai đoạn quẻ chưa sinh bắt đầu bằng trật tự từ Tây sang Đông, từ sáng đến tối, ngũ hành ngược lại là: Kim-Hỏa-Mộc-Thủy-Thổ. Nên nói Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 thì đều được các quẻ chưa sinh, như người kể ngược thứ tự bốn mùa vậy. Đây là thứ tự của quẻ chưa sinh.

Quy luật của tự nhiên tiến từ “không” đến “có”, cái “không” thuộc âm, cái “có” thuộc dương. Âm Dương cũng là trạng thái “đóng - mở” của tạo hóa. Tạo hóa tiến từ trạng thái “đóng” sang trạng thái “mở”, từ không đến có, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Cái “có” đầu tiên thuộc về Dương, nó tương ứng với số 1, là số lẻ, số cơ.

Vạn vật hiện hữu quanh ta thì muôn hình vạn trạng theo từng chủng loại, theo từng loài. Tất cả, đều xuất phát từ sự “sinh-thành” và vị trí ban đầu của các con số trong không gian, cũng như quy luật biến hóa theo “tượng âm dương” của chúng.

Biến Dịch là vòng tuần hoàn lớn của Tạo hóa, Càn Khôn đóng vai trò mở đầu và kết thúc những quá trình lâu dài. Đối với đời người cũng như vạn loại sinh giới, sự biến dịch từ Càn tới Khôn, đồng nghĩa với sự kết thúc chu trình sống này, để chuyển sang một chu trình sống khác. Sự biến dịch từ Âm sang Dương hay từ Dương sang Âm, là sự biến đổi về bản thể các tượng số, luôn luôm tiệm tiến trải qua 10 giai đoạn.

Suy nghĩ về bát quái

Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay.

Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”.

Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”.

Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này.

“Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông.

Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng.

Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946).

Posted Image

Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành.

Posted Image

Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9..

Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1

Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ.

Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng?

Bảng mã sẽ là:

Posted Image

Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn

Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.....6.... 7..... 8...... 9...

Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1...

Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích.

Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây:

- Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ.

- Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn.

Có thể xét thêm hai điều kiện phụ:

- Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm.

- Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới.

Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ:

- Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2.

- Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25.

- Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3

- Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới.

Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách:

- Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc).

- Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau:

Posted Image

Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn...

Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950

Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529

Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được:

Posted Image

............Quẻ dương...................................... Quẻ âm.............................

Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546

Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219)

Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529)

Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264)

Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung).

Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này.

Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./.

Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm

...

Một danh xưng khi bàn về Dịch, đó là phép xem Hồng phạm, dùng hai chữ "trinh, hối". Trong đó "trinh" tức là tĩnh, còn "hối" tức là động.

Nội dung chính của sánh căn cứ theo hai nghĩa “biến dịch” và “không biến dịch” làm chuẩn mực để làm sáng tỏ lẽ động và tĩnh của nhân sự. Cho nên, sách có nói, số cơ ngẫu là 7, 8 vậy, giao trùng là 6, 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7, 8 là “không biến dịch”, hào vạch theo số 6, 9 là "biến dịch" vậy. Quẻ tuy “không biến dịch”, mà bên trong có “biến dịch”, thì có nghĩa là "hối ". Hào tuy “biến dịch”, mà trong lại có cái "không biến dịch”, thì gọi là “trinh”.

Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ có dùng. Khi thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ có xử. Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt. Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đầu cho thoát được. Đó là nghĩa lý thâm sâu vi tế mà Thánh nhân làm Dịch vậy.

...

Hàm nghĩa cơ bản của “thần” là chỉ sự biến hoá. Sự biến hoá của “thần” được khởi nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ thượng: “Không suy đoán dược âm dương được gọi là thần”. Ý nghĩa của sự biến hoá, không những biểu thị “không lường được” biến hoá của âm dương, mà còn chứng tỏ sự biến hoá của vạn vật cũng rất diệu kỳ. Thần, chính là sự biểu hiện biến hoá tới những chi tiết nhỏ nhất của vạn vật, đạt tới đỉnh tối cao của tinh thần. Đây chính là: “cùng thần tri hoá, đức chi thịnh dã” (thần biến hoá đến tận cùng, để đạt được đức tối đa). Số chẵn, số lẻ và hào tượng cương nhu, sự biến hoá kỳ diệu của nó rất khó đoán định, cũng gọi là “thần”. Khi hào tượng biến hoá, trước tiên cũng khó xác định được: hào nào là hào Lão âm (6), hào nào là hào Lão dương (9), mà gốc nguồn cũng bởi âm dương rất khó đoán định. Tính chất biến hoá khôn lường của âm dương, Kinh Dịch gọi là “đạo”, còn Hệ từ” gọi là “thần”. Nên có câu “người biết đạo của biến hoá, thì hiểu được hành vi của thần”. Trời Đất vận hành, vạn vật động – tĩnh, đều là tự tạo - tự chuyển dịch - tự hoá, để thích nghi với môi trường của tự nhiên; Nó không phụ thuộc vào sự điều khiển chủ quan của ý chí con người, mà cùng chựu sự tác động qua lại, chi phối bởi tính chất của tự nhiên. Nguyên nhân của sự biến hóa khôn lường này, cũng được gọi là “thần”.

...

Thiên nhiên, cơ chế của tạo hoá luôn thấy ở "sinh," đồng thời cũng luôn thấy ở "chế ước". Không có "sinh" thì không có sự phát triển, không có "chế ước" thì sự phát triển thái quá mất đi tính quy luật của tự nhiên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được. Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương? Giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương. Từ Dương bắt đầu sinh do Âm xuất Dương, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng; rồi đến Âm bắt đầu sinh do Dương nhập Âm, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh. Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh "biến" và "hoá".

...

Âm Dương có nguồn gốc từ động tĩnh. Thịnh suy có nghĩa là đắp đổi lẫn nhau, nuôi nhau, cái này nương tựa vào cái kia mà biến thông, nhờ biến thông nên phối hợp với Bốn mùa. Âm thắng Dương thì Tĩnh, Âm thịnh thì nhu. Dương thắng Âm thì Động, Dương thịnh thì cương. Động đúng quy luật thì việc gì cũng thắng, động sai quy luật thì việc gì cũng hỏng. Động gây họa phúc, động tạo ra hưng thịnh hay diệt vong cũng là ý nghĩa ấy. Tại Thiên thì Dương động mà Âm tĩnh, Âm sinh ở trên. Tại Địa thì Dương tĩnh mà Âm động, Dương sinh ở dưới. Thăng giáng gây nên sự biến hóa. Thăng chủ sinh, giáng chủ tiêu. Do vậy, vạn vật đều phản sinh.

...

HÒA

Vạn vật luôn luôn sống động theo những hòa điệu nhịp nhàng. Heraclitus, nhà triết học cổ Hy Lạp, cho rằng tính năng động tuần hoàn của những cặp siêu lực đối nghịch là nguyên nhân của sự sống động của vũ trụ

Triết học Đông phương cũng có niềm tin tương tự. Triết học Trung Hoa cho rằng vạn vật luôn luôn biến hóa năng động nhịp nhàng giữa hai thái cực âm dương. Triết học Phật giáo thì có đạo trung dung biểu hiện qua Bát Chánh Đạo.

Khái niệm về một vũ trụ hài hòa và sống động cũng được biểu hiện trong những triết học cận đại. Saint-Simon nhìn những lịch sử văn minh nhân loại như những xen kẻ giữa những thời kỳ “hữu cơ” và những thời kỳ “khủng hoảng”. Herbert Spencer nhìn vũ trụ như đang biến đổi theo những thời kỳ thăng trầm hợp tan. Hegel thấy lịch sử nhân loại phát triển theo hình xoắn ốc từ hợp nhất đến phân hóa rồi trở lại hợp nhất ở một mức độ cao hơn. Toynbee thấy được những thăng trầm tuần hoàn của các nền văn minh nhân loại. Sorokin thấy được sự thăng trầm tuần hoàn của những nền triết học duy vật và duy linh.

Đạo, là quá trình biến đổi liên tục của vũ trụ, trong đó vạn vật biến đổi hài hòa trật tự giữa hai thái cực âm dương. Khi dương thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về âm. Tương tự, khi âm thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về dương. Âm dương điều hòa chính là Đạo. Những thái cực âm và dương không phải là hai thái cực riêng rẻ độc lập. Trái lại, chúng là hai giới hạn của một thể thống nhất. Quá trình biến đổi của mỗi hiện tượng hay sự vật là những dao động không ngừng giữa hai thái cực đó. Quá trình của một hiện tượng hay sự vật kể cả chúng ta, dù nam giới hay nữ giới, đều có cả âm tính lẫn dương tính. Dịu dàng, trực cảm, tổng hợp, hợp tác, bảo tồn là những âm tính. Hung hăng, thuần lý, phân tích, cạnh tranh, khai thác là những dương tính. Âm tính và dương tính liên hệ mật thiết với hai loại tâm thức tương ứng trong mỗi chúng ta. Chúng bổ sung lẫn nhau, phản ảnh những tầm nhìn, lời nói, hành động của chúng ta.

Xã hội đương thời của chúng ta dường như đang ở vào thời kỳ dương thịnh, một xã hội dựa trên phát triển khoa học kỹ thuật để cạnh tranh khai thác tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm và gây hại môi trường sống. Phương pháp phân tích dường như vẫn được tận dụng so với phương pháp tổng hợp. Điều này làm xã hội mất đi sự hài hòa âm dương, do đó trì trệ sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y học, kinh tế, chính trị, quân sự, v.v.

Sự nhấn mạnh vào triết học Descartes phân chia ranh giới giữa tri thức và vật chất đã dẫn đến quan điểm trong đó vũ trụ được xem như một hệ thống cơ khí với những vật thể được xem như những bộ phận riêng rẻ. “Cái tôi” của mỗi người được dựng nên như để tượng trưng cho phần hồn của mình với đầy đủ đầu óc phán đoán suy luận. Phần xác được xem như thứ yếu. Dần dần con người quên đi cái bản chất thực sự của suy tư là, không những xuất phát từ toàn bộ con người chúng ta mà còn từ môi trường chung quanh chúng ta nữa. Từ đó, chúng ta xem cơ thể chúng ta như những chiếc máy cơ khí, và xem thiên nhiên quanh chúng ta như độc lập với chúng ta, cần được chế ngự và khai thác triệt để.

Chúng ta tin rằng tính chất cục bộ có thể hoàn toàn xác định tính chất của toàn bộ. Do đó, chúng ta xem nhẹ mối tương quan mật thiết giữa những cơ cấu xã hội như giáo dục, văn hóa, y tế, kinh tế, chính trị, quân sự. Chúng ta xem trọng phẩm lượng và xem nhẹ phẩm chất. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng tương tự, các nhà nghiên cứu dường như xem những ngành chuyên môn khác không dính dáng gì đến ngành mình đang nghiên cứu. Môn hình học vị tướng chẳng hạn, trước đây được xem như một sản phẩm thuần túy của trí tuệ, độc lập với các ngành nghiên cứu khoa học. Bây giờ họ đã thấy tầm quan trọng của hình học vị tướng được áp dụng hữu hiệu trong nhiều ngành khoa học.

Thời xưa, thiên nhiên và nhất là địa cầu được xem như một người mẹ hiền hòa nuôi dưỡng chăm sóc sự sống trên địa cầu. Cổ Hy Lạp có nữ thần Gaia tượng trưng cho mẹ địa cầu. Vào thời cận đại, dương thịnh âm suy, thiên nhiên và mẹ địa cầu bị thống trị. Nam giới chiếm ưu thế. Capra cho rằng quan điểm này được Do Thái giáo và Ky Tô giáo ủng hộ, và do đó Thượng Đế được nhân cách hóa thành một nam giới, thống trị thiên nhiên bằng những định luật nhiệm mầu với những suy lý và quyền lực tối cao. Những định luật khoa học tự nhiên được xem như phản ảnh của những định luật nhiệm mầu đó của Thượng Đế. Ngày nay, thời dương thịnh đó dường như đã đạt đến mức tối đa và đã bắt đầu suy thoái. Nhiều người không còn tin rằng Thượng Đế là một nam giới đầy phép nhiệm mầu nữa. Kaku cho rằng sở dĩ khoa học và tôn giáo khó thông cảm nhau bởi vì khoa học tin vào một “thượng đế của trật tự” trong lúc tôn giáo tin vào một “thượng đế của phép lạ”.

Dường như văn minh nhân loại đã chuyển mình hướng về sự điều hòa âm dương. Đã đến lúc phân tích cần được phối hợp với tổng hợp, cạnh tranh phối hợp với hợp tác, thuần lý phối hợp với trực cảm, khoa học phối hợp với tôn giáo, nam tính phối hợp với nữ tính, văn hóa phối hợp với sinh hóa, v.v.

Tâm Đàn.

...

Lời của Đại tượng truyện 64 quẻ Dịch luôn hướng tới HÒA.

Tâm cảm.

...

Tự nhiên vốn tĩnh, đó là gốc của Đạo. Tĩnh sinh ra động, thế rồi Động sinh ra Trời Đất, mà sinh ra muôn loài. Vạn vật đoạt Khí của Trời Đất, con Người đoạt chất của vạn vật, vạn vật đoạt Khí lực của con người. Đây có phải cái lý tương sinh, tương dưỡng, tương thành của Tam tài: Trời Đất Người. (?) Có thể, Đạo Tam tài là kết cấu tạo nên một quái Dịch, có cấu tạo ba Hào. (!) Tâm sự.

...

DỊCH HỌC HỌ HÙNG VIẾT:

Tam Tòa hay Tam Tài

Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học.

1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác.

1 → 3 → 5 → 9

thái cực → tam tài → ngũ hành → cửu trù

1 cục →3 tòa → 5 hình → 9 chỗ

Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba.

Xã hội < = > Con người < = > Tự nhiên.

Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là: “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng.

Ở Âm mà vô Âm, Âm do đó được sinh ra. Ở Dương mà vô Dương, Dương do đó mà hình thành. Khi nói "nhất Âm nhất Dương", tuy là hai Khí, xong thường lấy cái nhất làm Đạo ở hư vô để sử lý. Theo thuộc tính riêng của vạn vật, khi ta làm một chiếc bàn gỗ, đứng ở quan điểm gỗ là "phá", nhưng đứng ở quan điểm cái bàn là "thành". Như vậy, "phá" và "thành" cũng là tương đối ở trong tình trạng biến đổi không ngừng, như Dịch đã bàn đến.

Nhất Tĩnh - Tam Động - Ngũ ứng - Cửu thông.

Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn

Hà Uyên mới tham gia vào diễn đàn này, với những bầy tỏ của Liêm Trinh, trong quá trình nghiên cứu vì sự yêu thích cá nhân của mình, Hà Uyên xin được chia sẻ cùng Liêm Trinh.

Chắc Liêm Trinh cũng hiểu cấu tạo của quẻ Dịch có 6 hào, khi một hào (hay nhiều) động, thì đều phải trải qua 10 quá trình. Ví dụ: quẻ Trạch Sơn Hàm động hào 2:

- Ta coi quẻ Trạch Sơn Hàm là số 1, theo thứ tự đến số 2 là quẻ Quan hào 3, đến số 3 là quẻ Tỷ hào 4, đến số 4 là quẻ Khôn hào 5, đến số 5 là quẻ Bác hào 6, đến số 6 là quẻ Di hào 1, đến số 7 là quẻ Tổn hào 2, đến số 8 là quẻ Đại súc hào 3, đến số 9 là quẻ Đại hữu hào 4, đến số 10 là quẻ Càn hào 5, đến số 11 là quẻ Quải hào 6, và cuối cùng đến số 12 là quẻ Đại quá hào 1.

- Như vậy, khi độn được 1 quẻ như ví dụ trên, quá khứ đã để lại cho chúng ta: hào âm biến thành hào dương, hào dương biến thành hào âm, gieo quẻ được quẻ Hàm hào 2 được quẻ Đại quá.

- Khi ta coi quẻ Hàm là "đầu", thì quẻ Đại quá là "cuối", nhưng thực chất bên trong đã phải trải qua 10 quá trình (10 quẻ)

- Trong 10 quá trình phải trải qua này, có 2 quẻ động đến hào 6, đó là quẻ Bác theo thứ tự là số 5 và quẻ Quải theo thứ tự là 11. Vấn đề ở đây, tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ hành, thì không cho biến động đến hào 6?

- Khi từ quẻ cuối cùng có số thứ tự là 12, là quẻ Đại quá, ta tiếp tục cho động hào 2 thì lại trở về quẻ ban đầu là Trạch Sơn Hàm hào 2. (1 = 13)

Như vậy, theo Liêm Trinh, thông tin được bộc lộ từ quẻ Dịch, chúng ta sẽ chon lựa điểm dừng ở đâu?

Mỗi một hào quẻ Dịch luôn chuyển hóa 12 lần, một quẻ có 6 hào, vậy một quẻ Dịch có 72 sự chuyển hoá. Do vậy 64 quẻ Kinh Dịch sẽ có 4608 sự chuyển hoá.

Mong được chia sẻ cùng Liêm Trinh, có thể chưa được sự đồng cảm, cũng mong sao Liêm Trinh góp ý thêm.

...

Cùng được bộc lộ thêm với Liêm Trinh, khi Hà Uyên có nói: 1 = 13 Tulokho có 52 quân bài (bỏ 2 fan), khi chia làm 4 thì được 4 phần, mỗi phần có 13 con bài, nếu ta coi f - q - k - a có trị số bằng 1 (f = q = k = A = 1). Chia 52 quân bài làm 2 phần bằng nhau (52/2=26). Lấy 1 phần có 26 quân bài, rút 1 quân bài xem. Xem xong, trộn đều 52 quân, thì ta vẫn tìm được con bài mà ta đã rút ra xem. Người Ấn độ nói: muốn học lập trình ở đất nước họ, thì phải hiểu văn hóa dân tộc của họ. Hà Uyên thấy có mối liên hệ giữa Kinh Dịch và 52 quân bài. Liêm Trinh có nghĩ như vậy không?

..

Vâng, chào Liêm Trinh.

Để thống nhất được với nhau về phương pháp tính toán, Hà Uyên xin được trình bầy theo quan điểm của mình, mong rằng các anh chị, cùng Liêm Trinh chia sẻ:

- Khi bốc Dịch được một quẻ, ta coi là số 1, thì quẻ số 7 luôn luôn là quẻ "đối phản".

Theo ví dụ mà Hà Uyên đã trình bầy, bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2, thì quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn, cũng động hào 2 (Thất sát)

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

Theo như quá khứ đã cho chúng ta biết, Quan quỷ động hóa Tử tôn, nhưng quẻ thứ 7 lại cho chúng ta thông tin về Thê tài. Thông qua quá trình trải nghiệm với nhiều môi trưỡng và lĩnh vực khác nhau, Hà Uyên cũng nhận thức được một số quy luật, xin được trình bầy sau.

- Sự thông "khí" của quẻ Dịch

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Trạch Sơn Hàm (không xét thuộc cung Đoài - Kim), động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ

2- Trạch Địa Tụy hào 3 là Huynh đệ Dậu

3- Thủy Địa Tỷ hào 4 là Tử tôn Thân

4- Thuần Khôn hào 5 là Thê tài Hợi

5- Sơn Địa Bác hào 6 là Thê tài Dần

6- Sơn Lôi Di hào 1 là Phụ mẫu Tý

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Dần

8- Sơn Thiên Đại súc hào 3 là Huynh đệ Thìn

9- Hỏa Thiên Đại Hữu hào 4 là Huynh đệ Dậu

10- Thuần Càn hào 5 là Huynh đệ Thân

11-Trạch Thiên Quải hào 6 là Huynh đệ Mùi

12- Trạch Phong Đại quá hào 1 là Thê tài Sửu

Khi ta lấy quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn làm "Trung Tâm", từ vị trí thứ 7 ta tiệm tiến thuận 7-8-9-10-11-12 và tiệm tiến nghịch 7-6-5-4-3-2-1, ta sẽ có 2 phương pháp để suy luận thông tin.

Hà Uyên xin phép sẽ cùng luận bàn sau.

...

Hà Uyên xin được trình bầy tiếp:

- Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự. Thì nẩy sinh rất nhiều điều kỳ lạ về thông tin. Liêm Trinh thử nghiệm cùng nhé.

- Kinh Phòng khi nạp Ngũ hành vào quẻ không cho "khí" Dịch phát triển đến hào 6. Hà Uyên sẽ trình bầy quan điểm ở một chuyên đề khác nhé.

...

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

13- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ

..

Hà Uyên tản mạn thêm. Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự 12 cung từ Tý, Sửu,..., đến cung Hợi. Như chúng ta đã biết, tổng số tối đa của môn Tử vi chỉ có 512640 bảng là số. Khi áp dụng mối quan hệ thông tin giữa Tử vi và Bốc Dịch, thì thống kê được: 512 640 x 4 608 = 2 052 245 120 So sánh với 6 tỷ người, mức độ tin cậy cần phải thống kê thêm.

...

Xin chào các Anh các Chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VIETHA. Quá trình nghiên cứu những gì Người xưa để lại, với sự đam mê tìm hiểu của mình mang tính cá nhân, Hà Uyên trong mục đích, không mang tính chuyên nghiệp. VIETHA có viết: "nguyên tắc trong gieo quẻ Dịch là: Tâm không động không được gieo, nếu gieo quẻ thì không chính xác". Xét về Ngôn ngữ học, tại thời điểm quyển sách được viết ra cho tới ngày hôm nay, đã để lại những "quy định" cho mỗi một người khi đọc, tiến tới thử nghiệm, rồi trải nghiệm, đều có những đắng cay riêng. Xét về mặt "thời gian", từ Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Trần Đoàn, Thiệu Ung cho tới Thiệu Vĩ Hoa, cũng chỉ có mấy con người để lại những kiến thức mà chính chúng ta đang quan tâm. Hà Uyên cũng có tìm hiểu về: thế nào là "Tâm không động"? Hà Uyên đọc, trong đó có quyển HUỲNH ĐÌNH KINH dịch từ nguyên tác tiếng Đức, cũng thấy rất nhiều vấn đề cần phải bàn về "TÂM" động và không động. Hà Uyên thấy rất lạ, một Người đàn ông quốc tịch Đức ở Thế kỷ 16, sau khi nghiên cứu về Thiệu Ung, lại thấy đồng cảm và đồng thuận về HỆ NHỊ PHÂN. Và ngày hôm nay, chính chúng ta đang được hưởng những lợi ích hết sức to lớn. Vấn đề VIETHA quan tâm là một khoảng trời rộng lớn, Hà Uyên xin phép được chia sẻ khi chúng ta cùng đồng thời có một sở thích.

...

Chào Liêm Trinh Cảm ơn Liêm Trinh đã dành thời gian cho Hà Uyên. Khi giao lưu trên diễn đàn này, Hà Uyên không hề có ý gì về "mưu lược". Hà Uyên chỉ bộc lộ quan điểm của mình: tại sao Trần Đoàn lại cấu tạo 12 cung trong môn TỬ VI, tại sao THÁI ẤT lại có cấu tạo 16 cung? Hà Uyên đã nhận thức được KINH DỊCH là gốc nguồn của các môn học thuật: 1 = 13. Tại sao Trần Đoàn trong môn TỬ VI, vòng Tứ hóa: LỘC-QUYỀN-KHOA-KỴ lại căn cứ vào Can của Năm để an sao.? Năm nay 2009 - Kỷ Sửu, Hóa kỵ an theo GIỜ, như vậy vào giờ Thân chiều nay, Hà Uyên gặp Hóa Kỵ rồi.

...

dichnhan07, on May 5 2009, 05:34 PM, said:

Bàn về Mai Hoa Dịch Số, trong lòng có thắc mắc nghi vấn điều gì đó đã có thể coi là Tâm động, giả sử có người cho rằng Tâm mình vẫn chưa thật động, chẳng lẽ lại phải đi cầu cho Tâm động thật mạnh hay sao?. Lập quẻ xong, nếu chỉ căn cứ vào quẻ đó thì e rằng phiến diện chủ quan nên cần thêm các phương pháp hỗ trợ đảm bảo, đó là Tam Yếu và Thập Ứng. Mai Hoa Dịch Số chỉ nói tới các sự việc bất thường, xem việc gần mà biết việc xa. Luận sự việc không nhiều được như lục hào hay các môn khác nhưng để trắc nghiệm một điều nghi vấn thì rất tiện lợi. Nói không luận được nhiều đó là nói về phương pháp lấy quẻ chủ động chứ không phải theo như các quẻ ví dụ trong sách Mai Hoa Dịch Số, phương pháp khác nhau do lý dùng khác nhau, điều này cần phải phân biệt rõ.

Vâng, xin chào dichnhan07.

Thú thực, Hà Uyên hầu như rất ít khi BỐC DỊCH, mà đã dành thời gian rất nhiều để tự trả lời với chính mình rằng: Tại sao (?) "Quá khứ - Hiện tại - Tương lai", khi nào thì hội tụ thành 1, có nghĩa là:

Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1

Có thể, chỉ có như vậy, thì các môn Học thuận mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta một sân chơi, mà không biết bao nhiêu Thế hệ, đều có rất nhiều Người đã dành THỜI GIAN về chủ đề này.

Khi đã và đang có số " 1 ", loài Người lại luôn luôn hướng về số " 0 "

Cảm ơn dichnhan07.

...

Liêm Trinh viết "Tôi gieo một que đơn thấy Hà uyên suất hiện ở diễn đàn vào vào đoài cung". Theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, thì Hà Uyên có thể tính như sau: Số người đã đăng ký tham gia diễn đàn LYHOCDONGPHUONG, tới lượt Hà Uyên là 3717. Hà Uyên lấy 3717 chia cho 64, số dư còn lại là 5. Số của Năm-Tháng-Ngày-Giờ mà Hà Uyên đăng ký tham gia lam Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Theo Tiên thiên thì 5 là số thứ tự của quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Theo Hậu thiên, thì số 5 bao gồm những quẻ: theo thứ tự như sau: Tiểu súc - Tổn - Vô vọng - Đỉnh - Hoán - Thuần Cấn. Liêm Trinh thấy Hà Uyên theo phương pháp này có được không?

...

Dear Liêm Trinh. Một tâm sự! Trước khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, số người đã đọc bài viết của Liêm Trinh là (ví dụ là:...), sau khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh, thì số người đã đã đọc bài viết này, tại thời điểm này là (ví dụ:... lượt đọc). Đây là một chủ đề mà Hà Uyên đang rất quan tâm, sẽ dành phần nhiều giời gian để tìm hiểu về chủ đề này. Trước khi TA sinh ra, đã tồn tại bao nhiêu Người? Sau khi TA sinh ra, sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao nhiêu NGƯƠI nữa? Trước khi ÂM gặp DƯƠNG, hoặc trước khi DƯƠNG gặp ÂM, sau khi ÂM gặp DƯƠNG hay sau khi DƯƠNG gặp ÂM, điều gì sẽ đến với chúng ta? Mong Liêm Trinh đừng hiểu sai ý nghĩa của sự giao lưu giữa hai chúng ta, Hà Uyên chỉ lấy "số lượt người đã đọc" (làm Hình - Tượng) mà làm một ví dụ thôi.

...

Xin chào các anh chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VanTrungHac. Khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, Liêm Trinh có nói: "...thống nhất về phương pháp tính..." Quá khứ mà "Cổ nhân" đã để lại cho mỗi người yêu thích về những môn học thuật này, đối với Hà Uyên còn nhiều trăn trở, Hà Uyên chưa dành nhiều thời gian về luận quẻ Dịch. Trước tiên mong VanTrungHac thật sự thông cảm. Hà Uyên đang tập trung vào tìm hiểu về: Nguyên lý cấu tạo các môn Học thuật mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta. Tính chính xác? Độ tin cậy? Tại sao lại "quy định" như vậy?. Hà Uyên.

...

Chào Liêm Trinh Khi Liêm Trinh nói: "Làm thế nào để BỐC DỊCH chính xác hơn" Hà Uyên xin kể lại: Những người đi trước đã hướng dẫn cho Hà Uyên: tư duy về "tượng quẻ trước". Sau đó mới tư duy về "Lục thân". Ví dụ: khi Bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2 được quẻ Trạch Phong Đại quá - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Dịch: quẻ Hàm tượng trưng cho sự giao cảm. Quẻ Đại quá tượng trưng cho sự quá mức - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Phòng, Bốc phệ chính tông, Tăng san bốc dịch: quẻ Hàm có tượng "Manh nha xuất thổ", rồi đến quẻ Đại quá có tượng: "Dạ mộng kim ngân" Cũng phải mất đến 8 tháng hay một năm sau, Hà Uyên mới thuộc được tượng của 64 quẻ, và cảm nhận được một phần nào đó về ý nghĩa của "tượng quẻ". Mặc dù tại thời điểm đó, Hà uyên trong lòng vẫn thích xác định được hào động, tìm lục thân, an Thế - Ứng, tìm dụng thần,... Bước thứ hai là: đi sâu vào phân tích 8 quẻ "bát thuần", khi Kinh Phòng đưa Ngũ hành vào nạp cho hào quẻ Dịch. Đây là bước quan trọng, mối quan hệ "mẹ - con"? từ quẻ Mẹ với 7 quẻ con? Hình thành một phương pháp tư duy cho mỗi người, thì các nước phát triển đã làm rất có hiểu quả. Phương Tây hình thành một phương pháp sư phạm chuẩn mực cho loài người. Từ cá nhân Hà Uyên, một chia sẻ kinh nghiệm, một người Hà Uyên giao lưu đầu tiên trên diễn đàn (số "1")

...

Hà Uyên trao đổi tiếp tục Mỗi chúng ta, không ai có thể làm đảo lộn được trật tự của thời gian. Từ đây, chắc rằng cũng rất ít người làm thay đổi được quá trình nhận thức của mỗi một cá nhân. Ví như, Hà Uyên không thể tự cho mình dùng kiến thức của học sinh lớp 4, mà chưa qua quá trình nhận thức của lớp 1, lớp 2. Cũng ví như, Hà Uyên và Liêm Trinh giao lưu trên diễn đàn lyhocdongphuong, được gọi là "số 1", thì đến vị trí thứ 5, Hà Uyên giao lưu với anh Thiên Sứ, số "5" được coi như vị trí "Trung tâm" của Hà - Lạc. Giả thiết như Hà Uyên có "mưu lược" như Liêm Trinh đã nói, từ cái "ngẫu nhiên" để biến thành cái "tất nhiên", thì đương nhiên đến người thứ năm Hà Uyên giao lưu, là anh Thiên Sứ. Vị trí của Trung tâm. Một đặc trưng cơ bản của BỐC DỊCH, là "dụng thần" lại do đối tượng Khách quan quy định, trên nền giao lưu của Hoàng đế Nội kinh: Hoàng đế hỏi - Kỳ Bá trả lời. Làm thế nào để bốc dịch được chính xác?, Ai là Hoàng đế, ai là kỳ bá? Ai là Âm, ai là dương? Giả thiết là Liêm Trinh chủ động giao lưu với Hà Uyên, như vậy Liêm Trinh là Dương mà Hà Uyên là Âm, nhưng thực tiễn thì Hà Uyên chủ động chào Liêm Trinh, như vậy thì Hà Uyên là âm chủ động gặp dương. Vậy thì, chưa thể dùng một mình hào động làm nguyên nhân "gốc" để xác định thông tin.

...

Tại sao lại như vậy? Khi Hoàng đế hỏi, có nghĩa rằng Hoàng đế động, tại sao lại coi là Hoàng đế động? Vì Hoàng đế có thắc mắc ở trong lòng mà chưa hiểu, như vậy là bên trong của Hoàng đế động, có thể coi như "Nội quái động" mà "Ngoại qoái tĩnh", cũng có nghĩa Hoàng đế là Dương gặp Âm vậy. Như vậy, ta có thể nói Dương động - Âm tĩnh được không?

...

Khi Hà Uyên chọn thông số ban đầu để tính, là căn cứ theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, lấy "số thứ tự" của Hà Uyên khi tham gia vào diễn đàn là 3717, chia cho 64 quẻ, được số 5. Lấy Năm-Tháng-Ngày-Giờ khi Hà Uyên đăng khí tham gia làm Tổng chia cho 6 tìm hào động.

- Đối với Hà Uyên, thì số 5 theo Tiên thiên là quẻ Phong Thiên Tiểu súc.

- Với diễn đàn này, thì số 5 được hiểu như thế nào đối với Hà Uyên? Vì sự giao lưu là: Liêm Trinh --> VIETHA --> dichnhan07 --> VanTrungHac --> Thiên Sứ (thực ra còn Như Thông nhưng vì Hà Uyên chưa giao lưu). Số 5 đối với Hà Uyên là anh Thiên Sứ.

Theo Nguyên lý vị trí: Vị trí trung tâm 5 - 10, thì Hà Uyên chọn giải pháp ứng xử theo "Đại cục", có nghĩa là, từ "Trung tâm", Hà Uyên tôn trọng nguyên tắc: Tìm về cội nguồn.

...

Chào Liêm Trinh

Thực tình, Hà Uyên chủ động chọn cách viết, khi chúng ta trao đổi trên diễn đàn, không phải là vì viết nhiều.

Hà Uyên trở lại với chủ đề: Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn? Trên tinh thần: Tìm về cội nguồn.

Cội nguồn của Bốc Dịch, có thể bắt đầu từ Kinh phòng. Ông nói:"Dương thắng âm là tráng, tráng cực tắc phản ở âm".

Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì có 3 quẻ nói về số 7, quan trọng hơn cả là quẻ Địa Lôi Phục. Tại sao lại nói đến số 7?

Quy luật của tự nhiên đã để lại cho người phương Đông thích ứng theo thời gian: cứ 19 năm thì có 7 năm có tháng nhuận.! Thời gian vẫn cứ tiếp tục trôi, khi chúng ta phải chấp nhận: tháng nhuận = "0", trong quá trình tính tháng nhuận cho chu kỳ 19 năm. (19 - 7 = 12, hoặc 7 + 12 = 19).

Kinh Phòng đưa ra thuyết Ngũ hành nạp vào Hào của quẻ Dịch, cũng vẫn trên nguyên lý của Kinh Dịch: số 7

Ví dụ: quẻ Thuần Càn, là quẻ Cha - Mẹ, khí Dịch bắt đầu từ hào 1

1- Thuần Càn hào 1

2- Thiên Hoả Đồng nhân hào 2

3- Thiên Lôi Vô vọng hào 3

4- Phong Lôi Ích hào 4

5- Sơn Lôi Di hào 5

6- Địa Lôi Phục hào 6

7- Thuần Khôn hào 1

Từ quẻ Thuần Càn hào 1, đến quẻ thứ 7 là quẻ Thuần Khôn, thì hào 1 là hào Dương quẻ Càn mới biến thành hào 1 là hào Âm quẻ Khôn. Tiếp tục từ quẻ Thuần Khôn khí Dịch lại bắt đầu từ hào 1:

7- Thuần Khôn hào 1

8- Địa Thuỷ Sư hào 2

9- Địa Phong Thăng hào 3

10- Lôi Phong Hằng hào 4

11- Trạch Phong Đại quá hào 5

12- Thiên Phong Cấu hào 6

13- Thuần Càn hào 1

Quẻ Thuần Càn khí Dịch bắt đầu từ hào 1, thì đến quẻ thứ 7 hào 1 dương biến thành âm, và đến quẻ thứ 12, thì "thể" của quẻ Thuần Càn trở lại ban đầu, duy nhất chỉ có hào 1 biến đổi dương thành âm. Ta có thể viết như sau:

1 -> 2 -> 3 -> 4-> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 10 -> 11 -> 12 -> 13

Như vậy: 1 = 13

Khi ta chấp nhận quẻ số 7 là quẻ "Trung tâm". Từ quẻ số 2 đến quẻ số 6 bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Tý -> Giáp Thân. Từ quẻ số 8 đến quẻ số 12 cũng bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Ngọ -> Giáp Dần. Mối quan hệ Lục thập hoa giáp với 60 hào này như thế nào? Vấn đề Giáp Tý bắt đầu khởi từ đâu?

Hà Uyên đang ở hào 3 quẻ Thuần Càn, khi cộng thêm với 7 thì ở hào 4 quẻ Thuần Khôn: "Thắt chặt miệng túi".

...

Liêm Trinh nói: "Đây là vấn đề hóc búa nhất và cũng cần giải quyết nhất vì nó liên quan đến đông y học cứu người. Liêm trinh đã mất không ít thời gian tìm cơ sở khoa học cho vấn đề này mà chưa tìm ra. Trong ứng dụng thực tiễn trên hệ tính toán Liêm trinh thấy hình như hệ này không nhất quán."

Như vậy, chúng ta cùng bắt tay nhau, tiến thêm một bước nữa xem xét lại từ đầu: những cống hiến của Kinh Phòng, để trả lời cho câu hỏi: có cách nào để bốc dịch được chính xác hơn?

Việc này, Liêm Trinh chủ động mở chủ đề mới, Theo Hà Uyên, chủ đề nên tập trung vào thế hệ đi trước chúng ta "một đời", tức là theo cách nói của Kinh Phòng, là quẻ Bố - Mẹ --> Càn - Khôn

...

Hà Uyên xin chào các anh chị trên diễn đàn Chào VinhL

Trước khi chúng ta trao đổi học thuật, chúng ta xem lại bối cảnh Lịch sử giai đoạn khi xuất hiện Thiệu Ung. Bắt đầu từ Khổng Tử, Ông nói: "Đồng Đồ nhi thù quy" (nghĩa cùng một dòng mẹ mà chia làm hai dòng con vậy). Tại thời điểm này, hình thành hai trường phái: phái tượng số và phái nghĩa lý. Phái Tượng số có quan hệ mật thiết với khoa học tự nhiên, còn phái Nghĩa lý lại có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học xã hội. Trong Lịch sử, hai trường phái này, là một "thể" thống nhất của cặp mâu thuẫn. Trong Kinh Dịch có viết: "Quan vật thủ tượng" (xem vật lấy tượng). Trong Dịch truyện có viết: "Quan tượng thủ nghĩa" (xem tượng lấy nghĩa). Chiêm phệ chỉ là một bộ phận của phái Tượng số, nhưng "chiêm phệ" có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và lưu truyền, nó có ý nghĩa truyền bá rộng và sâu cho Kinh Dịch. Thiệu Khang Tiết là người đại diện tiêu biểu cho phái Tượng số, phương pháp "tư duy số " của Thiệu Ung, hình thành một hệ thống, mà nền tảng từ Kinh Dịch, là một đóng góp hết sức to lớn. Như chúng ta đã biết, một người đàn ông quốc tịch Đức thế kỷ 16, Ông không bàn về "tâm" động hay tĩnh, mà Ông đã đồng cảm và đồng thuận với Thiệu Ung về HỆ NHỊ PHÂN. "Số" có hai nghĩa lớn: nghĩa thứ nhất là "âm dương số", ví như số lẻ gọi là dương, số chẵn gọi là âm. Nghĩa thứ hai là "hào số", lấy thứ tự của các "hào", để nói lên mối quan hệ về ngôi vị giữa các sự vật. Đặc trưng là lấy "số" 9 làm số dương, số 6 làm số âm. Do vậy, "tượng" và "số" là nội dung cơ bản của Dịch học, đã được Thiệu Ung phát huy, phát triển lên một tầm cao mới. Đối với quy luật của "thời gian", người Phương Đông xây dựng hệ thống Can - Chi, ngày âm lịch dựa vào chu kỳ của Mặt Trăng, mà hệ quả của hệ thống này là: tháng "nhuận" = "0". Theo Hà Uyên, thì Thiệu Ung đã nghiên cứu rất sâu ở lĩnh vực này, tìm ra những quy luật sai số về "thời gian" giữa mặt Trời với mặt Trăng. Cụ thể là, cứ 19 năm, thì có 7 năm có tháng "nhuận" = "0". Điều này có ý nghĩa rất lớn khi Thiệu Ung xây dựng học thuyết cho mình. Ví dụ: một hào luôn luôn trải qua 12 quá trình (12 quẻ), còn hệ thống Can - Chi, theo Thiệu Ung: 60 x 60 x 60 x 60 = 12 960 000 là một đơn vị tính. Khi Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1, thì buộc người Phương Đông phải chấp nhận "tháng nhuận", với quy luật của số "7". Thiệu Ung đã căn cứ vào đây, lấy số "7" làm vị trí "trung tâm", làm phương pháp cho tư duy của mình, khi ông tự ngôn. Do vậy, khi VinhL hỏi: Năm-Tháng-Ngày-Giờ để lấy quẻ Mai hoa, sử dụng bao nhiêu quẻ khi một hào động. Theo Hà Uyên thì có 7 quẻ, nhưng thực chất chỉ có 5 quẻ. Tại sao lại như vậy? Có lẽ, Hà Uyên phải dùng "tượng" của Dịch để trả lời: theo Nguyên lý vị trí của "trung tâm", với con số "nhị - ngũ" (2 - 5), nhiệt độ trung bình của con người là 37 độ, khi tiến thêm 5 (37 + 5 = 42), hoặc khi lùi đi 2 (37 - 2 = 35), đây là giới hạn cho sự tồn tại của con người, Hà Uyên qua quá trình trải nghiệm, thấy có tính thực tiễn, nên trao đổi với VinhL như vậy, VinhL có thể kiểm nghiệm thêm. Tại sao Càn 9 Khôn 1? Khi tư duy theo phương pháp của Thiệu Ung, Ông là người đưa ra khái niệm Tiên thiên - Hậu thiện thông qua Động - Tĩnh của âm dương chuyển hoá. Ví dụ, theo Tiên thiên, ta gọi Càn là vị trí số 1 thì cộng thêm với 9 là tới số thứ tự của Thuần Đoài. Như vậy, số "10" là một giới hạn cho sự chuyển hóa từ Càn đến Đoài. Nên Thiệu Ung lấy Tứ tượng xắp xếp như sau: - Thái dương tương ứng với cặp số 4 - 9, trong đó: Càn - 1, Đoài - 4 - Thiếu âm tương ứng với cặp số 3 - 8, trong đó: Ly - 3, Chấn - 8 - Thái âm tương ứng với cặp số 1 - 6, trong đó: Khôn - 1, Cấn - 6 - Thiếu Dương tương ứng với cặp số 2 -7, trong đó Tốn - 2, Khảm - 7 Đây là sự đối đãi giữa những con số, khi xây dựng học thuyết cho Ông. Những trao đổi trên, mang tính cá nhân, mong rằng đây là một sự tham khảo vậy.

...

Hà Uyên đính chính lại: - Thái dương tương ứng với căp số 4 - 9: trong đó Càn - 9, Đoài - 4

(Nguồn: Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Báo đáp ơn cha, nghĩa mẹ

Người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ
Báo đáp ơn cha, nghĩa mẹ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ khi giả từ cuộc thế, để tái sinh vào cõi lành. Hành trang đó chính là tín, giới, thí và tuệ.

Một thời, Thế Tôn ở Sàvatthi, tại vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

1. Này các Tỷ-kheo, ta sẽ giảng cho các Thầy về địa vị bậc không phải Chân nhân và địa vị bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân nhân? Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn.

2. Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.

(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng, phần Đất)

SUY NGHIỆM:

Sống ở đời, biết ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ để hiếu kính đã là điều khó. Nhưng để trở thành người con có hiếu đúng nghĩa, tâm hiếu và hạnh hiếu vẹn toàn lại càng khó khăn hơn. Trong nhiều kinh điển, Thế Tôn thường nói đến công ơn cha mẹ bao la như trời biển, dù chúng ta có hiếu thảo đến mấy vẫn khó có thể đáp đền. Tuy vậy, pháp thoại này Thế Tôn đã chỉ bày một phương thức báo hiếu khác với lệ thường, đó là hướng dẫn cha mẹ tu học, chuyển hóa ba ác nghiệp, mà theo Ngài là “trả ơn đủ cho mẹ và cha”.

Trước hết, Thế Tôn xác quyết rằng, biết ơn và nhớ ơn là đặc tính của bậc chân nhân, của bậc thiện nhân. Khi một người không có hay đã đánh mất đặc tính biết ơn và nhớ ơn thì chắc chắn đó là người độc ác, là kẻ bất nhân, bất chính.

Ngay cả những bậc giàu sang, uy quyền tột bậc trên thế gian, một lòng cung phụng song thân thì vẫn không đủ, vì ân đức cha mẹ sinh dưỡng, tác thành cho con cái nên người quá lớn, đến độ không thể nghĩ bàn.

  • Theo Thế Tôn, hiếu dưỡng trong ý nghĩa thông thường thì dù chu toàn, tận hiếu cũng vẫn chưa đủ.
  • Nên song hành với phụng dưỡng vật chất, kính thuận, người con Phật chí hiếu phải biết khuyến hóa cha mẹ tin tưởng Tam bảo sâu sắc, an trú vào thiện giới, biết bố thí cúng dường, luôn sống với sự soi sáng của tuệ giác.
  • Làm được như thế tức là đã làm đủ, trả ơn đủ cho mẹ và cha.

Rõ ràng, Thế Tôn rất chú trọng đến sự chuyển hóa nghiệp lực cho cha mẹ để mong đời sau cha mẹ tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp hơn. Vì đời sống hiện tại vốn hữu hạn và vô thường. Sau đời sống này còn vô số kiếp sống khác nữa. Nếu thương cha mẹ mà thiếu trí tuệ, có thể tạo thêm nghiệp cho cha mẹ mà không tích lũy được phước báo nào cả thì chưa thể gọi đó là thương, là hiếu đúng nghĩa và trọn vẹn nhất.

Vì thế, người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ khi giả từ cuộc thế, để tái sinh vào cõi lành. Hành trang đó chính là tín, giới, thí và tuệ. Điều này có nghĩa là đời này và đời sau cha mẹ đều hạnh phúc. Vì thế mà Thế Tôn khẳng định là đã làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Báo đáp ơn cha, nghĩa mẹ

Tướng phụ nữ có số sướng, giàu sang bẩm sinh

Chính những nét tướng cách khác nhau cho biết số sướng khổ của mỗi cá nhân. Dưới đây là những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng phụ nữ có số sướng bẩm sinh.
Tướng phụ nữ có số sướng, giàu sang bẩm sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mũi là cung Tài Bạch, tượng trưng cho Tài khố (kho chứa tiền tài). Con gái có tướng mũi cao, thẳng và hai cánh mũi đầy đặn thường có tài vận rất tốt, công thành danh toại, cả đời sống trong giàu sang phú quý, được phúc lộc bao bọc.


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
  Ngay từ khi sinh ra, mỗi người mang những nét tướng cách đặc trưng. Chính những nét tướng cách ấy có thể phản ánh phần nào số mệnh giàu nghèo, sướng khổ của mỗi cá nhân. Dưới đây là những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng phụ nữ có số sướng bẩm sinh.   1. Phụ nữ có tướng cằm đầy đặn   Cằm hay còn được gọi là Địa các, chủ về vận thế ở hậu vận của một đời người. Phụ nữ có tướng cằm đầy đặn bao giờ cũng được hưởng phúc đức khi về hậu vận, vận khí ngày càng tăng theo thời gian.    Nhất là những quý cô có hai cằm, phúc khí càng lớn, hôn nhân cực kỳ viên mãn, quan hệ vợ chồng luôn hòa hợp, còn là trợ thủ đắc lực cho sự nghiệp của chồng. 
Tuong phu nu co so suong, giau sang bam sinh hinh anh
 
2. Nhân trung của quý cô rõ nét   Nhân trung sâu, dài và rõ nét chứng tỏ sức khỏe chủ nhân rất tốt, nhất là khả năng sinh con đẻ cái. Ngoài ra, Nhân trung còn cho biết phần nào mức độ thông minh và tuổi thọ của mỗi người.    Nếu sở hữu nét tướng phụ nữ có số sướng này, bạn hoàn toàn có thể tự hào rằng mình luôn may mắn hơn người khác, đi đâu cũng có người giúp đỡ, chỉ cần nỗ lực và kiên trì theo đuổi mục tiêu hơn nữa, ắt sẽ đạt được thành công mĩ mãn.   Đàn ông có tướng mặt này, phúc mỏng vận xui 3 kiểu tướng mặt điển hình của người gặp xui xẻo Tướng mặt ông chồng mang lại hạnh phúc mĩ mãn cho vợ
3. Cô nàng có chiếc mũi cao và thẳng
  Mũi là cung Tài Bạch, tượng trưng cho Tài khố (kho chứa tiền tài). Con gái có tướng mũi cao, thẳng và hai cánh mũi đầy đặn thường có tài vận rất tốt, công thành danh toại, cả đời sống trong giàu sang phú quý, được phúc lộc bao bọc.  
Tuong phu nu co so suong, giau sang bam sinh hinh anh
 
4. Con gái có phần dái tai dày, đầy đặn   Dái tai dày, đầy đặn phản ánh chủ nhân có tuổi thọ cao, tâm tính lương thiện, có cuộc đời giàu sang phú quý. Cả sự nghiệp và tiền tài đều gặt hái được thành quả nhất định, đáng khiến người khác ngưỡng mộ.   
Tuong phu nu co so suong, giau sang bam sinh hinh anh
 
5. Nữ giới có lông mày thanh mảnh   Những cô nàng sở hữu cặp lông mày thanh mảnh thường đi kèm với toàn bộ nhan sắc khuôn mặt hài hòa, thân thiện và dễ được người khác yêu mến. Đây cũng là tướng phụ nữ có số sướng từ nhỏ.   Thông thường những cô gái này còn rất thông minh, có tư duy logic rõ ràng, làm việc gì cũng lên kế hoạch cụ thể, rất ít khi xảy ra sai sót. Chính vì thế, công việc luôn trôi chảy, tài lộc dồi dào, ngày càng vượng phát. Đời sống hôn nhân của quý cô này cũng viên mãn, được chồng yêu chiều hết mực.
Hoàng Lam
Đặc điểm nhận diện mặt phụ nữ lấy chồng đại gia
Trong nhân tướng học, xem tướng phụ nữ lấy chồng đại gia, trước hết cần quan sát đặc điểm của tướng mũi. Mũi là cung tài bạch, chủ về tài lộc. Tướng mũi tốt

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ có số sướng, giàu sang bẩm sinh

Xem tướng bàn tay để biết vợ chồng chung thủy không? –

Nếu trên tay người yêu của bạn có bất kỳ dấu hiệu nào dưới đây, nghĩa là bạn cần suy nghĩ và cân nhắc trước khi quyết định kết hôn với nhau: Nếu người bạn đời không chung thủy, điều đó có nghĩa là bạn không có một cuộc sống gia đình hạnh phúc theo đú
Xem tướng bàn tay để biết vợ chồng chung thủy không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng bàn tay để biết vợ chồng chung thủy không? –

Soi tướng mũi đoán tình duyên tương lai

Người mũi thẳng tình duyên tốt; người mũi to khó kết hôn...
Soi tướng mũi đoán tình duyên tương lai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mũi thẳng

Mũi thẳng, thịt ở đầu mũi đầy, cánh mũi không quá mỏng chỉ người có cuộc sống hôn nhân tốt với người họ yêu.

2. Mũi to

Mũi to nhưng thịt ở cánh mũi mỏng, thẳng có nghĩa bạn khó kết hôn. Thậm chí, ngay cả khi tìm được đối tượng tốt, bạn cũng dễ bỏ lỡ hôn sự đó.

mui-a.jpg

3. Mũi thấp

Nhiều ý kiến cho rằng, người mũi thấp kém tài, không giàu. Nếu họ có cuộc sống vợ chồng hoàn hảo, con đầu lòng của họ sẽ quậy phá khiến họ mệt mỏi.

4. Đầu mũi, cánh mũi mỏng

Người có đầu mũi và cánh mũi mỏng thường thiếu cảm giác hạnh phúc trong hôn nhân. Giả dụ hôn nhân của họ thành công cũng sẽ hiếm muộn đường con cái.

5. Mũi thẳng, mỏng, cứng

Người có mũi thẳng, hơi thô, cứng, thịt mũi mỏng và hình dáng mũi gầy gò sẽ không tránh được nhiều thảm họa trong cuộc đời: hôn nhân, con cái khó khăn. Nhìn chung, tướng mũi này có cuộc sống gia đình khá gian nan.

Hạnh Yunnie (theo megu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi tướng mũi đoán tình duyên tương lai

Những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai

Có rất nhiều cách để chúc mừng sinh nhật, đặc biệt những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai làm cho tình cảm của hai bạn ngày càng thắm thiết
Những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sắp đến sinh nhật bạn trai của mình, bạn vẫn chưa biết mình sẽ gửi lời chúc nào cho anh ấy? Có rất nhiều cách để chúc mừng sinh nhật, đặc biệt những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai sẽ làm cho tình cảm của hai bạn ngày càng ngọt ngào và lãng mạn hơn bao giờ hết. Hãy tham khảo một số lời chúc hay sau đây để gởi đến anh ấy nhé!

Những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai

Dành cho những cặp đôi đang yêu nhau

Những lời nói hành động của anh đã ở tận sâu trong trái tim em, và em thấy những kỉ niệm của mình ngọt ngào và ấm áp theo thời gian. Em hy vọng những kỉ niệm đó sẽ còn mãi. Hơn thế nữa em mong muốn mình sẽ còn được dự nhiều lần sinh nhật của anh như thế này. Trong con mắt của em anh là người hoàn hảo nhất. Chúc mừng sinh nhật anh! Happy birthday to my love!

——

Chúc tình yêu của em một ngày tràn ngập những quà tặng, những lời chúc, nhưng nụ hôn thì chỉ nhận được một cái thôi nhé. Và đó là của em. Chụt chụt.

——

Anh biết không, trái đất đang ngừng xoay 1 giây để chúc mừng sinh nhật anh đó.

——

Ước mong anh là con suối trong những ngày nắng gắt, để em …rửa chân cho mát.
Ước mong anh là cái nắng gay gắt trong ngày áp thấp nhiệt đới, để em phơi đồ….
Nói chung anh là cái gì đó không thể thiếu trong đời này, dù giản dị nhưng rất quan trọng.
Chúc mừng anh tuổi mới với nhiều niềm vui…

My love! Em đã yêu anh từ khi em chưa ra đời. Chúc anh có được đầy tràn tình yêu của em.

Nếu không có ngày này thì có lẽ em cũng không có được anh. Happy birthday to mylove…..!

Thông tấn xã tình yêu xin thông báo, chủ thuê bao 09xxx vừa nhận được 1 lời chúc mừng sinh nhật cùng 1 nụ hôn gió từ thuê bao 09xxx. Happy birthday to my honey.

Anh yêu! Sinh nhật anh em chúc anh gặt hái được nhiều thành công. Mong anh mãi yêu em như ngày đầu và luôn ở bên em.

Em chúc anh ấm ấp, cả bên trong lẫn bên ngoài (hihi). Vì em luôn yêu anh, yêu anh nhiều lắm. Chúc mừng sinh nhật người yêu của lòng em!

Chúc mừng sinh nhật người em yêu nhất! Cầu mong những gì may mắn nhất, tốt đẹp nhất và hạnh phúc nhất sẽ đến với anh.^^ Cuộc sống buồn tẻ biết bao nếu vắng anh.Vì không ai chở em đi chơi nè… hihi

Cảm ơn mẹ đã “sinh ra” anh trên đời này, nếu không thì nụ hôn này em biết gửi tặng ai đây…Chúc mừng sinh nhật anh yêu!!!

Em chúc anh tuổi mới ăn khỏe! Ngủ khỏe! Và sức khỏe thì cực khỏe và yêu em cũng cực cực khỏe. Hihi. Ước gì em được hôn anh một cái ngay bây giờ!

Mừng sinh nhật anh! Em chỉ chúc anh được nhiều sức khỏe thôi. Còn về hạnh phúc và niềm vui, em mong rằng chính mình sẽ là người mang những điều đó đến với anh. Yêu anh nhiều! Happy Birthday to Love!!!

Chúc Anh sinh nhật vui vẻ! Chúc Anh thêm tuổi mới sẽ vẫn mãi là Anh trong lòng Em! Những gì tốt đẹp nhất sẽ luôn luôn đến với Anh! Em yêu Anh nhiều lắm! Happy Birthday Anh yêu quý ^^

Anh à! Gửi tới anh những lời chúc yêu thương nhất nhân ngày sinh nhật của anh! Đơn giản em chỉ muốn nói với anh rằng: “Em mãi yêu Anh”! Happy Birthday!!!

Tình yêu của em! Ngày mai là sinh nhật lần thứ … của anh. Em muốn gửi những lời yêu thương chân thành nhất của mình tới anh. Hãy cùng nhau cố gắng vì tình yêu của chúng mình, anh nhé!. “Em yêu anh”

Yêu anh! Em đã nhận được rất nhiều yêu thương chân thành từ anh. Cảm ơn tình yêu của anh, cám ơn mẹ đã sinh ra anh để bây giờ dành cho em. Dù cuộc sống phía trước còn nhiều khó khăn và thử thách, hãy vững lòng và vượt qua anh nhé. Em sẽ luôn bên anh. Chúc anh sinh nhật vui vẻ, thành công và gặp nhiều may mắn! Yêu anh!!!

Trong lúc này, em đang nghĩ về anh với tất cả yêu thương và nỗi nhớ. Em ước rằng mọi điều tốt đẹp nhất, may mắn nhất sẽ đến với anh trong ngày thật đặc biệt này và cả những ngày mai sau! Happy Birthday!!!

Dành cho bạn trẻ đang muốn “tỉnh tò”

Chúc ấy tuổi mới ngày càng đẹp trai hơn, tiền luôn đầy túi, bụng ngày càng nhiều múi và người yêu chất cao hơn núi.

Chúc mừng sinh nhật anh, sang một tuổi mới, thành công mới, nhiều niềm vui mới, nhiều thắng lợi mới, và nếu có thể thì cả người yêu mới nữa nhé. Yêu em đây nè!

Chúc ấy những gì tốt đẹp nhất mà chưa từng ai chúc ấy.

Mình sẽ luôn ở đằng sau ấy.

Luôn âm thầm và lặng lẽ đi suốt cuộc đời ấy.

Khi ấy cần, mình sẽ đến bên cạnh ấy.

HAPPY BIRTHDAY TO YOU ……!!!

Chúc mừng sinh nhật cậu!!! Tớ chúc cậu luôn luôn “vui vẻ, tươi trẻ, mạnh khoẻ, tính tình mát mẻ, cuộc đời suôn sẻ” và luôn luôn “tươi cười, yêu đời, ngời ngời sức sống”. ^^. Happy Birthday!

Sinh nhật bạn! Mình chúc bạn ngày càng trở thành “hot boy” và sớm có người yêu! Nếu ế thì yêu tạm mình vậy, mình không chê đâu ^^ hehe. Mắt cỡ quá đi mất…

Hôm nay là sinh nhật cậu! Mình chúc cậu hạnh phúc. Thêm một tuổi mới mình cũng không biết nói gì hơn là chúc cậu vui vẻ, may mắn, bình an và thành công hơn trong cuộc sống. Happy Birthday!!!^^

Cậu à! Mình muốn nói với cậu thật nhiều, muốn viết cho cậu thật nhiều nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu, bắt đầu như thế nào để có thể mở lòng mình để nói lên tất cả những suy nghĩ trong mình hiện giờ. Mình chúc cậu có 1 ngày sinh nhật thật ấm áp và hạnh phúc!!! Happy Birthday!!!

Có thể cả thế giới sẽ không nhớ và không biết đến ngày của cậu nhưng mình thì sẽ luôn nhớ và biết đến những ngày đặc biệt này. Chúc cậu mỗi năm đều tràn ngập niềm vui, gặp nhiều may mắn, ngày càng thành công. Happy Birthday!!!

Hôm nay là một ngày rất đặc biệt, ngày này vài chục năm trước có một bé trai cất “tiếng khóc” chào đời, và bây giờ đã là một chàng trai mạnh mẽ và hay cười, là một người bạn thân thương, tốt bụng và rất nhiệt tình của tớ. Chúc cậu luôn “hiền”, trẻ, mạnh khoẻ, thành đạt và nụ cười luôn nở trên môi nhé! Happy Birthday ^^

My love! Mình đã dõi theo cậu từ khi mình gặp được cậu, và dần dần mình đã có cảm tình với cậu và yêu cậu thật nhiều. Trong ngày sinh nhật cực kỳ ý nghĩa và đặc biệt này, mình cầu chúc cho những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cậu! Happy Birthday to Love!!!

Lời chúc mừng có thể không cần hoa mỹ, nhưng phải biểu lộ được tình cảm chân thành của bạn với người ấy. Hy vọng những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai trên đây sẽ giúp bạn gửi những lời yêu thương của mình đến nửa kia. Chúc bạn nhanh chóng lựa chọn được những câu chúc sinh nhật hay nhất, đặc biệt nhất dành tặng cho người mà bạn yêu thương, đặc biệt chúc hai bạn luôn hạnh phúc bên nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc sinh nhật hay dành tặng bạn trai

Đền Và - Hà Nội

Đền Và cùng với Thành cổ Sơn Tây, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về thăm quan
Đền Và - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa Điểm: Đền Và tọa lạc tại thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

Ngày Lễ Chính:

  • Hội mùa xuân: từ ngày 14 đến ngày 17 tháng Giêng âm lịch.
  • Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 âm lịch.

Vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu (3 năm 1 lần) thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính.

Đền Và còn gọi là Đông Cung trong hệ thống tứ cung của xứ Đoài (Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc xã Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội) thờ thần núi Tản Viên, vị thần đứng đầu trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền được Nhà nước Việt Nam xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1964.

Lịch Sử: Theo sử sách ghi chép, đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ấy đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng. Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong đó có lần trùng tu lớn vào năm 1884. Sự mở rộng quy mô của đền gắn với sự thành lập và phát triển của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc.

Sau khi tỉnh này được lập ra năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), tỉnh lỵ là nơi tập trung nhiều quan chức, thương gia chỉ cách đền Và khoảng 2 km nên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Trước đó, nhà tiền tế đã có nhưng quy mô nhỏ. Đền Và qua nhiều lân tu tạo: năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và năm 1932 (Bảo Đại thứ 7). Dựa theo văn tự chữ Hán khắc ở cột thì hậu cung như hiện nay được làm vào các năm 1915-1919. Năm 2008 tỉnh Hà Tây cũ cho tu bổ lại đền như hiện nay.

Kiến Trúc: Đền Và nằm giữa đồi Và, một đồi cây có diện tích khoảng 17.500 m² trồng nhiều cây lim cổ thụ, ngoài ra còn có mít, thông, đại,muỗm… Trong đền trồng cây vóc vàng và hai bên nhà tiền tế có hai cây lan cao to, đây đều là những loài nở hoa về mùa hè. Theo thuyết phong thuỷ, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Khu vực kiến trúc rộng khoảng 2.000 m² được bao ở hai bên và phía sau bởi tường thành bằng đá ong cao 2m15.

Đền được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, mang đậm bản sắc kiến trúc phương đông. Quần thể đền Và gồm các công trình như: Nghi Môn, lầu Cô Chín, sân Long hoá, Gác Chuông, Gác Trống, Tả – Hữu mạc, Tiền Tế, Thượng Điện, Hậu Cung, Nhà kho, Nhà kiệu. Các hạng mục công trình được sử dụng các loại vật liệu quý như gỗ lim, gạch đá ong, gạch Bát Tràng, ngói mũi ri. Nhiều linh vật quý được trang trí như: bộ tứ linh (long – ly – quy – phượng), tứ quý (tùng – cúc – trúc – mai), hoa sen, hoa lan; các bức trạm bong, trạm nổi cách điệu, thể hiện bàn tay khéo léo, sức sáng tạo của những người thợ, lòng thành kính của muôn triệu người Việt với các bậc Thánh nhân tiên tổ.

Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích “Tản Viên Sơn Thánh”; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. Trên những hiện vật đó khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh của Thánh Tản Viên với nhiều nét trang trí có giá trị mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh. Các bản thần tích, sắc phong, văn bia đền Và rất giàu giá trị Hán-Nôm, trong đó có văn thơ của Nguyễn Khản, Nguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân…

đền và
Góc rừng trong đền

Lễ hội đền Và diễn ra “xuân thu nhị kỳ”. Hội mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị “Tam vị Đức Thánh Tản” từ đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và. Cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính. Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99 con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh.

Đền Và cùng với Thành cổ Sơn Tây, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về thăm vùng đất Sơn Tây – trung tâm của xứ Đoài xưa nói riêng và một nét văn hóa đặc sắc của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến nói chung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Và - Hà Nội

Vận mệnh người tuổi Giáp Thìn theo Lục Thập Hoa Giáp

Nạp âm Lục thập hoa giáp của Phúc đăng Hỏa Giáp Thìn là con rồng ở nơi đáy biển, thẳng thắn hiền từ, có cương có nhu, làm việc trước khó sau dễ.
Vận mệnh người tuổi Giáp Thìn theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nạp âm Lục thập hoa giáp của Phúc đăng Hỏa Giáp Thìn là con rồng ở nơi đáy biển, thẳng thắn hiền từ, có cương có nhu, làm việc trước khó sau dễ. 


► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Giai ma van menh nguoi tuoi Giap Thin theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Phúc đăng Hỏa chiếu đến những nơi mà Mặt Trời, Mặt Trăng không chiếu đến, làm sáng những nơi còn tối tăm. Hỏa này là Hỏa phát sáng vào ban đêm trong nhân gian. Phúc đăng Hỏa là Hỏa Thiên khố, ưa các Hỏa khác đến trợ, chủ cát lợi. Đây gọi là tìm đồng khí để bổ sung cho sự không đủ của nó, rất ưa Nhâm Thìn Đại lâm Mộc, Mậu Tuất Bình địa Mộc. Để nuôi Hỏa ấy, là quý cách.
 
Nhập quý cách chủ về văn chương xuất chúng, lợi cho ngưòi sinh vào mùa thu và mùa đông, bất lợi đối với người sinh vào mùa xuân và mùa hạ.
 
Lục thập hoa giáp của Giáp Thìn kỵ Nhâm Thìn Trường lưu Thủy, Nhâm Tuất Đại hải Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy.
 
Lấy Mộc làm bấc, lấy Thủy làm dầu, gặp âm chủ về cát, gặp dương chủ về không thuận lợi.
 
Các Địa chi của trụ khác không thể thấy Thìn, bởi vì Thìn Thìn tự hình, làm việc có đầu không có cuối, vợ chồng duyên bạc. Nếu như Địa chi của ngũ trụ có bốn Thìn, mệnh nam khắc vợ, mệnh nữ khắc chồng.
 
Nếu như Thìn tọa thời chi (mùa sinh), nên theo tôn giáo.
 
Cũng không thể có Tuất, phạm xung, e gió thổi đèn tắt, chủ về đoản mệnh. Phàm gặp Mộc đều tốt, rất ưa quan tinh lộc quý.
 
Thủy ưa Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy, là dầu thật, gọi là Ám đăng giả du cách (cách cục đèn lụi thêm dầu). Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trưòng lưu Thủy là dầu giả. Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy không thể làm dầu, phạm chủ vể cả đời nghèo khó, không nổi tiếng.
 
Hỏa này gặp Thủy cần gặp Mộc, lại thêm Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim chiếu sáng, chủ hiển quý.
 
Lục thập hoa giáp của Giáp Thìn: Kim gặp Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa trung Kim; Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim đều cát lợi. Gặp Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim gọi là Đăng hoa phất kiếm cách.
 
Không ưa Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim.
 
Thổ ưa Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ, có thể an thân. Bính Tuất, Đinh Hợi Ốc thượng Thổ có thể che chở, bảo hộ. Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ, vì trong Thổ có Mộc cũng chủ về đủ ăn, đủ mặc, các Thổ khác vô dụng.
 
Hỏa ưa cùng loại, sợ gió thổi. Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa là hỏa thần long biến hóa, ắt mang gió đến, gặp Giáp Thìn Phúc đăng Hỏa khó sinh tồn.
 
Rất kỵ Bính Dần, Đinh Mão Lư trung Hỏa; Mậu Ngọ, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa cùng thấy, chủ hung tai.
 
Nhật trụ và thời trụ gặp Bính Tuất, Đinh Hợi Ốc thượng Thổ, đèn ở trong nhà, càng thêm dầu càng quý, cả đời bình yên.
 
Giáp lộc tại Dần, các Địa chi của trụ khác có Dần luận cát lợi.
 
Thìn mã tại Dần, lộc mã đồng cung. Đáng tiếc Lục thập hoa giáp của Giáp Thìn Không vong ở Dần, Mão, cho nên mệnh này không nên kinh doanh độc lập, nên luyện tay nghề, tốt nhất học các nghề như ngũ thuật, đoán mệnh, xem tướng.
 
Người sinh năm Giáp Thìn gặp năm Thìn, năm Tuất, trong nhà không được yên ổn. Bản thân được bình an thì người nhà khó tránh bị thương hại.
 
Bạn đời tử vi Giáp Thìn nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ. Không nên lấy người sinh năm Canh, Tân.
 
Giáp quý tại Sửu, các Địa chi của trụ khác ưa thấy Sửu, chủ cát lợi.
 
Người sinh năm Giáp, Văn xương tại Tỵ, nên học một ngành chuyên sâu. Các Địa chi của trụ khác có Tỵ là phạm Kiếp sát, Cô thần, trung niên phá bại.
Theo Tử vi toàn tập
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Giáp Thìn theo Lục Thập Hoa Giáp

Ý nghĩa các loài hoa theo phong thủy

Hoa là biểu tượng của vẻ đẹp, sự tinh tế và còn chứa nguồn năng lượng hưng thịnh, may mắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ lâu, thuật phong thủy đã sử dụng các loài hoa với ý nghĩa bổ trợ nguồn khí tốt cho ngôi nhà và gia chủ. Khi xét đến việc trang trí hoa theo phong thủy, bạn cần chú ý đến loài hoa, màu sắc và số lượng.

Dưới đây là 6 loài hoa thường được dùng trong phong thủy:

1. Hoa mẫu đơn

Untitled-1-8962-1392607978.jpg

Hoa mẫu đơn bắt đầu được sử dụng nhiều trong đám cưới ở Việt Nam bởi ý nghĩa lãng mạn và sự sang trọng. Ảnh: Bridgewater.

Loài hoa này được sử dụng trong phong thủy với ước mong đem đến sự lãng mạn lứa đôi và xua tan mọi bất hòa trong tình yêu. Bạn có thể sử dụng một vài bông mẫu đơn màu hồng để phát huy tác dụng mạnh nhất. Hoa mẫu đơn thường được nhắc đến là loài hoa mang vẻ đẹp nữ tính của người con gái.

2. Hoa sen

Hoa sen tượng trưng cho sự hoàn hảo. Chính nhờ vẻ đẹp tinh khiết cùng hương thơm ngát không vướng bùn hôi tanh của sen mà loài hoa này rất được ưa dùng trong phong thủy. Theo đông y, tất cả thành phần của sen, từ rễ đến cánh hoa đều có tác dụng chữa bệnh. Do đó, phong thủy sử dụng sen với ý nghĩa mang đến cho gia chủ sức khỏe dồi dào, lành mạnh, không bệnh tật và tạo sự hài hòa, sang trọng cho ngôi nhà.


3. Hoa đào

a1aaaa-7368-1392607978.jpg

Tết đến, gia đình người miền Bắc thường có cành đào đón xuân. Ảnh: Xuân Tùng.

Những cành đào nở rộ được sử dụng nhằm mang lại nguồn năng lượng cho sự khởi đầu mới, một cảm giác tươi mát, tinh khiết và ngây thơ. Hoa đào rất được ưa chuộng trong phong thủy. Những cành đào tươi thắm được cắm trong nhà dịp Tết đến xuân sang đem lại cảm giác tươi vui cho căn nhà và gia chủ.

4. Hoa lan

Loài hoa mang vẻ đẹp kiều diễm cùng hương thơm vô cùng sang trọng và quý phái này từ lâu vốn là biểu tượng phong thủy cổ điển của sự sinh sôi nảy nở. Ở phong lan, con người luôn cảm nhận được nguồn năng lượng dạt dào của tự nhiên, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự hoàn hảo tròn đầy. Nét phong phú, đa dạng, hoàn hảo trong từng loài phong lan, mùi hương tinh khiết cùng vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho loài hoa này giúp cho ngôi nhà sang trọng hơn.

5. Hoa thủy tiên

Nếu bạn đang gặp phải những rắc rối liên quan đến công việc, sự nghiệp thì hãy đặt bên cạnh mình bình hoa thủy tiên trắng tinh khiết. Loài hoa này vốn được phong thủy sử dụng nhằm mang đến những nguồn năng lượng bổ trợ cho tài năng, nghề nghiệp, sự chuyên nghiệp và làm khơi dậy tiềm năng bẩm sinh của con người. Ngoài ra, thủy tiên còn là liều thuốc tự nhiên thúc đẩy sự sáng tạo ở con người và giúp ta có thể giải quyết những vấn đề hóc búa trong công việc hàng ngày. So với thủy tiên vàng thì thủy tiên trắng có nhiều tác dụng và được sử dụng nhiều hơn.


6. Hoa cúc

Untitled-1a-3434-1392607978.jpg

Hoa cúc họa mi đầu đông được cắm nhiều trong các gia đình ở Hà Nội. Ảnh: Minh Quân.

Trong phong thủy, hoa cúc biểu trưng cho một cuộc sống thanh bình, cân bằng. Với sắc màu của ánh mặt trời chói chang, hoa cúc mang trong mình nguồn năng lượng dương mạnh mẽ. Vì thế nó thường được sử dụng để thu hút sự may mắn cho gia chủ và các thành viên trong gia đình.

Việc đặt trong nhà một bình hoa tươi sắc để có được những nguồn năng lượng bổ trợ là lựa chọn hoàn hảo. Nếu không có điều kiện chăm sóc hoa, bạn có thể đặt các bức tranh vẽ các loài hoa kể trên cũng rất tốt cho căn nhà và các thành viên trong gia đình.

Đăng Linh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa các loài hoa theo phong thủy

Đặt tên cho con – Bí ẩn số mệnh –

Chọn tên đối với một sinh linh mới ra đời là một bước quan trọng và đầy trách nhiệm. Cùng với tên mẹ đặt cho, con người theo nó suốt cuộc đời, trở thành một phần máu thịt của cá nhân họ. Trong thời kỳ tiền sử, việc chọn tên diễn ra rất tự nhiên, bản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn tên đối với một sinh linh mới ra đời là một bước quan trọng và đầy trách nhiệm. Cùng với tên mẹ đặt cho, con người theo nó suốt cuộc đời, trở thành một phần máu thịt của cá nhân họ.

Trong thời kỳ tiền sử, việc chọn tên diễn ra rất tự nhiên, bản thân cái tên phải xác định được vị trí đứa trẻ không chỉ trong xã hội loài người, mà còn trong cả thế giới tinh thần. Mỗi một tên gọi biểu hiện một loạt đặc điểm cá nhân của con người, tính chất cội nguồn của nó, vị thế xã hội mà nó giữ theo sự ra đời của mình, cũng như hoàn cảnh đi cùng với sự xuất hiện một sinh linh mới trên cõi đời, hoặc thời điểm nào đó từ phía gia đình trong khoảnh khắc ra đời của bé.

1345519496-anh2

Bởi thế, hiện nay một số nước đặt tên theo cách cũ hoặc theo thói quen: Petr (theo tiếng Hy Lạp): – “, tảng đá, đá”; Natalia (tiếng Hy Lạp) – “quan hệ với sinh nở”, “hoài thai”, “ruột thịt”; Greb (theo tiếng một dân tộc trên thế giới) – “hậu sinh của Chúa”, v.v…
Phong tục chọn tên ngày nay rất phong phú: một số người đặt tên cho những đứa trẻ theo phong tập cũ vì danh dự của ông nội, bà nội, những người khác theo danh dự của các nghệ sỹ yêu thích, các nhà du hành vũ trụ. Thí dụ: năm 1960 ở Liên Xô nổi lên phổ biến tên Iuri theo danh của nhà du hành vũ trụ đầu tiên Iuri Gagarin. Vào những năm 90, ở Liên Xô trình chiếu bộ phim truyền hình nhiều tập châu Mỹ La tinh “Nô tì Izaora”, lập tức xuất hiện nhiều tên Izaora, Mariann, Luisov- Alberto…Hiện nay lại rất phổ biến các tên ‘cũ’ thời Xô viết như Danil, Nikita, Arkhiv, Arina. Vì thế, rất thường xuyên để đặt tên thường gọi cho con mình các mẹ thường nhờ đến các cha cố.
Thực tế, trong xã hội hiện đại phát triển việc xác định tên, họ được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ.

Ở nhiều dân tộc, từ trước đến nay vẫn giữ phong tục đặt cho trẻ cái tên buồn cười hoặc vô nghĩa, xấu như cái Đĩ, mẹ Đĩ, thằng Sài, thằng Tèo, cu Theo, con Dậu, mẹ Hĩm…ở nước ta. Cho rằng, những cái tên xấu qủy dữ không quan tâm, không quấy nhiễu, nhờ đó cuộc sống đứa trẻ sẽ thuận lợi và may mắn. Ở xã Kim Lộc, huyện Can Lộc (tỉnh Hà Tĩnh), cạnh nhà tôi có người khi mới sinh có cái tên được mẹ đặt rất bình thường, không xấu, nhưng vừa mới hoài thai, mẹ đã tự cắn mất một ngón chân cái của con, khiến đứa trẻ thành tật, để cho dễ nuôi. Anh này giờ đã gần tuổi 60, giáo viên, hiện là chủ tịch Công đoàn một Phòng Giáo dục thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Việc đặt tên con đòi hỏi sự suy nghẫm, cân nhắc, nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng của các bậc cha mẹ, nhiều người phải nhờ đến thầy giỏi, cha cố, sách tử vi, vì cái tên người không chỉ đơn giản là cái tên, mà nó theo ta suốt cuộc đời, gắn liền với số phận của mỗi đời người, gắn liền với danh vọng, sự thành đạt. Neeesy không cẩn thận, cái tên ‘phản chủ’ sẽ ám ảnh con người từ khi sinh ra cho đến lúc đậy nắp quan tài như một mặc cảm tội lỗi.

Có người không muốn đặt tên con có vần A, B vì sợ con lớn lên đi học rồi đi thi phải luôn trong danh sách đầu trong sổ đầu bài, ngồi bàn đầu, thầy cô, cán bộ coi thi hay “chiếu tướng”, nhiều bất lợi, tội con.

Cái tên phải xứng với cái danh, với nhan sắc vốn có của chủ sở hữu nó, nhưng từ lúc mới sinh điều này khó xác định, trừ những gia đình vốn có dòng dõi thông minh và tài sắc lâu đời. Còn phần lớn ‘sự đã rồi’, sửa sai không khó nhưng ngại phiền phức. Quả thật, tên là Đặng Anh Tài, mà lớn lên bất tài, ăn bám vợ thì cảm giác xấu hổ suốt đời. Tên đẹp như Kiều Hoa, lớn lên ‘nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày’ thì ân hận lắm! Сái tên đẹp, hoành tráng được tôn vinh bởi tài sắc, đức hạnh của chủ sở hữu nó.

Trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam nói chung, trước Cách mạng tháng 8 nói riêng chúng ta thường bắt gặp rất nhiều nhân vật có tên Huệ, Lan… Những nhân vật mang tên các loài hoa này là các tiểu thư lá ngọc cành vàng, có vẻ bị bệnh tim, khiến ta ‘ngẩn ngơ đi trong vườn mộng’, để ngắm để yêu thì tuyệt vời, nhưng thường có số phận éo le, bạc mệnh bởi duyên tình trắc trở.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con – Bí ẩn số mệnh –

Mức độ cự tuyệt trong tình yêu của 12 chòm sao

Hổ Cáp thì thời thanh xuân dành sự ưu ái cho những vùng đất mới, cho những đam mê khám phá nên nói không với chuyện tình cảm.
Mức độ cự tuyệt trong tình yêu của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Hổ Cáp thì thời thanh xuân dành sự ưu ái cho những vùng đất mới, cho những đam mê khám phá nên nói không với chuyện tình cảm, trái ngược toàn phần với Thiên Bình.

12 chòm sao có mức độ cự tuyệt tình duyên như thế nào:

Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 2
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 3
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 4
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 5
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 6
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 7
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 8
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 9
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 10
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 11
 
Muc do cu tuyet trong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh goc 12
 
Phương Thùy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mức độ cự tuyệt trong tình yêu của 12 chòm sao

'Thầy' đặt tên, con phú quý?

Khi bé còn chưa chào đời, nhiều bậc cha mẹ đã 'săn' thầy để cậy nhờ tìm một cái tên phú quý, cát tường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc

Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người khác gọi, vì thế phải hay, kêu, tránh thô tục, không trúc trắc. Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh dùng nhiều chữ để dễ gọi.

Tên gọi phải có kiểu chữ đẹp, dễ viết, tạo nên chữ ký đẹp, chân phương.

Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hoà giữa họ và tên, ví dụ Bạch Như Băng khiến người ta có cảm giác trong trắng như băng.

Tên gọi phải có ngụ ý hay: điều quan trọng nhất của việc đặt tên là chọn chữ nghĩa sao cho hay và lịch sự. Vì thế phải căn cứ vào thẩm mỹ, chí hướng, và sở thích để chọn chữ nghĩa.

Điều kiêng kỵ khi đặt tên

Tốt nhất là không đặt tên dở tây dở ta như Mali Hồng Ngọc, Giôn Vũ Mạnh, Miki Lan Hương, Ana Hoài Thu v.v... khi con cái trưởng thành, nếu có dịp tên gọi được xuất hiện trên các báo chí, đài phát thanh truyền hình thì độc giả, thính giả sẽ phải đoán người đó là Tây hay ta.

Khi đặt tên không nên chạy theo thời cuộc chính trị, đặt tên gọi mang mầu sắc chính trị ví dụ trong chiến tranh giải phóng dân tộc có người đặt tên cho con là Giải Phóng, Phản Đế, Kháng Mỹ... hoặc là sau này lại đặt tên là Văn Cách, Hồng Vệ...

Khi đặt tên không nên dùng những từ cầu lợi, ví dụ Phú Quý, Kim Ngân làm cho người khác có cảm giác đó là sự nghèo nàn về học vấn.

Khi đặt tên không nên cuồng tín, nông cạn quá, ví dụ đặt tên là Vô Địch, Vĩnh Phát... Đặt tên gọi tuyệt đối quá, cực đoan quá sẽ làm cho người khác không có ấn tượng tốt.

Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt.

Theo Bách khoa tri thức

Trích từ nguồn: EVA.VN
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 'Thầy' đặt tên, con phú quý?

Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tuất, tuổi Hợi (Âm lịch)

Xem bói tình duyên 12 con giáp để biết người tuổi Tuất, người tuổi Hợi hợp với người tuổi gì có tháng sinh nào nhất.
Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tuất, tuổi Hợi (Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tham khảo xem bói tình duyên 12 con giáp để giúp bạn tìm được một nửa tâm đầu ý hợp. Tuy nhiên, không có gì hoàn hảo cả vì thế quan trọng là bạn hiểu đối phương và cả hai cùng hướng tới mục đích chung trong tương lai.   Để thuận vợ thuận chồng, gia đình hài hòa, êm ấm bạn không quên xem bói tình duyên 12 con giáp và bài viết này sẽ giúp bạn xem các tiêu chí lựa chọn bạn đời phù hợp nhất dựa theo tuổi và tháng sinh của mỗi người.   Sau đây là hôn nhân hợp duyên của nam và nữ theo tháng sinh của 12 con Giáp. Tháng sinh ở đây là tháng theo Âm lịch.  

Xem bói tình duyên tuổi Tuất: Hôn nhân người tuổi Tuất theo tháng sinh
 

Người sinh tháng Giêng

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thìn sinh tháng 4 hay tuổi Dậu sinh tháng 10.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 4 hay tuổi Mũi sinh tháng 1.  

Người sinh tháng Hai

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Ngọ sinh tháng 2 hay tuổi Mùi sinh tháng 12.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 5 hay tuổi Ngọ sinh tháng 6.  

Người sinh tháng Ba

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 10 hay tuổi Hợi sinh tháng 1.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tý sinh tháng 8 hay tuổi Mùi sinh tháng 10.  

Người sinh tháng Tư

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Sửu sinh tháng 10 hay tuổi Thìn sinh tháng 7.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Ngọ sinh tháng 2 hay tuổi Hợi sinh tháng 1.  

Người sinh tháng Năm

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Ngọ sinh tháng 10 hay tuổi tuổi Tuất sinh tháng 6.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn hay tuổi Hợi sinh tháng 12.      
Xem boi tinh duyen 12 con giap Tuoi Tuat, tuoi Hoi
 

Người sinh tháng Sáu

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 6 hay tuổi Thìn sinh tháng 1.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi tuổi Sửu sinh tháng 1 hay tuổi Tuất sinh tháng 6.  

Người sinh tháng Bảy

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thìn sinh tháng 3.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 3.  

Người sinh tháng Tám

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý sinh tháng 3 hay tuổi Ngựa sinh tháng 12.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 10, tháng 4.  

Người sinh tháng Chín

    Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 10 hay tuổi Tị sinh tháng 7.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Ngọ sinh tháng 10 hay tuổi tuổi Mùi sinh tháng 9.  

Người sinh tháng Mười

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tị sinh tháng 7 hay tuổi tuổi Dậu sinh tháng 10.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị hay tuổi Dậu sinh tháng 12.  

Người sinh tháng Mười một

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý sinh tháng 12 hay tuổi Tuất sinh tháng 10.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Ngọ hay tuổi Hợi sinh tháng 3.  

Người sinh tháng Chạp

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Ngọ sinh tháng 8.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị hay Ngọ sinh tháng 3.       Bạn có thể xem thêm bất cứ điều gì liên quan tới tuổi TUẤT: TẠI ĐÂY   

Xem bói tình duyên tuổi Hợi: Hôn nhân người tuổi Hợi theo tháng sinh

 

Người sinh tháng Giêng

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 2 hay tuổi Tuất sinh tháng 4.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 5 hay tuổi Tuất sinh tháng 3.  

Người sinh tháng Hai

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 3 hay tuổi Thân sinh tháng 10.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 10 hay tuổi Dậu sinh tháng 11.  

Người sinh tháng Ba

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 2 hay tuổi Mão sinh tháng 10.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn sinh tháng 10 hay tuổi Tị sinh tháng 6.   
Dan ong tuoi Hoi nen ket hon voi nguoi phu nu tuoi Mui sinh thang 6 hay tuoi Than sinh thang 1
 

Người sinh tháng Tư 

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ Tị sinh tháng 5 hay tuổi Mùi sinh tháng 9.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 3 hay tuổi Thìn sinh tháng 9.  

Người sinh tháng Năm

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Ngọ sinh tháng 1 hay tuổi Mùi sinh tháng 3.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Sửu, tuổi Dần sinh tháng 8.  

Người sinh tháng Sáu

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tị sinh tháng 9 hay tuổi Hợi sinh tháng 12.    Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão, tuổi Dậu sinh tháng 9.    

Người sinh tháng Bảy

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 11 hay Thân sinh tháng 4.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Sửu sinh tháng 6 hay tuổi Ngọ sinh tháng 7.  

Người sinh tháng Tám

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 11 hay tuổi Thân sinh tháng 4.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 1 hay tuổi Dậu sinh tháng 6.  

Người sinh tháng Chín

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 6 hay tuổi Thân sinh tháng 1.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tý sinh tháng 7 hay tuổi Thân sinh tháng 11.  

Người sinh tháng Mười

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 6 hay tuổi Hợi sinh tháng 11.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 4 hay tuổi Tị sinh tháng 11.  

Người sinh tháng Mười một

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý sinh tháng 11 hay tuổi Thân sinh tháng 8.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Hợi sinh tháng 10.  

Người sinh tháng Chạp

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 5.   Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 11 hay tuổi Hợi sinh tháng 6.     Bạn có thể xem thêm bất cứ điều gì liên quan tới tuổi HỢI: TẠI ĐÂY     Lichngaytot.com

Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Thân, tuổi Dậu (Âm lịch) Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Ngọ, tuổi Mùi (Âm lịch) Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Thìn, tuổi Tị (Âm lịch)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tuất, tuổi Hợi (Âm lịch)

Con chim ưng “bất trị” của Thành Cát Tư Hãn

Từ mẩu chuyện của Thành Cát Tư Hãn, con người học được sự suy nghĩ thấu đáo khi xử lý tình huống trong lúc tức giận để tránh được những điều đáng tiếc
Con chim ưng “bất trị” của Thành Cát Tư Hãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con người ta khi tức giận thì dường như mất hết đi lý trí, không phân biệt được đúng sai và thường gây họa vào chính thời điểm này. Bởi vậy cho nên đừng bao giờ làm điều gì trong lúc đang nóng giận, nếu không muốn sau này phải hối hận.

800 năm về trước, trên thảo nguyên bao la xuất hiện một đế quốc hùng mạnh. Tương truyền rằng miền đất đó rộng đến nỗi nếu dùng ngựa loại tốt mà chạy từ miền đông sang miền tây cũng phải mất một năm. Bởi vì đế quốc này rộng lớn như biển, cho nên vị Đại Hãn kiến lập nên đế quốc này được gọi là Thành Cát Tư Hãn, ý nói là “cũng giống như Vua Biển”.

Đại Hãn rất yêu quý một con chim ưng, khi ra ngoài săn bắn ông luôn mang chim ưng theo cùng. Chú chim ưng này khi Đại Hãn vừa ra mệnh lệnh liền bay vào không trung tìm kiếm con mồi. Nếu như nhìn thấy mục tiêu nó liền nhanh như tên bắn sà xuống quắp đi. Khi chinh chiến, chú chim chỉ dẫn phương hướng của quân địch cho Đại Hãn.

Một ngày nọ, Đại Hãn và các tùy tùng đi săn. Khi trên đường trở về, Đại Hãn lệnh cho các tùy tùng về trước, đợi khi mặt trời dần xuống, ông mới thuận theo một lối tắt mà trở về.

Đi được một hồi, do khí trời mùa hè nóng nực, Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khát nước, muốn tìm nước uống, nhưng vì sức nóng của Mặt trời đã khiến các khe suối liền mấy tháng trời đều khô cạn. Song ông biết ở phía trước có một dòng suối nhỏ chảy mãi không bao giờ cạn.

Ông dựa vào trí nhớ, tìm kiếm rất lâu, cuối cùng đã tìm được dòng nước. Tuy nhiên, dòng nước bây giờ chảy nhỏ giọt, rất lâu mới tụ thành một giọt nước nhỏ xuống.

Đại Hãn lấy một chén rượu từ trong túi ra, từ từ hứng dòng nước. Mất một đoạn thời gian thật lâu nước mới chảy đầy chén. Bởi vì quá khát, Thành Cát Tư Hãn không đợi thêm được nữa, không dễ gì đợi cho nước chảy đầy chén. Ngay khi ông vừa muốn đưa chén nước lên môi thì đột nhiên con chim ưng yêu quý của Đại Hãn bay tới hất cái chén từ trong tay ông tuột rơi xuống đất, nước đổ hết ra ngoài.

Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khá bực tức. Con chim ưng chuyển mình bay quay lại rất nhanh, sau đó nó đậu trên hòn đá bên dòng nước, ông không hiểu con chim ưng đang làm cái gì.

Thành Cát Tư Hãn lại nhặt cái chén lên để hứng nước. Lần này ông không muốn đợi quá lâu, nước vừa mới đầy một nửa chén ông đã nhấc chén lên, đưa gần lên môi chuẩn bị uống, liền ngay khi đó, chim ưng lại lao tới tấn công làm cái chén đổ lật ngược.

Lần này Thành Cát Tư Hãn đã thật sự nổi giận, ông trừng mắt nhìn chim ưng và nói: “Lần này là lần cuối cùng nhé, một lần nữa là mày sẽ phải trả giá cho những gì mày đã làm đấy!”

Lại thêm một lần nữa, con chim ưng kia vẫn cứ xông đến hất đổ cái chén nằm lộn ngược. Một tiếng “Xoát!”, Thành Cát Tư Hãn rút cây kiếm vàng ra, chém đứt đầu con chim ưng rơi xuống rồi lạnh lùng nói: “Đấy là mày tự làm tự chịu nhận lấy!”

Lần này Đại Hãn không muốn đợi thêm nữa, ông liền leo lên tảng đá, muốn trực tiếp tìm tới đầu nguồn uống cho bõ cơn khát. Đúng lúc ông trèo lên tới đỉnh núi tìm thấy vũng nước nhỏ đầu nguồn, ông mới vô cùng kinh ngạc, ngay giữa vũng nước đó là xác một con rắn lớn cực độc, dịch độc đang chảy hòa vào dòng nước trong suốt.

Thành Cát Tư Hãn chợt hiểu thông tất cả mọi thứ, hóa ra chim ưng là vì để cứu ông, mới hết lần này đến lần khác làm đổ chén nước. Ông hối hận vô cùng leo trở lại tảng đá, đau lòng bưng xác chim ưng lên thương tiếc, liền nói với chính mình:

Hôm nay ta đã học được một điều, đừng làm bất cứ điều gì khi giận dữ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con chim ưng “bất trị” của Thành Cát Tư Hãn

Cân Xương Tính Số

Trong cuốn "Tướng Mạng Mộng Bốc" (Dịch giả Huyền Mặc Đạo Nhân). Phép "Cân Xương Tính Số" này lấy giờ ngày tháng năm sinh (Âm Lịch) phối chuẩn với nhau, mỗi can chi, ngày tháng được định lượng theo kiểu "vàng" tức là lượng chỉ. Cộng lại số lượng chỉ sau khi quy đổi ra sẽ được số cuối cùng. Phương pháp này xem chung cho cả Nam lẫn Nữ. Mục đích của phương pháp này chủ yếu là xem chữ "Phú" và chỉ mang một giá trị tham khảo thôi. Muốn chính xác & độ tin cậy cao phải kết hợp xem với Tử Vi, Tử Bình hoặc Bát Tự Hà Lạc v.v... Dịch vụ đóng phí xem Tử vi trọn đời .
Cân Xương Tính Số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem Lược Giải Lượng chỉ.

 Cân lượng theo năm sanh

Giáp Tý: 1 lượng 2 chỉ
Bính Tý: 1 lượng 6 chỉ
Mậu Tý: 1 lượng 5 chỉ
Canh Tý: 0 lượng 7 chỉ
Nhâm Tý: 0 lượng 5 chỉ

Ất Sửu: 0 lượng 9 chỉ
Đinh Sửu: 0 lượng 8 chỉ
Kỷ Sửu: 0 lượng 8 chỉ
Tân Sửu: 0 lượng 7 chỉ
Quý Sửu: 0 lượng 5 chỉ

Bính Dần: 0 lượng 6 chỉ
Mậu Dần: 0 lượng 8 chỉ
Canh Dần: 0 lượng 9 chỉ
Nhâm Dần: 0 lượng 9 chỉ
Giáp Dần: 1lượng 2 chỉ

Đinh Mão: 0 lượng 7 chỉ
Kỷ Mão: 1 lượng 9 chỉ
Tân Mão: 1 lượng 2 chỉ
Quý Mão: 1 lượng 2 chỉ
Ất Mão 0 lượng 8 chỉ

Mậu Thìn: 1 lượng 2 chỉ
Canh Thìn: 1 lượng 2 chỉ
Nhâm Thìn 1 lượng 0 chỉ
Giáp Thìn: 0 lượng 8 chỉ
Bính Thìn: 0 lượng 8 chỉ

Kỷ Tỵ: 0 lượng 5 chỉ
Tân Tỵ: 0 lượng 6 chỉ
Quý Tỵ: 0 lượng 7 chỉ
Ất Tỵ: 0 lượng 7 chỉ
Đinh Tỵ: 0 lượng 6 chỉ




Canh Ngọ: 0 lượng 9 chỉ
Nhâm Ngọ: 0 lượng 8 chỉ
Giáp Ngọ: 1 lượng 5 chỉ
Bính Ngọ: 1 lượng 3 chỉ
Mậu Ngọ: 1 lượng 9 chỉ

Tân Mùi: 0 lượng 8 chỉ
Quý Mùi: 0 lượng 7 chỉ
Ất Mùi: 0 lượng 6 chỉ
Đinh Mùi: 0 lượng 5 chỉ
Kỷ Mùi: 0 lượng 6 chỉ

Nhâm Thân: 0 lượng 7 chỉ
Giáp Thân: 0 lượng 5 chỉ
Bính Thân: 0 lượng 5 chỉ
Mậu Thân: 1 lượng 4 chỉ
Canh Thân: 0 lượng 8 chỉ

Quý Dậu: 0 lượng 8 chỉ
Ất Dậu: 1 lượng 5 chỉ
Đinh Dậu: 1 lượng 4 chỉ
Kỷ Dậu: 0 lượng 5 chỉ
Tân Dậu: 1 lượng 6 chỉ

Giáp Tuất: 0 lượng 5 chỉ
Bính Tuất: 0 lượng 6 chỉ
Mậu Tuất: 1 lượng 4 chỉ
Canh Tuất: 0 lượng 9 chỉ
Nhâm Tuất: 1 lượng 0 chỉ

Ất Hợi: 0 lượng 9 chỉ
Đinh Hợi: 1 lượng 6 chỉ
Kỷ Hợi: 0 lượng 9 chỉ
Tân Hợi: 1 lượng 7 chỉ
Quý Hợi: 0 lượng 7 chỉ
 Cân lượng theo tháng sanh

Tháng Giêng: 0 lượng 6 chỉ
Tháng Hai: 0 lượng 7 chỉ
Tháng Ba: 1 lượng 8 chỉ
Tháng Tư: 0 lượng 9 chỉ
Tháng Năm: 0 lượng 5 chỉ
Tháng Sáu: 1 lượng 6 chỉ
Tháng Bảy: 0 lượng 9 chỉ
Tháng Tám: 1 lượng 5 chỉ
Tháng Chín: 1 lượng 8 chỉ
Tháng Mười: 1 lượng 8 chỉ
Tháng Mười Một: 0 lượng 9 chỉ
Tháng Chạp: 0 lượng 5 chỉ
 Cân lượng theo giờ sanh

Giờ Tý: 1 lượng 6 chỉ
Giờ Sửu: 0 lượng 6 chỉ
Giờ Dần: 0 lượng 7 chỉ
Giờ Mẹo: 1 lượng 0 chỉ
Giờ Thìn: 0 lượng 9 chỉ
Giờ Tỵ: 1 lượng 6 chỉ
Giờ Ngọ: 1 lượng 0 chỉ
Giờ Mùi: 0 lượng 8 chỉ
Giờ Thân 0 lượng 8 chỉ
Giờ Dậu: 0 lượng 9 chỉ
Giờ Tuất: 0 lượng 6 chỉ
Giờ Hợi: 0 lượng 6 chỉ

 Cân lượng theo ngày sanh

Ngày mùng một: 0 lượng 5 chỉ
Ngày mùng hai: 1 lượng 0 chỉ
Ngày mùng ba: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mùng bốn: 1 lượng 5 chỉ
Ngày mùng năm: 1 lượng 6 chỉ
Ngày mùng sáu: 1 lượng 5 chỉ
Ngày mùng bảy: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mùng tám: 1 lượng 6 chỉ
Ngày mùng chín: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mùng mười: 1 lượng 6 chỉ
Ngày mười một: 0 lượng 9 chỉ
Ngày mười hai: 1 lượng 7 chỉ
Ngày mười ba: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mười bốn: 1 lượng 7 chỉ



Ngày rằm: 1 lượng 0 chỉ
Ngày mười sáu: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mười bảy: 0 lượng 9 chỉ
Ngày mười tám: 1 lượng 8 chỉ
Ngày mười chín 0 lượng 5 chỉ
Ngày hai mươi: 1 lượng 5 chỉ
Ngày hai mươi mốt: 1 lượng 0 chỉ
ngày hai mươi hai: 0 lượng 9 chỉ
Ngày hai mươi ba: 0 lượng 8 chỉ
Ngày hai mươi bốn: 0 lượng 9 chỉ
Ngày hai mươi lăm: 1 lượng 5 chỉ
Ngày hai mươi sáu: 1 lượng 8 chỉ
Ngày hai mươi bảy: 0 lượng 7 chỉ
Ngày hai mươi tám: o lượng 8 chỉ
Ngày hai mươi chín: 1 lượng 6 chỉ
Ngày ba mươi: 0 lượng 6 chỉ

Xem Lược Giải Lượng chỉ.

Thí dụ:

Người sinh năm Giáp Tý, tháng Giêng, ngày mùng Một, giờ Tý. Xem ở bài trên thì Giáp Tý được 1 lượng 2 chỉ, tháng Giêng được 0 lượng 6 chỉ, ngày mùng một được 0 lượng 5 chỉ, giờ Tý được 1 lượng 6 chỉ. Rồi cộng chung lại như dưới đây:

Sinh năm Giáp Tý : 1 lượng 2 chỉ
Sinh tháng Giêng : 0 lượng 6 chỉ
Sinh ngày mùng một: 0 lượng 5 chỉ
Sinh giờ Tý : 1 lượng 6 chỉ
__________________
Tổng cộng : 3 lượng 9 chỉ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cân Xương Tính Số

10 giấc mơ mang theo điềm báo đổ vỡ hôn nhân

Những giấc mơ tưởng chừng vô thưởng vô phạt song lại ẩn chứa rất nhiều bí mật. Bạn có biết trong giấc mơ có thể nhìn thấy điềm báo đổ vỡ hôn nhân không?
10 giấc mơ mang theo điềm báo đổ vỡ hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Mơ, hay giấc mơ là những trải nghiệm, những ảo tưởng của trí óc trong giấc ngủ. Có những giấc mơ chẳng có ý nghĩa gì trên thực tế, song có những giấc mơ lại như một điềm báo trước những điều sắp xảy ra.
  Có thể trong cuộc sống, bạn thường không chú ý đến những tiểu tiết trong giấc mơ của mình, nhưng theo môn khoa học giải mã giấc mơ thì qua đó, bạn có thể biết được rất nhiều chân tướng sự việc mà ngoài đời thực bạn không hề hay biết.

giac mo bao hieu do vo hon nhan
 
  Hôn nhân là điều vô cùng thiêng liêng, ai cũng mong muốn có được hôn nhân hạnh phúc nhưng chẳng phải lúc nào chúng ta cũng có được điều mình muốn. Vậy những giấc mơ như thế nào là dấu hiệu của việc đổ vỡ hôn nhân, tình cảm gia đình rạn nứt. Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá thêm về những giấc mơ không lành đó nhé.  

1. Mơ thấy đánh nhau với người khác trong nước: Tình yêu tay ba

  Nếu trong giấc mơ, bạn thấy mình đang ở trong nước, lại đánh nhau với một người khác, song do trở lực của nước nên bạn càng ngày càng thấy sức yếu dần đi, vậy thì rất có thể ngoài đời thực, bạn đang phải đối mặt với tình yêu tay ba. Bạn mệt mỏi với việc tranh giành tình cảm giữa tam giác tình yêu phức tạp, dần mất đi niềm tin và động lực với tình yêu, bạn đang muốn buông xuôi.  

2. Mơ thấy tường đổ: Có kẻ thứ ba xuất hiện

  Bức tường hay bức vách tượng trưng cho sự bảo vệ, nhưng nếu trong giấc mơ, bạn nhìn thấy bức tường sụp đổ ngay trước mắt mình thì điều đó cũng có nghĩa là lớp áo giáp bảo vệ cho hôn nhân của bạn đã bị lấy mất. Bạn nên cẩn trọng bởi có kẻ thứ ba đang rình rập phá hoại hạnh phúc gia đình, khiến cuộc hôn nhân của bạn đứng trên bờ vực đổ vỡ.   Mời bạn đọc thêm: 4 mẹo phong thủy đánh bay kẻ thứ 3.  

3. Mơ thấy cây rụng lá: Vợ chồng bất hòa


vo chong bat hoa
 
Trong giấc mơ của bạn xuất hiện một cái cây hay một khu rừng, mà cây vốn đang xanh tươi lại rụng sạch hết lá, vậy thì bạn rất có thể đang đối mặt với nguy cơ đổ vỡ hôn nhân do vợ chồng bất hòa. Cây rụng lá tượng trưng cho sự suy bại, diệt vong, rất có thể vợ chồng bạn đang có mâu thuẫn, thường xuyên tranh cãi không thôi. Hãy học cách đối thoại với nhau, thông cảm và suy nghĩ cho đối phương nhiều hơn nữa.  

4. Mơ thấy quần áo bị lấm bẩn: Hôn nhân đang có vấn đề


hon nhan tan vo
 
Bộ quần áo trong giấc mơ của bạn tượng trưng cho người vợ. Nếu người chồng mơ thấy người khác mặc quần áo của mình thì rất có thể vợ bạn đang có tư tình với người khác. Còn nếu bạn thấy quần áo của mình trong mơ bị lấm bẩn thì đó là điềm báo hôn nhân của bạn đang xảy ra vấn đề khá nghiêm trọng.  

5. Mơ thấy mặt trời lặn hay trăng tàn: Yêu lầm người

  Thông thường, những giấc mơ có xuất hiện mặt trăng hay mặt trời đều mang ý tốt, là điềm báo thăng quan tiến chức. Song nếu bạn mơ thấy trăng tàn hay hoàng hôn mặt trời lui bóng thì đó chính là dấu hiệu cảnh báo bạn cần tỉnh táo hơn, tránh yêu phải người không nên yêu.  

6. Mơ thấy người yêu cũ: Thay lòng đổi dạ

  Nếu nam nữ còn độc thân mơ gặp người yêu cũ thì đơn giản là họ đang khao khát có được tình yêu. Nhưng khi bạn là người đã có đôi có cặp mà lại gặp giấc mơ như vậy thì có thể bạn sẽ quay về với người tình cũ.    Riêng với những người đã có gia đình, giấc mơ này thể hiện bạn đang không hài lòng với một nửa của mình và muốn quay trở lại quá khứ.  

7. Mơ thấy nhẫn cưới bị hủy hoại: Ly hôn


tinh cam ran nut
 
Giấc mơ này thể hiện hai vợ chồng bạn cần ngồi lại nói chuyện với nhau về cuộc hôn nhân của mình. Nếu nhẫn cưới bị hủy hoại thì có thể hai bạn sẽ đổ vỡ hôn nhân.  

8. Mơ thấy ở trong một căn phòng xa lạ: Bắt cá hai tay

  Giấc mơ này là lời cảnh báo đối với tình cảm hôn nhân của bạn, rất có thể đối phương đang có người khác, bạn nên xem lại tình cảm của hai người có thực sự vững chắc hay không.

Mời bạn đọc thêm: Mẹo phong thủy hôn nhân giúp chồng luôn chung thủy.
 

9. Mơ thấy bị người khác lừa gạt: Ngoại tình

  Bạn mơ thấy bị người khác lừa, vậy thì bạn cần cẩn thận bởi bạn đang trong u mê chẳng rõ điều chi, người ấy có thể đang say đắm trong cuộc tình ngoài hôn nhân mà bạn không hề hay biết.  

10. Mơ thấy người bị bệnh nan y: Hôn nhân có nguy cơ tan vỡ

truc trac trong chuyen chan goi
 
  Đây là giấc mơ báo hiệu bạn và người ấy đang có mâu thuẫn về tình cảm hay gặp trục trặc trong chuyện gối chăn. Nếu bạn không muốn đổ vỡ hôn nhân thì hãy tạo thêm cho cả hai nhiều cơ hội hơn để bồi đắp tình cảm, hàn gắn những rạn nứt đang có.    Thiên Thiên      6 giấc mơ báo hiệu tình yêu sắp đến Nhận dạng cô nàng thục nữ hay hổ báo trên giường qua giấc mơ Không thể bỏ qua 8 giấc mơ tiết lộ bí mật tương lai Giải mã giấc mơ: Mơ thấy nếp nhăn tiềm ẩn cả niềm vui và nỗi lo lắng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 giấc mơ mang theo điềm báo đổ vỡ hôn nhân

Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Có những lỗi phong thủy về tiền bạc tưởng chừng như rất nhỏ nhưng chúng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Ai cũng mong cầu cuộc sống giàu có, sung túc và cố gắng sống lương thiện để mong cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, đồng thời trong lúc đó, có nhiều việc tưởng như nhỏ nhặt như khi ăn cá, giặt đồ nhưng vì do sơ suất, không lưu tâm nên trở thành nguyên nhân chính khiến tiền bạc thất thoát, lộc tán, làm ăn bất lợi.   

Lật cá khiến tài vận xui xẻo 
 

Khi ăn cá, ăn hết một mặt của cá chúng ta thường có thói quen lật mặt bên kia của cá để ăn tiếp. Tuy nhiên, theo phong thủy điều này không mang lại may mắn. Đây được xem là lỗi phong thủy về tiền bạc thường gặp nhất. Do việc lật mặt cá trên bàn ăn tượng trưng cho điềm gở, chính vì thế khi ăn hết một bên cá, nên gỡ xương ra rồi ăn tiếp phần còn lại.     Đặc biệt, đối với những người đi xe hoặc người ở vùng biển, họ đặc biệt tránh hành động “lật” vì theo họ nếu như thế sẽ có điềm gở, lật xuồng, lật xe, lật tàu làm ảnh hưởng đến mạng sống của người đi biển, đi xe. Khi chiên cá họ cũng không lật con cá mà múc dầu/mỡ dội lên mặt trên con cá cho chín. 

Tham khảo thêm bài viết: Mẹo phong thủy nhà cửa để tiền bạc ào ạt chạy vào túi

Tai van sa sut vi thoi quen lat ca trong bua an hinh anh
 
 

Phá sản do lỗi phong thủy khi dùng máy giặt

  Khi giặt đồ nhớ ngoài lưu ý phong thủy về vị trí máy giặt, giữa cho máy giặt luôn sạch sẽ bạn còn phải lưu ý khi giặt đồ. Có nhiều người vì sơ suất nên khi thay đồ ra tiện tay vứt vào máy giặt mà không kiểm tra trong túi còn tiền hay không. Theo phong thủy, tiền bạc thuộc hành Kim, máy giặt thuộc hành Thủy, khi bạn quên tiền trong quần áo, dù là vài đồng tiền lẻ và bị máy giặt vò nát hoặc cho dù con nguyên thì điều này đồng nghĩa là mang tới vận xui, có thể phá hoại tài vận. Theo thời gian, vận may của bạn bị rửa sạch, “giặt” sạch trơn. Đây là nguyên nhân bạn thường xuyên đối mặt với việc bất ổn tiền bạc, dễ gặp họa, vận trình công danh suy thoái.

Đây là lỗi phong thủy về tiền bạc do sự cẩu thả của bạn, vì thế, đừng nghĩ đơn giản, bởi đó là sự đãng trí đáng chê trách. 

Tham khảo thêm: 6 cấm kị phong thủy dẫn tới phá sản không thể không phòng
 
Tai van sa sut vi thoi quen lat ca trong bua an hinh anh 2

Quên tiền trong quần áo vứt vào máy giặt là lỗi phong thủy về tiền bạc bạn cần lưu tâm

 

Cửa chính đối diện với cửa sổ  

  Theo phong thủy nhà ở, cửa chính không chỉ là nơi mọi người ra vào mà còn là con đường thông dẫn khí từ bên ngoài vào bên trong ngôi nhà. Khi cửa chính đối diện với cửa hậu hoặc cửa sổ ở cuối nhà, nhà bị tản khí, nguồn khí tốt không tụ lại trong nhà.
 
Điều này sẽ khiến luồng khí di chuyển nhanh và dễ mất đi. Khi cửa chính đối diện cửa sổ được xem là thế xuyên tâm sát, rất không tốt cho gia chủ và được xem là đại phá tài trong trường hợp xấu còn dẫn đến phá sản. 
 
Cửa chính của nhà để đón tài vận, may mắn, giàu có, vượng khí. Cửa chính là nơi tất cả mọi người trong nhà ra vào hàng ngày. Khi cửa chính ở vị trí tốt, thuận lợi, gió và không khí từ ngoài thổi vào cũng thuận và lành. Tuy nhiên, khi cửa chính đối diện cửa sổ nghĩa là những điều may mắn vừa đón vào sẽ ra đi thẳng theo cửa sổ. Vì thế, bạn sẽ không hiểu vì sao tiền của trong nhà cứ lần lượt đội nón ra đi, xui xẻo ập đến, công việc làm ăn gặp nhiều trở ngại, tài vận suy sụp.    Đây là lỗi phong thủy về tiền bạc rất đáng lưu tâm cho những ai chuẩn bị xây và sửa nhà. Do đó, khi thiết kế, bố trí cửa chính và cửa phòng trong nhà, tuyệt đối không để của chính và cửa sổ đối nhau hoặc nằm trên cùng một đường thẳng, tức bước vào cửa chính đã nhìn thấy cửa hậu hoặc cửa sổ ở cuối nhà.     Đặc biệt, nếu cửa sổ vừa nhiều lại vừa lớn, cát khí càng khó tụ, ảnh hưởng tới phong thủy ngôi nhà, vận mệnh những thành viên sống trong đó, tiền bạc cũng bị tổn hao dần.

Tham khảo thêm bài viết: Thoát nghèo không khó nhờ cải thiện những lỗi phong thủy thường gặp

Ha Na

Khó có thai, xem ngay phong thủy trong nhà Cách bày cây xanh ở ban công vượng tài vượng lộc, hóa sát bình an Hũ gạo đặt đúng chỗ, tài lộc đổ về nhà
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Tướng người phụ nữ vượng phu ích tử –

Đặc điểm của tướng vượng phu ích tử về mặt mạng vận là khi lập gia đình dù chỉ về nhiều lãnh vực, đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây: - Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đ
Tướng người phụ nữ vượng phu ích tử –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người phụ nữ vượng phu ích tử –

Chọn hướng nhà theo bát trạch –

Việc xác định hướng nhà là điều vô cùng vô cùng quan trọng trong phong thủy nhà ở. Tuy nhiên không ít người con hoang mang về định nghĩa hướng nhà là gì, cách xác định hướng nhà và hàng loạt các định nghĩa khác như hướng thiên y, phục vị, lục sát,… l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

à gì.

Mỗi một hướng ứng với 1 cung và 1 sao. Mỗi cung lại có một ý nghĩa tích cực, tiêu cực riêng. Bài sau đây giúp mọi người Chọn hướng nhà theo bát trạch.

Nội dung

  • 1 Chọn hướng nhà theo bát trạch
    • 1.1 Hướng nhà Thiên Y
    • 1.2 Hướng nhà Diên Niên
    • 1.3 Hướng nhà Phục Vị
    • 1.4 Hướng nhà Tuyệt mệnh
    • 1.5 Hướng nhà Ngũ quỷ
    • 1.6 Hướng nhà Lục sát
    • 1.7 Hướng nhà Họa hạ
    • 1.8 Hướng nhà Sinh Khí

Chọn hướng nhà theo bát trạch

Hướng nhà Thiên Y

Chọn được hướng nhà Thiên Y là vô cùng tốt, thuộc sao Cự môn, gia đình sẽ được bình an, sức khỏe dồi dào, trường thọ, vượng khí về tài lộc, tâm tính ổn định, thân tâm an lạc, ngủ ngon hơn, thường có quý nhân phù trợ và có nhiều đổi mới tích cực trong cuộc sống.

Không nên xây nhà vệ sinh, kho chứa có hướng Thiên Y sẽ không tốt cho gia chủ.

Hướng nhà Diên Niên

Chọn hướng nhà Diên niên: là sao tốt; thuộc sao Vũ Khúc. Chủ đạo của Diên niên là hòa thuận, công danh sự nghiệp và các mối quan hệ. Hướng diên niên sẽ giúp các mối quan hệ từ trong gia đình đến ngoài xã hội của gia chủ được khăng khít, hòa thuận, gặp nhiều người tốt, bớt kẻ ganh ghét thù địch. Vợ chồng hòa thuận, vui vẻ, trường thọ, con cái sum vầy.

Tránh xây khu vệ sinh hay phòng kho ở hướng này sẽ không tránh được cãi vã thị phi, nhà cửa bất yên.

Hướng nhà Phục Vị

Chọn hướng nhà Phục vị: là sao tốt; thuộc sao Tả Phù. Chủ đạo của Phục vị mang sức mạnh của tinh thần, và sự may mắn, dễ dàng đỗ đạt trong thi cử. Phục vị rất hợp để đặt hướng bà thờ vì đó là hướng bình yên, trấn tĩnh. Hướng nhà Phục vị giúp cho các mối lương duyên nam nữ được bền chắc, tình cảm gia đình gắn bó, mối quan hệ cha con khăng khít.

Tránh xây nhà vệ sinh, kho chứ hướng này sẽ khiến tâm tính của chủ nhà trở lên nóng nảy và bất yên.

Hướng nhà Tuyệt mệnh

Hướng nhà Tuyệt mệnh: rất xấu; thuộc sao Phá Quân phá sản, bệnh tật chết người, gia đình lục đục, không vẹn toàn. Cần tránh hướng nhà này, sẽ đem đến những điều phiền muộn, u sầu, buồn khổ không tốt đẹp cho gia chủ.

Hướng nhà Ngũ quỷ

Hướng nhà Ngũ quỷ: là sao xấu; thuộc sao Liêm Trinh, gia chủ dễ rơi vào tình trạng mất việc, mất của, mất nguồn thu. Trong gia đình, làng xóm hay xảy ra cãi lộn, đánh chửi nhau, tai tiếng thị phi. Những việc lôi thôi rắc rối cứ tự nhiên ở đâu ập đến và gây ra những phiền muộn không đáng có cho gia chủ.

Hướng nhà Lục sát

Hướng Lục sát: xấu; thuộc sao Lộc Tốn. Nhà mà có hướng Lục sát sẽ xảy ra những sáo trộn, lục đục đáng tiếc trong các mối quan hệ tình cảm, dễ xảy ra thù hận, kiên tụng, tai nạn. Tình duyên chắc trở, vợ chồng cãi nhau, sự nghiệp không thành. Nam giới thì lười nhác, không lo làm ăn, rượu chè; nữ giới thì tình duyên dang dở. Nếu nhà vệ sinh, khu kho chứa thuộc hướng này thì gia chủ yên tâm, sẽ không đem đến điều run rủi mà lại là những điều tốt đẹp.

Hướng nhà Họa hạ

Hướng Hoạ hại: xấu, thuộc sao Lộc Tốn, thất bại, không may mắn, thị phi. Hướng nhà rơi vào cung này thì gia đình chia rẽ, quan tai, mệt mỏi đôi khi chỉ là những việc vụn vặt, hay thưa kiện với người ngoài, thất tài, thất lộc. Nếu hướng khu vệ sinh, kho của bạn là Họa hại, thì bạn lại yên tâm, người trong nhà được yên ổn, hoà thuận, sức khoẻ tốt, không xảy ra những điều không hay.

Hướng nhà Sinh Khí

Hướng sinh khí: là sao tốt; thuộc sao Tham Lang. Hướng này là hướng thu hút tài lộc, danh tiếng, sự thăng tiến và phát tài trong sự nghiệp. Hướng sinh khi tốt hơn cho nam giới, chủ cung là vượng khí, tạo ra sức sống mạnh mẽ cho con người. Dễ sinh con trai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng nhà theo bát trạch –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd