Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tướng qua tai –

Tướng học đặt Tai vào bộ ngũ quan kêu bằng Thái Thính quan. Tai bên trái thuộc hành Kim, tai bên phải thuộc hành Mộc. Vì thuộc Kim nên có màu trắng sáng, vì thuộc Mộc nên cần cứng cáp. Tai cũng ở trong bộ Tứ độc ví như con sông. Vì là sông nên cần có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng học đặt Tai vào bộ ngũ quan kêu bằng Thái Thính quan.

Tai bên trái thuộc hành Kim, tai bên phải thuộc hành Mộc. Vì thuộc Kim nên có màu trắng sáng, vì thuộc Mộc nên cần cứng cáp. Tai cũng ở trong bộ Tứ độc ví như con sông. Vì là sông nên cần có bờ thành, luân quách, vành tai phải cho phân minh.

Xem tướng Tai đòi hỏi cả Hình lẫn Sắc.

Quan kỳ hình trạng nhan sắc
Kiến hồ hưu cữu vinh nhục

xem-tuong-tai

– Về hình trạng tai đầy đặn, áp vào đầu tượng trưng cho giàu có. Luân quách phân minh, ẩn cốt bên dưới, tai vuông lớn tượng trưng cho sang trọng. Nếu luân quách quăn, lộn, tai ngắn và nhọn, sứt lệch, thấp, tướng nghèo hèn.

Thuỳ châu triều hải
Tất diên toán nhi dư tài
.

– Thuỳ châu là dái tai, hướng hơi chếch về phía miệng là triều hải. Như trên đã nói, tai thuộc vận thiếu niên. Có tai đẹp chủ vận thiếu niên tốt. Tai dầy mập dễ giàu. Đa số nhà doanh thương cự phú đều có tướng thuỳ châu triều hải.

Uyển nguyệt quán luân
Chung triều vương nhi chấp ngọc 

-Vành tai vòng như vầng trăng, bẩm chất thông minh, học hành được. Người có vành tai uyển nguyệt thường gặp may mắn trong sự nghiệp quan quyền.

Kỳ bạc như chỉ hề bần bảo tử
Kỳ kiên như mộc hề lão bất khốc 

Nghĩa là: Tai mỏng như tờ giấy nghèo chết sớm
Tai cứng như gỗ ít gặp hoạ.
Tai mỏng bởi tại tiên thiên bất túc, báo hiệu hoàn cảnh về sau khốn cùng.
Tai cứng nhờ cái xương đằng sau tai tốt chứng tỏ khí lực tiên thiên khoẻ mạnh và để lúc già nua không mất sức, ốm đau bệnh tật.

Lão bất khốc là nghĩa đó.
Tai trắng hơn mặt danh vang thiên hạ. 

Nhà văn Âu Dương Tu thường kể, thuở nhỏ có nhà sư xem tướng cho ông nói: “Nhĩ bạch ư diện danh mãn thiên hạ”.
Tai sáng tinh khiết, con người chân thực trung kiên.
Danh thần Ngụy Trưng đời Đường Thái Tôn, tuy diện mạo tầm thường, duy chỉ có hai tai trắng tinh khiết. Ông được vua Đường Thái Tôn nể nhất chỉ vì ông dám chính trực can ngăn vua.

  • Tai không cứ to nhỏ. Điều quan hệ là dày dặn, cứng cáp, có vành tai trong, vành tai ngoài (luân quách) đẹp đẽ, có thuỳ châu (dái tai).
  • Tai to mà không luân quách, thuỳ châu, càng to càng vô giá trị.
  • Danh từ trư nhĩ không có nghĩa hình thù nó giống hệt tai heo đâu, trên đời chẳng ai mang cái tai như thế. Trư nhĩ là chỉ đôi tai to lớn nhưng vô luân quách, thuỳ châu.
  • Tướng trư nhĩ rất lười và ngu, lại tham tiền, tham sắc, thích rượu thịt.
  • Còn tai chuột (thử nhĩ) thì hình thù nhọn mỏng cũng vô luân quách là tướng chỉ biết thủ lợi cho riêng mình, ưa làm hại cho người khác. Tướng của bọn ăn cắp, ăn trộm.
  • Người nào tai khỉ hết sức gian trá, quỉ quyệt. Tai khỉ hình thù ra sao? Nếu tai bên phải có nốt ruồi như thế, người hiếu đễ, tốt bụng. Tai bên trái, nơi vành tai trong hoặc chỗ khoan tai (giữa vành ngoài và vành trong) có nốt ruồi, người tài giỏi khả dĩ kinh bang tế thế.

Bạch Vân Tử nói: “Hàm quắt, tai nhọn ưa dùng quỉ kế” (Tiêm nhĩ, súc tư thiên ban quỷ kế).
Chọn bạn, định cộng tác làm việc chớ có gần kẻ tai khỉ.
Tai khỉ còn quỷ quyệt hơn những người tướng:

  • Lấy lưỡi liếm môi như rắn
  • Mắt ba góc
  • Mắt to mắt nhỏ
  • Mũi mỏ chim
  • Mũi đỏ lấm tấm
Bạc như hướng tiền, mãi tận điền viên.
Phản nhi đoả hậu cư vô thất ốc. 

Hai tai mỏng vểnh về đằng trước, sách tướng gọi là Chiêu phong nhĩ (tai đón gió) chủ phá bại. Nếu nó lại mỏng lệch thì bán sạch nhà cửa ruộng vườn.

Tướng bạt nhĩ lộn ra phía sau (đảo hậu), suốt đời không mua nổi cái nhà. Dù con nhà gia thế, nếu có hai loại tai đó rồi cũng thất cơ lỡ vận.

Hôn ám nan nghị hồ đăng đệ
Tiêu khô lữ thán kỳ không trục. 

Tai trông tối thui, triệu chứng của tinh thần suy nhược, tất nhiên học bất thành, không thể đỗ đạt.
Nếu tai vàng héo khô khốc, tính mạng sắp nguy.
Sách “Ma Y Thần Tướng” nói:
Nhĩ luân tiêu hắc, tử tại nhãn tiền (Vành tai khô đen, chết ở trước mắt).

Thọ việt mi hề quý phún huyết.
Thông minh nhuận hề, phú điếm nhục. 

Hình tai dài và lớn, bên trên cao hơn lông mày, bên dưới ngang với góc miệng là tướng thọ. Cả đời ít khi ốm đau dù gặp nghịch cảnh cũng chẳng bao giờ buồn phiền.

Hai tai ửng hồng như phun son đại quý cách. Hồng phải đi đôi với nhuận mơn mởn như cánh hoa hồng buổi sớm. Nếu đỏ mà lại khô thì là tên hung ác, đồ tể, côn đồ.

Tai màu ửng hồng minh nhuận biểu hiện tâm thần cường tráng. Nhĩ thông thường đi đôi với mục minh. Sách “Linh Sơn Bí quyết” có câu: “Nhĩ môn khoan đại nhuận trạch minh huỳnh châu viên quách hậu, tài trí siêu quần”(cửa tai rộng rãi, to, sắc trạch nhuận sáng, dái tai tròn vành tai dầy, tài giỏi hơn người).

Tai đầy áp sát vào đầu, đứng trước mặt không trông thấy tai, đại phú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua tai –

Xử Nữ - người tình đáng mơ ước

Tình yêu của Xử Nữ tận tâm, chu đáo và nhất mực chung thủy. Họ là những người tình đáng ngưỡng mộ.
Xử Nữ - người tình đáng mơ ước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Xu Nu - nguoi tinh dang mo uoc hinh anh
 
Mặc dù, không thể hiện bằng lời, nhưng tình yêu của Xử Nữ rất đắm say. Họ quan niệm rất rõ ràng, chú trọng tình cảm đi về chiều sâu, chọn người bạn đời theo tiêu chí: người đó thấy tầm quan trọng của Xử Nữ và cần có Xử Nữ trong cuộc đời.
 
Là chòm sao duy nhất do nữ đại diện, nên Xử Nữ đặc biệt thuần khiết và có khả năng khống chế bản thân. Nữ Xử Nữ không phụ tình, nam Xử Nữ không lấn lướt, họ ôn hòa và cẩn trọng trong tình cảm. Bề ngoài lạnh lùng nhưng bên trong Xử Nữ luôn khao khát được yêu thương, đương quan tâm và trở nên hạnh phúc.
 
Bởi khao khát mãnh liệt này mà họ luôn tìm kiếm không ngừng tình yêu đích thực của đời mình. Họ mong muốn tìm được người yêu hoàn hảo nhất, phù hợp nhất, có thể yêu thương và gắn bó trọn đời. Vì thế mà người cung Xử Nữ rất tỉ mỉ, thận trọng, thậm chí khắt khe trong quá trình xây dựng mối quan hệ.
 
Cho dù là những lời khen thành thực nhất, họ cũng sẽ tiếp thu một cách dè dặt nghi ngờ, và nếu không có những cử chỉ tràn đầy tình ý kèm theo thì họ sẽ không tin vào những lời khen này. Xử Nữ không vội vàng yêu đương hay kết hôn, họ duy trì tốt cuộc sống độc thân và chỉ chịu từ bỏ nó khi tìm được người xứng đáng.
 
Đây là một nguyên tắc tốt, tích cực, giúp Xử Nữ duy trì lối sống lành mạnh, yêu đương dựa trên tình cảm chân thành, không phóng túng, không dễ dãi, có thể tìm thấy đối tượng thực sự phù hợp. 
 
Mặt khác, đó cũng là nguyên nhân khiến nhiều Xử Nữ “ế”. Quá khó tính, xét nét và yêu cầu cao đến mức phi thực tế trong khi “ngọc còn có vết” huống chi là người. Hãy nhìn nhận về mọi người thoáng hơn, tích cực hơn, nhìn vào điểm tốt của người khác và nhận xét toàn diện Xử Nữ nhé. Tình yêu đôi khi không phải là khuôn mẫu, người hoàn hảo chưa chắc đã là người hợp với mình. Cho bản thân được sống thoải mái hơn và cho đối phương có cơ hội làm bạn hạnh phúc.  
► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất

Trần Hồng (Theo Horoscopecompatibility)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xử Nữ - người tình đáng mơ ước

7 sai lầm dễ mắc khiến âm khí nặng trong nhà

Ngôi nhà có âm khí nặng thì tinh thần, sức khỏe của người trong nhà cũng không thể tốt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều kiến thức phong thủy trong cuộc sống thường nhật mà chúng ta cần tìm hiểu để tránh mang đến những điều không may mắn. Trong ngôi nhà – nơi chúng ta đang ở càng cần chú ý đặc biệt đến âm khí, có những đồ dùng, vật dụng đang được đặt ở những vị trí không nên đặt mà chúng ta không hề hay biết. Điều đó dẫn đến âm khí càng ngày càng nặng và ảnh hưởng ít nhiều đến sự hưng thịnh của chính bản thân gia chủ. Đồ dùng, vật dụng hay chính ngôi nhà của bạn liệu đã đặt đúng vị trí?

1. Phòng ngủ đặt ở vị trí Ngũ Quỷ

Trong số những Thất tinh (5 ngôi sao) thì phòng ngủ của bạn lại được đặt đúng vị trí Ngũ Quỷ. Vị trí này cần chú ý vì là nơi phong thủy rối loạn, mang đến vận khí không tốt. Rất có thể bạn sẽ gặp phải những chuyện hoang đường, hay thậm chí là gặp những cơn ác mộng triền miên.

2. Nơi bạn đang sinh sống là nơi ẩm ướt, u ám, là nơi khiến bạn thường xuyên bị cảm lạnh, ho dai dẳng. Nếu đang ở một nơi như vậy thì bạn cần chú ý hơn, ám khí nơi này quá lớn.

3. Ở hướng Tây Nam nhà bạn có những ngôi nhà cao tầng hoặc những công trình kiến trúc có hình tròn, hình góc nhọn. Tà khí trong nhà sẽ rất nặng.

 7 sai lam de mac khien am khi nang trong nha - 2

4. Nhà rộng người ít, nhân khí không thắng âm khí. Thông thường diện tích bình quân trên đầu người phổ biến là 25m2/người. Diện tích này không nên quá lớn.

5. Cửa nhà, cửa sổ đối diện cây đại thụ, phần mộ, bị gương bát quái chiếu chính diện hoặc nhà gần sát bệnh viện, bãi rác hay tường nhà bị quấn đầy những cây leo chằng chịt… Những không gian này là những nơi âm khí nặng.

6. Trong nhà treo di ảnh của người đã mất quá lâu (từ nhiều đời trở về trước) cũng sẽ gây nên âm khí nặng cho ngôi nhà.

7. Trong phòng ngủ đặt bể cá cảnh, nuôi cá, không chỉ không khí ẩm ướt, âm khí nặng mà còn ảnh hưởng đến đường con cái.

 7 sai lam de mac khien am khi nang trong nha - 3
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 sai lầm dễ mắc khiến âm khí nặng trong nhà

Người tuổi Mão thờ Phật nào?

Người tuổi Mão thờ Phật nào? Vị thần hộ mệnh, bảo vệ và che chở cho người tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát.
Người tuổi Mão thờ Phật nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Mão nên thờ Phật nào? Vị thần hộ mệnh, bảo vệ và che chở cho người tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát.    Mỗi con giáo đều có một bản mệnh Phật, một vị thủ hộ thần ở bên soi đường chỉ lối, dẫn dắt và khai thông, đồng thời hộ thân, tăng phúc tăng may. Vị Phật nào độ mệnh cho người tuổi Mão  

1. Bản mệnh Phật của người tuổi Mão

 

Nguoi tuoi Mao tho Phat nao
 
Văn Thù Bồ Tát là thủ hộ thần của tuổi Mão. Người này tính tình hiền dịu, không thích tranh luận với người khác, nhân duyên rất tốt. Nhưng có lúc quá ỷ lại vào những người xung quanh, thời điểm cần đưa ra phán đoán thì lại do dự, gặp sự cố cũng không dám đưa ra quyết sách.    Văn Thù Bồ Tát tượng trưng cho trí tuệ, mang theo bản mệnh Phật bên mình sẽ trợ giúp người tuổi Mão bổ sung khiếm khuyết trong cá tính, mở lối thành công, đối với nhân duyên lại càng chiếm ưu thế. Thời điểm mấu chốt muốn học được cách suy nghĩ độc lập, có quyết đoán và có sự tỉnh táo thì đừng quên thỉnh vật phẩm phong thủy cát tường này về.   Người tuổi Mão sinh năm: 1951, 1963, 1975, 1987, 1999, 2011 đều có thể thỉnh bản mệnh Phật Văn Thù Bồ Tát về dùng. Năm 2017 con giáp này xung Thái Tuế, không tốt chính là họa. Đeo bản mệnh Phật vừa vặn có thể hóa giải ưu phiền do Thái Tuế gây ra.  

2. Tác dụng của bản mệnh Phật trong năm 2017

  Nhìn chung vận trình của người tuổi Mão trong năm 2017 không như ý do xung Thái Tuế, tất cả các phương diện đều nên hết sức thận trọng.   Người tuổi Mão chịu ảnh hưởng của Thái Tuế nên sự nghiệp thường có cảm giác lực bất tòng tâm, làm việc lơ đãng, hoài nghi năng lực của bản thân, tạo thành áp lực quá lớn.    Phương diện tình cảm tốt hơn, người độc thân có hi vọng gặp được người mình thích, tỏ ra hài lòng. Người đã kết hôn thì gia đình hòa thuận, vợ chồng ngọt ngào.   Năm 2017 sức khỏe của con giáp này có một số hung hiểm, đặc biệt đề phòng tay chân và hệ thần kinh có bệnh tật. Ra ngoài phải chú ý xe cộ, không nên phóng nhanh vượt ẩu, vội vội vàng vàng mà dễ sinh tai nạn.   Những điềm chưa tốt trong vận trình của người tuổi Mão có thể được hóa giải, cải thiện bằng cách sử dụng bản mệnh Phật Văn Thù Bồ Tát. Một mặt nâng cấp vận trình, mặt khác cầu bình an may mắn tốt lành, giảm bớt khó khăn hung hiểm.  

3. Những lưu ý khi đeo bản mệnh Phật


Vi Phat nao do menh cho nguoi tuoi Mao
 
Khi thỉnh bản mệnh Phật về sử dụng, nhất định phải khai quang điểm nhãn để phát huy linh lực, khai mở linh tính của vật phẩm phong thủy, từ đó gia trì cho chủ nhân. Đeo Văn Thù Bồ Tát bên mình cần một lòng hướng thiện thì Bồ Tát mới cảm ứng, phúc báo mới có mà hưởng.   Chắc chắn không có thần phật nào phù hộ kẻ gian ác, người vô nhân tính, người làm việc xấu. nếu có lỗi lầm mà cải tà quy chính thì bất cứ lúc nào cũng không muộn. Vì thế nếu đã thỉnh bản mệnh Phật bên mình thì tuyệt đối không nghĩ xấu xa, không làm điều ác, chỉ hướng tới những điều tốt đẹp, chân thiện mỹ mà thôi.   Trong quá trình sử dụng bản mệnh Phật nếu không may làm mất hoặc gãy vỡ thì cũng không nên quá hoảng hốt, lo lắng. Văn Thù Bồ Tát là vị thủ hộ thần đi theo suốt đời bảo vệ cho người tuổi Mão nên chỉ cần thành tâm thỉnh một vật khác về dùng là được.   Tuy nhiên, cần lưu ý bảo quản thật tốt cho bản mệnh Phật bởi đeo càng lâu linh lực càng lớn, độ ứng nghiệm càng cao, có thể mangt ới sức mạnh gia trì cực kì tốt cho chủ nhân. Hạn chế tối đa trường hợp hỏng hóc mất mát là tốt nhất.
Xem thêm bài viết 7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an
 
Tuổi Mão thờ Phật nào? Bản mệnh Phật của người tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát, nắm giữ năng lực đặc thù, ở thời điểm mấu chốt sẽ phát huy tiềm lực, ngoại trừ giúp con giáp này giảm bớt tai ương hung hiểm do phạm Thái Tuế ra thì còn có thể tăng cường vận thế, hiệp trợ sự nghiệp, phấn đấu thành công.    Bất kể là cá tính có khuyết điểm, trong cuộc sống còn nhiều trắc trở nhưng với năng lực tương thông của bản mệnh Phật Văn Thù Bồ Tát cùng cầm tình nhất định có tiến triển, ái tình viên mãn, sự nghiệp hanh thông, sức khỏe bình an, đạt nhiều thành tựu.  
Chọn bản mệnh Phật tăng cường phong thủy trong xe ô tô cho người tuổi Mùi Những cấm kị cần biết khi đeo bản mệnh Phật Đại Nhật Như Lai Những lưu ý cần biết khi đeo bản mệnh Phật Bất Động Bồ Tát

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mão thờ Phật nào?

Thay đổi phong thủy giúp nhà mùa đông ấm áp

Chỉ cần một vài thay đổi nhỏ về phong thủy, tổ ấm của bạn sẽ thực sự trở thành chốn nghỉ ngơi, thư giãn thoải mái trong mùa đông lạnh lẽo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thông thường vào mùa đông, nếu không biết cách sắp xếp hợp lý hay che chắn cẩn thận, luồng không khí lạnh ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của thành viên trong gia đình, nhất là với người già và trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai.

Ngoài ra, không khí lạnh buốt của mùa đông khiến sự trao đổi các luồng khí trong ngôi nhà bị ảnh hưởng. Không còn tia nắng ấm, các phòng ngủ, phòng tắm, nhà bếp… luôn trong tình trạng có mùi khó chịu, là điều kiện lý tưởng để vi khuẩn dễ dàng xâm nhập và gây bệnh nhất là cơ quan hô hấp, da dẻ bị khô, nứt nẻ…



Một vài bí quyết dưới đây sẽ giúp bạn lọc sạch không khí ngay chính tổ ấm nhỏ trong mùa đông này:

- Đầu tiên, hãy thay các bóng sáng trắng trong ngôi nhà, đặc biệt là phòng khách, phòng ngủ bằng ánh sáng đỏ hay vàng để tăng cảm giác ấm cúng và gần gũi.

- Hãy thay ga gối của mùa hè, với những gam màu dịu mát bằng các tông màu ấm nóng như đỏ, cam, vàng, nâu đất…

- Sắp xếp lại cách bố trí các vật dụng, tăng cường sử dụng nến hay các loại hoa đặc trưng mùa đông cũng là cách làm mới, khiến không gian ngôi nhà bớt lạnh lẽo hơn.



- Hãy mua thêm cây xanh hay những chậu cây, chậu hoa nhỏ đặt trong phòng khách, nhà vệ sinh, thậm chí là phòng ngủ để giúp làm sạch không khí. Những cây có tán lá to, nhiều lông tơ trên là còn giúp bắt, hút bụi và các chất có hại khác.

- Mùa đông, bạn cần đặt trên tủ sách hay trong tủ quần áo một túi than hoạt tính để giúp hấp thụ khí carbon monoxide và formaldehyde trong không khí. Ngay cả trong phòng trẻ em , nhà bếp, nhà vệ sinh… nếu có mùi lạ hay quá nhiều bụi, bạn cũng có thể đặt một ít than hoạt tính ở góc phòng. Nhưng hãy nhớ đặt ở nơi kín đáo, che khuất tầm với của trẻ và nên được tư vấn kỹ cách sử dụng trước khi dùng.



- Còn bên cạnh tivi, màn hình vi tính, các thiết bị điện tử… hãy đặt chậu xương rồng hay chậu lô hội nhỏ để giảm thiểu tác hại của bức xạ điện từ. Các chậu cây này sẽ hấp thụ carbon dioxide vào ban đêm, ức chế vi khuẩn rất tốt.

(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi phong thủy giúp nhà mùa đông ấm áp

Khổng Tử răn 5 điều có sức mạnh lấn át phong thủy

Phong thủy nhà đẹp thì người trong nhà hưởng phúc là suy nghĩ của hầu hết tất cả mọi người. Nhưng, theo Khổng Tử, có 5 điều mạnh hơn phong thủy, làm sai thì lụn bại mà làm tốt thì thịnh hưng.
Khổng Tử răn 5 điều có sức mạnh lấn át phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Làm điều ác, thu lợi từ việc hãm hại người khác là điều gây họa mà phong thủy tốt cũng không tránh được. Khổng Tử răn rằng, hôm nay hại người ắt mai người sẽ hại lại, bằng không, của bất chính không bền lâu, người bất nhân không hưởng thọ.

2. Không chăm lo, hiếu kính đúng mực với người lớn tuổi. Trưởng bối là cội rễ, lưu truyền gia phong, nếp nhà. Nhà không có cội như cây không có rễ, sớm ngày tàn lụi.

3. Suy rộng ra, một quốc gia là một gia đình lớn, quốc gia mà kẻ vô đạo lên nắm quyền, người gian ác được trọng dụng hơn hiền tài thì ắt đi vào diệt vong. Trí tuệ và đức độ là điều mạnh hơn phong thủy. Mỗi quốc gia đều lựa chọn kinh đô hoặc những công trình kiến trúc bề thế ở vị trí đắc địa, đẹp về phong thủy. Nhưng phong thủy tốt mà chính quyền không tốt, thì không thể phát triển hưng thịnh.

4. Văn hóa dân tộc là nền móng quốc gia. Văn hóa vững thì quốc gia mạnh, văn hóa yếu thì quốc gia suy đồi. Người già biết làm gương, con trẻ biết học hỏi, ấy là phúc phần mà không phong thủy nào có thể mang lại. Nhược bằng ngược lại thì phong thủy hay cũng chẳng để làm gì.

5. Lời răn về phong thủy của Khổng Tử còn mở rộng ra, mỗi quốc gia như một gia đình trong thế giới rộng lớn. Người có đạo đức, trí tuệ và tâm huyết bị thay thế bởi những kể tham lam, vô độ, tàn bạo trong những vị trí chủ chốt, thì thế giới đi vào con đường lầm lạc. Thế giới lầm lạc thì quốc gia chịu ảnh hưởng, gia đình chịu họa lây.

Vì thế, phúc phận, điều hay tốt của một gia đình, một quốc gia, cả thế giới không gói gọn trong phong thủy, hướng nhà, cuộc đất mà là đức nghiệp được gây dựng sâu xa. Như câu “đức năng thắng số” là vậy. Người đức độ, kẻ hiền lương, thì địa thế xấu đến đâu cũng ắt thành đại nghiệp.   Theo Qtcs

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khổng Tử răn 5 điều có sức mạnh lấn át phong thủy

Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao ?

Ngoại trừ chế độ mẫu hệ, còn như trong chế độ phụ hệ người đàn bà chẳng mấy khi có chồng cả, chồng lẽ; ngược lại đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường, càng quyền quí cao sang càng lắm vợ: Minh Mạng có 142 con, "Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dựng" (trong một đêm ngủ với năm bà thì ba bà có thai) còn bao nhiêu vợ thì không thể thống kê được. Nguyễn Công Trứ 73 tuổi, lấy vợ lẽ thứ 10, đêm tân hôn cảm tác:
Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam"

(Dịch nghĩa: Nàng muốn hỏi anh: chàng mấy tuổi - Năm mươi năm trước mới hăm ba)
Đạo Thiên chúa chỉ cho phép con chiên một vợ một chồng.
Thông thường vợ cả lấy trước, vợ lẽ lấy sau. Nhưng có trường hợp người con trai làm ăn xa nhà, tự ý lấy vợ, chưa được cha mẹ và họ hàng chấp nhận, ở quê nhà cha mẹ đã dạm hỏi sẵn cho một cô vợ khác bắt về cưới. Người vợ do cha mẹ cưới hỏi, dẫu rằng lấy sau vẫn là vợ cả. Người vợ tự ý chọn, nếu sau này được cha mẹ chấp thuận, mặc dù con gái con trai đều đã lớn, vẫn phải chịu phận làm em. Con vợ bé dẫu nhiều tuổi hơn vẫn phải chào đứa con bà cả đang ăm ngửa bằng anh bằng chị.
Trường hợp vợ cả chết sớm, không có con trai thì con trai vợ kế đẻ sau vẫn là trưởng nam, là đích tôn thừa trọng chứ con trai vợ lẽ vì phận thiếp không môn đăng hộ đối , không phải do ông bà trực tiếp cưới hỏi nên không đủ quyền kế vị.
Muốn cho gia đình êm thấm, người chồng phải khéo đối xử để vợ cả đi hỏi vợ lẽ cho chồng, thì người vợ lẽ và bố mẹ cô ta mới yên tâm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao ?

Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Theo các chuyên gia về giải mã giấc mơ họ luôn quan niệm rằng giấc mơ là nơi chứa đựng những cảm xúc rất đặc biệt, những cảm xúc này không có gì có thể ngăn cản được. Trung bình mỗi đêm có ít nhất một giấc mơ diễn ra trong bạn. Đặc biệt một só giấc m
Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ trong Tử Vi

Một đoạn trích rất hay từ cuốn Tử Vi Khảo Luận của Hoàng Thường, Hàm Chương diễn giải các khái niệm Tử Vi. Mời bạn đọc tham khảo!
Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết chép lại từ cuốn Tử Vi Khảo Luận của hai tác giả Hoàng Thường và Hàm Chương

Khoa tử vi phương Ðông dựa trên tư tưởng cổ đại từ thời Tống Nho bên Trung hoa. Theo tư tưởng đó, trời đất lúc đầu là Thái Cực chỉ có một khí, sau khi chia làm hai khí âm và khí dương.

Ân dương biến hóa sinh ra vạn vật.

Vạn vật nằm trong mối liên hệ tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau vô cùng mật thiết, biến dịch không ngừng, chuyển hóa lẫn nhau theo những chu kỳ nhất định.

Vạn vật (Thiên Ðịa Nhân) do năm chất cơ bản tạo thành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Năm chất này được gọi là Ngũ Hành tác động qua lại với nhau có khi hỗ trợ, tạo dựng cho nhau thì gọi là tương sinh, có khi triệt tiêu nhau gọi là tương khắc. Con người là một thành phần trong vạn vật. Trong quá trình sinh thành và phát triển của mình, con người chịu sự tác động từng giờ từng phút của mọi yếu tốt khác nhau và chính mình cũng tác động trở lại yếu tố đó. Mối liên hệ mật thiết này nẩy sinh từ lúc thụ thai trong bụng mẹ vì thế phương Ðông người ta thường cộng thêm một buổi vào năm sinh và ta quen gọi là tuổi ta, tuổi mụ.

Ðạo sĩ Trần Ðoàn, tôn danh là Hi Di sống thời mạt Ðường, tiền Tống bên Trung Hoa, đã theo tư tưởng Triết học cổ đại (kinh Dịch) soạn ra khoa Tử vi. Tiên sinh dùng các sao để nhân cách hóa các hoàn cảnh cuộc sống để đoán vận mệnh con người. Truyền thuyết nói rằng ông thọ 118 tuổi, không vợ không con, chỉ tu tiên học đạo trên núi Hi Di và rất giỏi môn toán học.

Khi soạn cuốn Tử vi khảo luận này, vì cần có cảm thông triệt để giữa người đọc và người viết, chúng tôi dành phần đầu để giải nghĩa ngắn gọn các danh từ thường dùng vì danh có chính thì ngôn mới thuận.

Mở bất cứ cuốn Tử vi nào cũng thấy nói ngay đến những từ như Cục, Mệnh, Thân, Hành, rồi lại Can, Chi, tới Âm Dương sinh, khắc mà không kèm lời định nghĩa các danh từ khó hiểu.

Thí dụ câu sau đây: “Mệnh của đương số khắc với cục nên sinh ra bế tắc

Phải hiểu Mệnh là gì Cục là gì. Tại sao hai số này khắc lại gây ra sự bế tắc cho đương số? Chừng nào chưa có sự thấu đáo về định nghĩa các từ thì không có sự cảm thông giữa người viết và quý bạn.

1. Ðịnh nghĩa

Tử vi là khoa đẩu số Ðông phương dùng vào việc dự đoán số mệnh con người dựa trên nguyên lý âm dương, ngũ hành.

Thoát thai từ Kinh Dịch, tổ sư Trần Ðoàn biến các số lượng âm dương của các hào quẻ thành các sao tượng trưng tính chất thăng giáng tốt xấu, các cách cư xử đúng sai của đương số trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Những người nghiên cứu Tử vi thường đa số đứng tuổi, có một học thức trên mức canh bản và cũng rất thận trọng trước khi bước vào con đường khó khăn nhưng cũng nhiều hứng thú này.

Lý đoán số mệnh có thể dựa trên những dữ kiện cố định hay tình cờ, có thể bằng trực giác hay luận giải. Khoa Tử vi, một khoa học thực dụng để lý đoán số mệnh, được gọi là chính xác nhất vì đã dựa vào các dữ kiện thời gian tức năm, tháng, ngày, giờ sinh.

Các dữ kiện này ngoài việc những yếu tố cần và đủ để thiết lập lá số, còn làm nổi bật tính cách đặc thù của mỗi cá nhân, trình bày được những bản năng tiềm ẩn của từng người và dự đoán được vòng thịnh suy của cuộc đời họ nữa.

2. Lá số

Là một tài liệu ghi chép các dữ liệu năm, tháng, ngày, giờ sinh cùng tên họ đương số. Trên lá số có an các sao dùng để lý đoán số mệnh.

Lá số có hai phần:

  1. Ðịa bàn tức 12 cung xung quanh.
  2. Thiên bàn tức cung lớn ở giữa.

Trên Thiên bàn và Ðịa bàn ngoài các sao còn ghi Can Chi và Ngũ hành.

Ông thầy đoán số Tử vi coi tổng quát lá số, lý giải lá số và chỉ rõ cho người xem số những hoàn cảnh, những vận hạn và nhân đó chỉ cho người này xử trí các biến cố. Gọi là xử trí chứ không chỉ được cách tránh các biến cố, chỉ đối xử sao cho các biến cố không tác hại quá đến đương số. Sau đó mỗi khi gặp những trường hợp khó xử, người xem lại tới hỏi thầy cách xử trí trong hoàn cảnh mới. Xem như vậy, lá số là một nhịp cầu liên lạc giữa thầy đoán số và người xem số, cũng như giữa Bác sĩ và bệnh nhân vậy.

3. Năm, tháng, ngày, giờ sinh

Ðược tính theo âm lịch. Nếu không biết tính ngày giờ Âm lịch thì dựa vào cuốn lịch Thế kỷ hay theo các đĩa vi tính an sao làm để sẵn để chuyển đổi tử dương lịch sang âm lịch.

Thí dụ năm 1957 dương lịch là năm Ðinh Dậu của âm lịch.

Năm 1968 là năm Mậu Thân, năm 1975 là năm Ất mão âm lịch, năm 2003 là năm Quí Mùi.

4. Các sao

Còn gọi là Tinh, là Diệu, là Ðẩu. Thi dụ: Cung vô chính diệu là cung không có chính tinh, Nam đẩu tinh, Bắc đẩu tinh là các sao phương Nam và phương Bắc. Các sao này không phải là sao trên trời mà là các danh xưng nói lên các ý nghĩa về phúc, họa, giầu, nghèo, sang, hèn, và các hoàn cảnh con người kinh qua trong suốt cuộc đời.

Trong Hệ từ truyện (Kinh Dịch), khi bàn về Thiên văn, có viết rằng: “Quan hồ thiên văn dĩ sát thời biến” (ngắn tượng trời đất để xét sự thay đổi thời tiết).

Theo Nghệ Văn Chí thì khoa Thiên văn thời cổ dùng để xếp đặt thứ tự của 28 ngôi sao (thực ra là 28 chòm sao) trên bầu trời, đặt mối liên hệ về vị trí của chúng trên đường Hoàng đạo tương ứng với sự thay đổi khí hậu, qua đó suy ra tính cát hung của các sao. Căn cứ vào đó các vua chúa ngày xưa điều khiển chính sự.

Các chòm sao trên được chia theo bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc theo Hà đồ và Âm Dương:

  • Các chòm 1-6 ở phương Bắc, thuộc Thủy màu đen là chòm Nguyên vũ.
  • Các chòm 2-7 ở phương Nam, thuộc Hỏa màu đỏ là chòm Chu tước.
  • Các chòm 3-8 ở phương Ðông, thuộc Mộc màu xanh là chòm Thanh long.
  • Các chòm 4-9 ở phương Tây, thuộc Kim, màu trắng là chòm Bạch hổ.
  • Ở trung tâm là các chòm số 5-10 thuộc Thổ màu vàng.

Như thế, việc xem Thiên văn lúc đầu là coi sự di chuyển của các tinh đẩu để đoán vận nước tốt xấu giúp cho các vua chúa trị nước an dân chứ không dùng vào bốc phệ cũng như dự đoán tương lai các cá nhân.

Số sao Trần Ðoàn tiên sinh dùng trong khoa Tử vi lại có khoảng 128 vị (2 lần 64 quẻ Dịch) để an trong các lá số nhưng chỉ có 110 sao là thông dụng thôi. Các sao Trần Ðoàn dùng chỉ có tính cách tượng trưng không phải là các sao ta thấy trên bầu trời hàng đêm.

Cách phân loại các sao cũng khác nhau, nhưng đại thể thì chia ra chính tinh, trung tinh, phụ tinh, phúc tinh, hung tinh, sát tinh, tài tinh. Gọi cách nào cho tới nay thì tùy theo ý thích của từng người.

Ta chưa có bản danh từ thống nhất về khoa Tử vi.

Thí dụ một cách gọi: Tử vi là chính tinh, Tả, Hữu là trợ tinh, Không Kiếp là sát tinh, Thiên Ðồng là phúc tinh, Thiên Khôi là quí tinh.

5. Tuổi âm lịch và Can Chi

Tuổi âm lịch được thành lập bằng hai yếu tố: Can và Chi.

Can nghĩa là gốc, tức là những gì trời cho ta khi ta chào đời, những gì đã được định sẵn không thêm không bớt, hay thì ta được nhờ, dở thì ta phải chịu.

Chi nghĩa là cành, tức là vùng đất ta rơi vào khi sinh ra, vùng đất có hoa màu nuôi nấng ta, vùng đất sau này ta có thể canh tác để nuôi thân, nghĩa là bản thân ta có thể sửa sang lại để cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

Muốn có tuổi âm lịch, ta ghép một can với một chi như: Giáp Tí, Giáp là can và Tí là chi; Ất là can và Sửu là chi.

6. Âm Dương

Âm dương là hai cực mâu thuẫn, đấu tranh, tương phản nhau, nhưng lại nương tựa vào nhau. Không có gì hoàn toàn Dương hay hoàn toàn Âm. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm đẩy Âm, Dương đẩy Dương, Âm hấy dẫn Dương, Dương thu hút Âm.

Dương giáng, Âm thăng, những gì Dương thì dáng xuống, những gì Âm thì thăng lên. Qui luật Dương giáng Âm thăng có ý nghĩa to lớn trong triết lý cuộc sống. Âm thịnh thì Dương suy, Dương thịnh thì Âm suy. Khi Âm tiêu tán thì Dương xuất hiện, lúc Dương đạt cực thịnh thì Âm sinh ra.

Nói tóm lại, Âm Dương là khái niệm về hai cái đối nghịch trên thế gian và cuộc sống ngày như ngày và đêm, nóng và lạnh, cao và thấp, vui và buồn, mạnh và yếu, thịnh và suy, phúc và họa. Âm dương luôn luôn cọ sát, đun đẩy, chờ đợi nhau để sinh ra sự sống, như hình ảnh cái bễ lò rèn, ống bễ trên này ép xuống thì ống bễ bên kia đẩy lên, lên xuống liên tục tạo ra sức thổi làm than cháy đỏ. Phúc họa nằm sẵn trong nhau, mạnh yếu chỉ là tương đối, thịnh suy chỉ là giai đoạn… tất cả chỉ xoay quanh nhịp biến đổi tuần hoàn của Âm Dương mà thôi.

Trong 12 cung của một lá số thì các cung Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là cung dương, các cung Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là cung âm.

Âm dương được gọi là thuận lý:

- Khi người dương nam hay dương nữ có Mệnh đóng tại cung dương, khi người âm nam hay âm nữ có Mệnh đóng tại cung âm.

Thí dụ: Người nam tuổi Giáp Thân (Giáp dương), Mệnh đóng tại cung Tí (dương)

Người nữ tuổi Ất Sửu, Ất (âm), Mệnh đóng tại cung Mão (âm)

Tuy nhiên nếu người nam, Mệnh đóng tại cung dương mà có tuổi âm thì vẫn nghịch lý, cũng vậy, nếu người nữ Mệnh đóng tại cung âm mà có tuổi dương cũng là nghịch lý.

7.Ngũ hành

Khái niệm Ngũ Hành có sau khái niệm Âm Dương.

Con người thời bán khai phải vật lộn với thiên nhiên để giành sự sống nên đã tìm nên cái nguyên lý căn bản cấu tạo nên sự vật để tìm cách thống trị thiên nhiên.

Họ tin rằng năm yếu tố chính tạo nên sự vật là: Kim (sắt), Mộc (gỗ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất) và đặt tên là Ngũ hành.

Mỗi cung của địa bàn có một hành.

  • Các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: hành Thổ.
  • Các cung Thân, Dậu: hành Kim.
  • Các cung Dần, Mão: hành Thủy.
  • Các cung Tỵ, Ngọ: hành Hỏa.

Cung có hành riêng, Mệnh có hành riêng.

Tùy theo năm sinh ta tính được Mệnh thuộc hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, hay Thổ.

Ðể ngắn gọn ta gọi hành của Mệnh là Mệnh.

Cục cũng có hành của Cục. Khi nói hành của cục là ý nói cục thuộc hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ. Ðể ngắn gọn, ta gọi hành của Cục là Cục.

Ngũ hành có thể tương sinh như: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc…

Ngũ hành có thể tương khắc như: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Nếu ta coi ngũ hành như năm cánh sao của một ngôi sao, ta có thứ tự sau đây không thay đổi:

Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy, ta thấy rõ những hành nào liền nhau thì tương sinh, còn những hành nào cách nhau thì tương khắc.

8. Mệnh

Hay là số phận tức là những gì trời cho ta khi ta chào đời. Có thuyết nói Mệnh là Quả của cái

Nhân ta đã gieo từ nhiều kiếp trước.

Mệnh là vùng là vùng đất ta rơi vào lúc lọt lòng mẹ. Vùng đất này săn sóc ta, nuôi nấng ta, tốthay xấu, tùy theo những gì trời đã ban cho ta tượng trưng bởi các sao, đặc biệt là chính tinh.

9. Thân

Là cách ứng xử của ta trong cuộc đời để hưởng phú quí hay chịu thống khổ của kiếp nhân sinh.Thân là Ta, là hành động của ta trước cái số phận trời đã an bài.

Có người nói Mệnh ảnh hưởng con người từ nhỏ đến 30 tuổi còn ngoài 30 thì xem ở thân.Nói vậy không đúng hẳn vì ở con người, cái Mệnh phải luôn luôn đi đôi với cái Thân.

Mệnh suy Thân vượng hay Mệnh vượng Thân suy đều không tốt, phải có Thân Mệnh đều tốt thì mới đẹp cả về tinh thần và vật chất được. Nếu trong hai mà có một xấu thì cả hai cùng xấu.

10. Cục

Cục khác với Mệnh. Cục là môi trường xã hội ta sống từ buổi lọt lòng.Cục có hành của cục như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cục Kim mang số 4 gọi là Kim Tứ Cục, cục Mộc mang số 3, cục Hỏa mang số 6, cục Thủy mang số 2, cục Hỏa mang số 5. Theo quan niệm xưa, người ta canh cứ vào Ngũ hành để đặt tên Cục. Mỗi Cục chỉ là một con sốcủa Ngũ hành như ta thấy ở trên. Chúng tôi đồng ý với quan niệm này nhưng xin đưa ra một khái niệm mới căn cứ vào vị trí của sao Tử vi trong 12 cung mà ấn định Cục (hoàn cảnh xã hội) của từng người

Thí dụ: Tử vi cư Ngọ là vua ngồi trên ngai vàng. “Ðế cư đế vị”. Tử vi thuộc Thổ, cung Ngọ thuộc Hỏa; hỏa sinh Thổ, hoàn cảnh thuận lợi cho con người, xã hội ổn định, trên dưới nghiêm minh.

Một người có cách Tử vi cư Ngọ, dù Mệnh đóng ở bất cứ cung nào thì Cục vẫn là cách “Ðế cư đế vị”, nên người này sinh hoạt, giao dịch với những người quyền quí đàng hoàng. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong những phần sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ trong Tử Vi

Phi tinh huyền không Tiểu vận 2016, ảnh hưởng gì cho nhà bạn trong năm nay?

Trong Phong thủy, mỗi năm, 9 phi tinh tọa lạc trong 9 phương mang ý nghĩa đặc biệt với ngôi nhà và Vận trạch của gia chủ. Một số cát tinh mang lại vận may và một số khác (hung tinh)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Phong thủy, mỗi năm, 9 phi tinh tọa lạc trong 9 phương mang ý nghĩa đặc biệt với ngôi nhà và Vận trạch của gia chủ. Một số cát tinh mang lại vận may và một số khác (hung tinh) lại mang vận rủi vào từng phương vị, ảnh hưởng lớn tới vận cát, hung của gia chủ. Hãy đặc biệt quan tâm vào phòng ngủ, phòng khách, văn phòng, công ty, cửa hàng và hướng nhà của bạn nếu 1 trong 4 phương vị này có hung tinh bay tới.

Xưa kia, đường lên núi Yên Tử, lên đỉnh Phù Vân huyền thoại, chỉ có một cách duy nhất là theo đường đi bộ, len lỏi theo lối mòn vượt qua bạt ngàn cây cỏ, dưới tán rừng trúc, rừng thông. Còn bây giờ, du khách có thêm một sự lựa chọn: theo đường cáp treo hiện đại vượt quãng đường trên 1km để có thể ngắm cảnh núi rừng Yên Tử từ trên cao, sau đó lại tiếp tục đi bộ đến thăm các điểm khác trong khu vực thắng cảnh.

phong-thuy-2016

Nếu chúng ta biết cách khống chế và hóa giải thì tuyệt nhiên sẽ mang lại cho chúng ta những điều tốt đẹp. Vấn đề tin hay không tin thì cũng tùy vào mỗi người khi chiêm nghiệm vào nó. Vậy các bạn hãy thử xem trong năm nay tiểu vận phi tinh 2016 sẽ có những ảnh hưởng gì cho mỗi hướng trong ngôi nhà bạn.

Luận bàn về Sao tốt xấu trong Cửu tinh tinh bàn của Tiểu vận 2016 như sau:

1. Sao số 1 Nhất bạch ( Sao Tham lang): Thuộc về Thủy khí, năm nay sao này đóng tại hướng đông nam.

Là cát tinh, chủ về công danh, khoa bảng, học vấn, những chuyện vui vẻ, có hỷ sự như hôn nhân, xum họp, thành công trong mọi việc. Năm nay đến phía ĐÔNG NAM, gặp Tuế Lộc và Phúc Đức, nên nếu di chuyển, đi xa lập nghiệp, dời nhà về phương đó, hoặc ngủ, ngồi làm việc tại phía Đông Nam thì đều dễ đạt được nhiều thành công và may mắn về những phương diện đó. Tuy nhiên, vì có Phi Liêm, Bạch Hổ, Hoàng Phan, Tàm Thất, nên phương này kỵ khởi công, động thổ xây dựng, đập phá, tu tạo nhà cửa, khai phá, trồng trọt, chăn nuôi gia súc, côn trùng, vì dễ có tang chế, hoặc bị mất mùa, thu hoạch kém.

Riêng với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía ĐÔNG NAM (không tính hướng cửa) nếu trạch vận nhà có sinh, vượng khí của Hướng tinh tại đó (tức các Hướng tinh 8, 9, 1) thì phần lớn đều có hỷ sự về tài lộc, công việc, học hành... Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp cũng tương đối ổn định, hoặc nếu có mắc bệnh tật, tai họa, hao tốn tiền của... cũng dễ vượt qua, hay được người khác giúp đỡ. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 6 và 9 âm lịch.

Cách chấn: Hướng này nếu tăng tính hiệu quả thì trước nhà nên chuông gió 6 ống, Thẻ phép làm ăn may mắn, tỳ hưu đồng hoặc đặt bể cá sẽ tăng thủy vượng ở hướng này, ngoài ra còn bù khuyết cho mệnh thiếu thủy.

2. Sao số 2 Nhị hắc (Sao Cự môn): Thuộc về Thổ khí, năm nay sao này là sao chủ quản nắm quyền. Nó ngự tại trung ương, ngay trung tâm giữa nhà của tiểu cục hoặc đại cục.

Sao này chủ mang tới nhiều bệnh tật, bệnh hoạn, phát ra mầm bệnh, hung tinh, nên thường được gọi là sao Bệnh phù. Năm nay Nhị Hắc Bệnh Phù Tinh bay vào hướng trung tâm này, nên ảnh hưởng của nó đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, với nhà mà trung cung có những số 2, 5, 7, hay những cặp số 2 - 3, 2 - 5, 2 - 7, 7 - 9 thì cần đề phòng tai họa về trộm cắp hay xung đột, nóng nảy, bệnh hoạn. Chỗ Bệnh Phù Tinh nên hạn chế động thổ, nếu không tất là khiến Bệnh Phù Tinh càng thêm hung hãn mà khiến thương vong hoặc đi đến luật pháp.

Năm nay Cung Tinh không những không tương khắc mà lại đồng Thổ (Thổ-Thổ), Trung ương thuộc về Thổ và hai thổ nhập lại cho ra “Cặp đôi hoàn cảnh” cực xấu…vì chính giữa theo Hà đồ lạc thư, gốc của nó là số 5 là Sao Ngũ hoàng đại sát (Thổ Khí). Do vậy hết sức cẩn trọng tuyệt đối …khi muốn làm cái gì ở giữa nhà… Các bạn hết sức chú ý về sao Nhị hắc bệnh hoạn này. Vì năm nay nó đứng trung tâm, mà sao số 5 và sao số 2 thì thuộc về thổ khí. Coi chừng bị lạnh bụng, gây đau bụng bất thường.

Cách chấn: Hiệu quả nhất gồm có các pháp khí phong thủy như sau: Con gà hoặc con khỉ bằng đồng, có thể đặt 1 tấm thảm hình vòng tròn màu trắng và phía dưới có dán 11 hoặc 99 đồng tiền xu…đặt nay giữa nhà khu trung tâm. Nếu bị cản trở thì nên chính giữa đó thì chấn con gà hoặc con khỉ là được. Nếu giữa nhà, trên cao nhà bạn có vật chấn qua thì có thể treo chuông gió 6 ống hoặc 7 ống.

3. Sao số 3 Tam bích (Sao Lộc Tồn): Thuộc về Mộc khí, năm 2015 đóng tại Trung cung và năm nay thì không còn đóng tại trung cung nữa, mà phải nhường ngôi cho số 2 là sao Nhị Hắc, và gói “Hành trang” đi về phương Tây bắc mà làm “nhiệm vụ”

Sao này biểu hiện cho sự hung hăng, hiếu chiến, nên khi tới đâu cũng thường gây ra xung đột, tranh chấp, cãi vã, kiện tụng, mất mát tiền của. Năm nay đến TÂY BẮC gặp thêm Tang Môn, Lực Sĩ, nên đúng ra là 1 khu vực xấu. Nhưng nhờ gặp Âm quý Nhân, nên gặp hung hóa cát, biến nguy thành an, nên có thể làm được mọi việc, ngoại trừ chinh phạt, chém giết, tranh chấp, kiện tụng, ra tòa mà thôi.

Với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía TÂY BẮC (không tính hướng cửa) nếu trạch vận nhà có sinh, vượng khí của Hướng tinh tại đó (các Hướng tinh 8, 9) thì phần lớn đều được thăng tiến về tài lộc, công việc. Nếu có Hướng tinh 1 thì lại bị hao tốn tiền của. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì dù mắc bệnh tật, tai họa, hao tốn tiền của.. cũng dễ tai qua nạn khỏi, có quý nhân phù trợ. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 2, 8 và 11 âm lịch. Các tháng 1, 2, 10 và 11 cần đề phòng nóng nảy, cãi vã, tranh chấp, xung đột.

Cách chấn: Dùng con Ngựa hay rắn chấn trạch, có thể treo 9 đồng xu, thảm đỏ tại phương vị này. Nên dùng đèn led màu đỏ thắp sáng tại phương vị này mà hóa giải. Tuyệt đối trong trưng bày Nước, vật màu đen, con chuột hoặc con heo tại nơi này…

4. Sao số 4 Tứ Lục (Sao Văn Khúc): Thuộc về Mộc khí. Năm nay 2016 Sao này bay về hướng Tây. Gốc Sao này thuộc về văn khoa, văn chương.

Là sao Văn Khúc, chủ về văn chương, thi cử, học vấn, danh tiếng. Năm nay đến phía TÂY, gặp Tuế đức Hợp, Dương quý Nhân, Thái Dương, nên có thể nói là khu vực tốt nhất trong năm. Vì vậy nên di chuyển về phía đó cho mọi việc, từ học tập, thi cử, hay ngồi học, làm việc tại khu vực đó, hoặc đi xa làm ăn, sinh sống, lập nghiệp, cưới hỏi... đều dễ thành công, lại được quý nhân phù trợ. Đây cũng là khu vực nên tu sửa, động thổ, xây cất, hoạt động, vì đều sẽ gặp may mắn, thuận lợi.

Với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía TÂY (không tính hướng cửa), nếu trạch vận nhà có sinh, vượng khí của Hướng tinh tại đó (8, 9, 1) thì thường là tốt, và tài lộc sẽ ổn định, cũng như gặp nhiều may mắn về công danh, thi cử, học vấn, uy tín. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì dù mắc bệnh tật, tai họa, hao tốn tiền của..., nhưng vẫn được quý nhân giúp đỡ, phù trợ. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 3, 9 và 12 âm lịch. Tháng 4 tốt cho danh tiếng, thi cử, địa vị. Tháng 5 hao tiền nhiều (nếu là nhà đắc vượng khí).

Theo nghiên cứu của nhà phong thủy cho rằng Sao Tứ lục thuộc loại Sao quý hiếm… ứng về văn khoa… trên tất cả cuộc đời này ai cũng muốn học cho giỏi và thành đạt nên phải dụng thần Sao này.

Cách chấn: Không nên bố trí kim loại như đồng sắt nhôm quá nhiều tại phương vị này, vì hướng Tây thuộc về Kim do đó bị khắc Mộc. Sao này là Sao tốt nên phải pháp huy bằng cách tăng cường Thủy như sau: 1 chậu nước có sỏi, cá. Tăng cường dĩa ngọc thất tinh màu đen, 4 cây viết lông tàu, trồng cây phát tài, có thể dùng thảm màu xanh tăng cường mộc khí.

5. Sao số 5 Ngũ hoàng ( Sao đại sát): Thuộc về Thổ tinh rất Đại Hung tinh, năm nay Sao này bay về hướng Đông bắc. Sao này là Sao ai cũng phải mệt mỏi về nó…cực kỳ nguy hiểm.

Là sát khí độc hại nhất trong mọi niên tinh, năm nay đến phía ĐÔNG BẮC, gặp thêm TUẾ PHÁ, KIM THẦN, Tử Phù, Tiểu Hao, Tuế Hình, nên là khu vực xấu nhất trong năm. Vì vậy không nên di chuyển về phía ĐÔNG BẮC để sinh sống, lập nghiệp, kinh doanh, buôn bán, cưới hỏi, chữa bệnh, học tập, thi cử, nhậm chức, nhận việc. Cũng không thể xây dựng nhà cửa, động thổ, đập phá, tu tạo, chặt cây lớn, đào giếng ở phương này. Nếu có phòng ngủ, hay ngồi làm việc, học tập tại khu vực này thì nên dời đi nơi khác để tránh tai họa, từ trắc trở, thất bại trong công việc đến bệnh tật, chết chóc.

Riêng với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía ĐÔNG BẮC (không tính hướng cửa), nếu trạch vận nhà có vượng khí của Hướng tinh tại đó (số 8) thì vẫn không việc gì, mà tài lộc, cũng như công việc đều ổn định, tuy sức khỏe có hơi kém hơn những năm khác, cũng như dễ gặp trắc trở, khó khăn trong mọi công việc. Nếu nơi đó có sinh khí (các số 9, 1) thì cần đề phòng bệnh tật, đau ốm nhiều, nhất là những bệnh về tim, thận hay đường tiêu hóa. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì sẽ mắc nhiều bệnh tật, tai họa, thậm chí có thể chết người, phá sản, thất nghiệp. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 1, 4 và 10 âm lịch.
Đối với nhà có cửa thuộc các hướng khác, nhưng phía ĐÔNG BẮC có sao Ngũ Hoàng đến thì phải giữ cho nơi đó yên tĩnh, tuyệt đối không thể động thổ, tu sửa, chặt cây. Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang ... thì cũng nên dời đi nơi khác, hoặc ít xử dụng, đồng thời treo chuông gió, hay đặt kỳ lân bằng đồng... để hóa giải bớt sát khí đi.

Cách chấn: Làm một tấm bảng có quẻ Đoài đặt ngay phương này, dùng con giải hạn và 10 đồng tiền chấn ngay nơi đây. Dùng con Long Mã cho đạp đất nơi này để sinh cho kim thế là Thổ ngũ hoàng này sẽ suy kiệt từ từ, ngoài ra có thể chấn bằng con Tỳ hưu.

6. Sao số 6 Lục bạch (Sao Vũ khúc): Thuộc về Kim năm 2016 đóng tại hướng Nam. Cát tinh chủ về tài lộc…

Là cát tinh, chủ về danh chức, uy quyền, cũng như có dính dáng đến chính quyền, luật pháp. Năm nay đến phía NAM tuy gặp TAI SÁT (1 trong TAM SÁT), cộng thêm Độc Hỏa, Đại tướng Quân, Điếu Khách, Phục Binh, Đại Họa, nhưng nhờ gặp Tuế Đức, nên vẫn có thể di chuyển về phương đó để sinh sống, lập nghiệp, kinh doanh, buôn bán, cưới hỏi, chữa bệnh, học tập, thi cử, nhậm chức, nhận việc. Cũng như có thể xây dựng nhà cửa, động thổ, đập phá, tu tạo ở phương này. Nếu có phòng ngủ, hay ngồi làm việc, học tập tại đây cũng tốt. Chỉ riêng vấn đề xuất quân chinh phạt, chém giết mới cần tránh đi về phía NAM mà thôi.

Với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía NAM (không tính hướng cửa), nếu trạch vận nhà có vượng khí của Hướng tinh tại đó (số 8) thì tuy có nhiều việc phải chi tiêu, nhưng tài lộc vẫn ổn định, cũng như có hỷ sự về công danh, thi cử, học vấn. Nếu nơi đó có sinh khí số 9 thì vừa dễ hao tiền nhiều, lại mắc bệnh ở đầu, mặt, hoặc có chuyện dính dáng đến pháp luật. Nếu có sinh khí số 1 thì lại được tăng thu nhập, thăng lương, thăng chức, có danh tiếng tốt. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì dù sẽ mắc bệnh tật, tai họa, hao tốn tiền của, thương tích, tranh chấp, xung đột, nhưng vẫn qua khỏi được. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 2, 5 và 11 âm lịch. Tháng 9 âm lịch dễ có cãi vã, tranh chấp, xung đột.

Sao này rất tích ứng cho người Trung Nữ trong gia đình do vậy người Trung Nữ nên biết phát huy. Nếu ai ở hướng Nam trong năm nay có thể gặp điều may. Người nào mệnh thiếu kim hay thiếu thủy thì sẽ tốt hơn.

Cách chấn: Nên chiêu dụ bằng cách treo chuông gió 6 ống, Khối vuông đá thạch anh màu vàng có khắc thêm quẻ Càn trên khối đá này càng tốt. Chấn thêm tỳ hưu, long qui, dĩa ngọc thất tinh, con khỉ, con gà chấn trạch thì tuyệt vời….Chấn nhiều kim loại đồ đồng càng tốt….

huyen-khong-phi-tinh

7. Sao số 7 Thất xích (Sao Phá quân): Thuộc về Đoài (kim) năm 2016 đóng tại hướng Bắc.

Là tặc tinh, chủ côn đồ, trộm cướp, tiểu nhân quấy rối, rình rập, hãm hại. Nó đến đâu cũng chủ xung đột, chém giết, tù đày, mắc họa Đào hoa. Hơn nữa, Thất Xích là âm tinh, lại là Hỏa Tiên thiên, nên còn chủ nóng nảy, bực bội, dễ gây hỏa hoạn, hoặc những bệnh về tim mạch và khí huyết. Năm nay đến phía BẮC, gặp thêm KIM THẦN, Đại Sát, Quan Phù, nên là 1 khu vực xấu. Vì vậy cần tránh di chuyển về nơi đó để sinh sống, lập nghiệp, kinh doanh, thi cử, nhậm chức, nhận việc, cưới hỏi, vì dễ bị đau yếu, bệnh tật, thất bại, cũng như gặp tiểu nhân, trộm cướp. Đối với nhà cửa thì cần phải giữ cho yên tĩnh, tránh động thổ, đập phá, tu sửa, cũng như ngủ hay ngồi làm việc tại đó.

Với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía BẮC (không tính hướng cửa), nếu trạch vận nhà có vượng khí của Hướng tinh (số 8) tại đó thì tuy hay có chuyện nóng nảy, xung đột hơn, nhưng tài lộc vẫn ổn định hoặc tăng tiến. Nếu có sinh khí số 9 thì vừa hao tiền lớn, vừa bị nóng nảy, xung đột không yên, hoặc bệnh nặng về tim mạch, phổi, hoặc trong nhà có người mắc họa Đào Hoa. Nếu có sinh khí số 1 thì lại được người khác trợ giúp, tiền vào bất ngờ (tuy không nhiều), và có thể gặp tình duyên hay hạn Đào hoa. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì sẽ mắc nhiều bệnh tật, tai họa, hao tốn tiền của, tranh chấp, xung đột lớn, hỏa hoạn. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 3, 6 và 12 âm lịch. Những tháng nóng nảy, dễ bị xung đột, tranh chấp, tiểu nhân quấy phá hay trộm cướp, hoặc những bệnh về tim mạch là 1, 2, 5, 6, 8, 10 và 12 âm lịch. Nên sơn cửa, hay đặt thảm màu đen hay xanh da trời tại đó. Nếu nơi đó có sinh, vượng khí của Hướng tinh thì có thể đặt hồ cá, hoặc phong thủy luân để hóa giải.

Cách chấn: Dùng tỳ hưu, thẻ phép may mắn, kỳ lân, dĩa ngọc, gương đồng dạ thần, gương cửu long bát cát tường mà chấn uy.

8. Sao số 8 Bát bạch (Sao Tả phụ): Thuộc về Cấn (thổ khí) năm 2016 đóng tại hướng Tây nam.

Vừa là cát tinh lẫn vượng tinh, chủ đem đến mọi sự thuận lợi, may mắn cho tài lộc, công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên, năm nay Bát Bạch đến phía TÂY NAM vừa bị Phản ngâm, vừa gặp THÁI TUẾ, TUẾ SÁT (1 trong TAM SÁT), Bệnh Phù, Ngũ Quỷ, chỉ có xấu, không có tốt, vì vậy không nên di chuyển tới phương này để sinh sống, lập nghiệp, kinh doanh, học tập, thi cử, nhậm chức, nhận việc, chữa bệnh, cưới hỏi, cũng như không nên động thổ, đập phá, tu sửa nhà cửa... tại phương này.

Riêng với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía TÂY NAM (không tính hướng cửa), nếu trạch vận nhà có vượng khí của Hướng tinh tại đó (số 8) thì công danh, tài lộc vẫn phát mạnh, cũng như có nhiều hỷ sự. Nếu có sinh khí số 9 thì sẽ bị hao tốn tiền của nhiều. Nếu có sinh khí số 1 thì sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở lớn hay bệnh tật trong năm nay. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì sẽ mắc nhiều bệnh tật, tai họa, thậm chí có thể chết người, hao tốn tiền của nặng. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 4 và 7 âm lịch.

Cách chấn: Trong năm nay nên bố trí các pháp khí phong thủy như Thiên lộc lưỡng tính, dĩa ngọc thất tinh, 9 đồng tiền xu, thạch anh màu đỏ, thảm đỏ, đèn chiếu sáng, con ngựa, con rắn. Tránh dùng cây cối đặt tại phương này.

9. Sao số 9 Cửu tử (Sao Hữu bật): Thuộc Hỏa khí, năm 2016 đóng tại hướng Đông. Sao này bay vào hướng này sẽ ứng nhiều nhất cho người con Trai trưởng trong gia đình. Nếu ai trong gia đình có mệnh thiếu Hỏa thì sẽ bổ khuyết rất tốt…..

Là sao chủ về văn chương, danh tiếng, lại cũng là Sinh khí của vận 8, nên còn chủ may mắn trong công việc và tài lộc. Năm nay, Cửu tử đến phía ĐÔNG, tuy gặp KIM THẦN, Cửu Thoái, nhưng vẫn có thể di chuyển tới đó để sinh sống, lập nghiệp, kinh doanh, buôn bán, học tập, thi cử, cưới hỏi, chữa bệnh, nhậm chức. Riêng với nhà cửa thì không nên động thổ, đập phá, tu sửa, đào giếng, chặt cây lớn tại phương này.

Với nhà có cửa ra vào tại khu vực phía ĐÔNG (không tính hướng cửa), nếu trạch vận nhà có sinh, vượng khí (8, 9) của Hướng tinh tại đó thì thường sẽ được tăng tiến nhiều về tài lộc, cũng như có hỷ sự về hoạn lộ, văn chương, danh tiếng. Nếu có sinh khí số 1 thì lại bị hao tốn tiền của. Nếu nơi đó có suy, tử khí của Hướng tinh, hay địa hình, thiết kế không thích hợp thì sẽ mắc nhiều bệnh tật, tai họa, kiện cáo, tù tội. Những nhà này đều dễ mắc bệnh trong các tháng 5 và 8 âm lịch.

Cách chấn: Tăng cường thoải mái về cây cối, chấn con mèo, con cọp, dàn âm thanh, ánh sáng, lồng đèn…nói chung chấn thoải mái…nhưng hạn chế không có nước tại khu vực này….

Huyền không phi tinh được cho chúng ta nhận biết về sơn hướng cát hung, cửu cung và những ngôi sao bay vào các hướng, được giải thích bởi Đại vận và tiểu vận lưu niên hằng năm, nhằm xác định cho chúng ta biết đâu là hướng hung và đâu là hướng cát trong năm để chúng ta phòng ngừa.

Dùng sơ đồ cửu cung trong 9 ngôi sao, tương ứng với các số lần lượt từ 1 đến 9. Mỗi Sao có màu sắc và ý nghĩa riêng của nó và được tóm tắt như sau cho các bạn dễ hiểu hơn.

• Số 1 ứng với sao Nhất Bạch, màu trắng, hành thủy, được coi là mang lại chiến thắng, thành công trong sự nghiệp.

• Số 2 ứng với sao Nhị Hắc màu đen, hành thổ, gây bệnh tật.

• Số 3 ứng với sao Tam Bích, màu xanh da trời, hành mộc, gây cãi cọ.

• Số 4 ứng với sao Tứ Lục, màu xanh lá cây, hành mộc, mang đến vận may về học vấn, tình yêu.

• Số 5 ứng với sao Ngũ Hoàng, màu vàng, hành thổ, gây tai họa.

• Số 6 ứng với sao Lục Bạch, màu trắng, hành kim, mang lại thiên vận (vận may của trời).

• Số 7 ứng với sao Thất Xích, màu đỏ, hành kim, gây bạo lực, mất mát, trộm cướp.

• Số 8 ứng với sao Bát Bạch, màu trắng, hành thổ, mang lại may mắn, tài lộc.

• Số 9 ứng với sao Cửu Tử, màu tím, mệnh hỏa, mang lại thịnh vượng trong tương lai, khuyếch trương ảnh hưởng của các sao khác.


Tóm lại: Trong năm 2016 tiểu vận của các Sao sẽ rơi vào những hướng tốt nhất như sau: Hướng Tây nam, Đông và đông nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phi tinh huyền không Tiểu vận 2016, ảnh hưởng gì cho nhà bạn trong năm nay?

Xem vận mệnh của mình qua hình dáng móng tay –

Là con người ai ai cũng muốn biết vận mệnh tương lai của mình như thế nào? như những bài trước chúng tôi đã cập nhật những bài viết xem tướng cổ, xem tướng khuôn mặt ... Hôm nay chúng tôi sẽ giúp bạn xem vận mệnh qua hình dáng móng tay. Liệu hình dán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Là con người ai ai cũng muốn biết vận mệnh tương lai của mình như thế nào? như những bài trước chúng tôi đã cập nhật những bài viết xem tướng cổ, xem tướng khuôn mặt … Hôm nay chúng tôi sẽ giúp bạn xem vận mệnh qua hình dáng móng tay. Liệu hình dáng móng tay nói lên điều gì về cuộc đời của bạn? Móng tay tròn là người thông mình, lanh lợi; móng tay vuông là người chính trực, khá giả…

Nội dung

  • 1 Xem vận mệnh của mình qua hình dáng móng tay
    • 1.1 Móng tay hình vuông
    • 1.2 Móng tay hình chữ nhật
    • 1.3 Móng tay hình bách hợp
    • 1.4 Móng tay tròn trịa
    • 1.5 Móng tay hình quạt
    • 1.6 Móng tay hình thang
    • 1.7 Móng tay không đồng đều
    • 1.8 Móng tay hẹp dài

Xem vận mệnh của mình qua hình dáng móng tay

Móng tay hình vuông

Móng tay hình vuông là người chính trực, nghiêm túc, tác phong làm việc chuyên nghiệp. Sở hữu tính cách như vậy nên tài vận của họ cũng ngày càng tốt hơn, thu nhập ổn định, khá giả. Họ thích rõ ràng trong tình yêu, ghét sự dối trá. Họ là người bạn trung thực và đáng tin cậy nhất. Đặc biệt, họ không thích giao lưu với những người giảo hoạt, giả tạo.

Móng tay hình chữ nhật

Người có móng tay hình chữ nhật thường trầm tĩnh, kiên nhẫn, tình duyên tốt. Sự nghiệp của họ rất phát triển, bởi họ dám nghĩ dám làm, là nam thì có khí phách nam tử hán, là nữ thì mạnh mẽ kiên cường.

1-5009-1412394229

Móng tay hình bách hợp

Móng tay hình bách hợp là móng tay dáng tương đối dài, bốn góc tròn, phần đầu nhọn, giống như cánh hoa bách hợp. Đây là dáng móng tay đẹp nhất, thấy nhiều ở phái nữ. Những người có dáng móng tay bách hợp thì dù là nam hay nữ tính cách cũng ôn thuận, thân thiện dễ gần, vận đào hoa tốt, được bạn bè yêu quý, sự nghiệp thuận lợi.

Móng tay tròn trịa

Móng tay tròn là người thông minh lanh lợi, họ không thích tranh giành quyền lợi, vật chất, chỉ muốn làm những việc bản thân yêu thích. Trong tình yêu họ rất chu đáo, tinh tế, sau khi kết hôn sẽ hết lòng vì gia đình.

Móng tay hình quạt

Móng tay hình quạt phần gốc hẹp hơn, đầu móng mở rộng thành vòng cung. Người sở hữu móng tay hình quạt thường có vóc dáng cơ thể rất đẹp, sức khỏe tốt. Họ là người rất kiên nhẫn, có thể chịu được khó khăn, dễ dàng thành công khi tự lập nghiệp. Họ kiên trì, đôi khi còn cố chấp. V việc họ đã xác định thì sẽ làm đến cùng, không sợ vất vả, khó khăn. Trong tình yêu cũng vậy, họ sẽ theo đuổi đối phương đến cùng.

4-9212-1412394229

Móng tay hình thang

Ngược lại với móng hình quạt, gốc hẹp hơn đầu móng. Người có móng tay hình thang thích sự giản dị, cư xử nhún nhường, trong tình yêu là người thực tế. Khi lựa chọn người yêu, họ sẽ để ý nhiều đến nhân phẩm đối phương chứ không quá chú trọng vào bề ngoài. Trong sự nghiệp họ luôn làm theo những kế hoạch tỉ mỉ, từng bước từng bước vững chãi đạt đến mục tiêu cuộc đời họ.

Móng tay không đồng đều

Nếu móng tay lồi lõm không đều hoặc đột nhiên không đều thì nên chú ý đến chế độ ăn uống, tăng cường sức khỏe, làm việc gì cũng phải thận trọng, chuyện lớn thì nên xem xét thật kỹ rồi hãy đưa ra quyết định.

Móng tay hẹp dài

Những người như vậy thường có tài năng đặc biệt, có thiên phú nghệ thuật. Trong tình yêu họ luôn theo đuổi sự hoàn mỹ, tài vận tốt.

Xem thêm:

  • Xem Tướng Eo Và Tướng Mông Của Phụ Nữ
  • Xem Tướng Trẻ Em Có Số Phận Tốt Và Xấu 
  • Xem Tướng Khuôn Mặt Đoán Phúc Phận


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem vận mệnh của mình qua hình dáng móng tay –

Bí ẩn giấc mơ thấy mình say rượu

Trong cuộc sống hiện thực, khi vui người ta uống rượu chia vui, khi buồn người ta cũng uống rượu giải sầu. Trong giấc mơ cũng có giấc mơ buồn và giấc mơ vui,
Bí ẩn giấc mơ thấy mình say rượu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  tuy nhiên giấc mơ vui lại là giấc mơ thấy mình “chân nam đá chân chiêu”.


Cùng giải mã giấc mơ thấy mình say khướt:

Bi an giac mo say khuot hinh anh
Ảnh minh họa

Chiêm bao thấy mình say khướt là dự báo điềm lành sắp tới, dù vậy, bạn cũng nên đề phòng một số rắc rối bất ngờ.

 

Chiêm bao thấy mình say rượu rồi gây gổ với người nhà thì thay vì cảm thấy xấu hổ thì bạn nên vui mừng, đây là điềm báo bạn sắp có nhiều tiền một cách bất ngờ.

 

Việc say rượu xong rồi làm loạn hoặc đánh nhau thật chẳng hay chút nào. Nhưng trong giấc mơ, bạn mơ thấy mình như vậy thì chúc mừng bạn, trong thời gian sắp tới bạn sẽ được quý nhân giúp đỡ đấy.

 

Song, không phải giấc mơ “nát rượu” nào cũng đều là cát mộng. Chiêm bao thấy mình say túy lúy rồi bị ngã dọc đường thì bạn nên cẩn thận. Giấc mơ này ám chỉ về công việc sắp tới của bạn trong tương lai. Công việc trong lúc đang thuận lợi thì sẽ xuất hiện người gây khó khăn. Hãy nỗ lực hết mình, bạn sẽ nhanh chóng vượt qua được thôi.

 

Chiêm bao thấy bạn đang uống quá nhiều rượu là ám chỉ trong bạn đang tồn tại sự lo lắng, hối tiếc và sợ hãi bị phát hiện ra điều gì đó. Bạn đang cố sử dụng rượu để quên đi cảm giác ấy hoặc cũng là một cách để trốn tránh hoặc thoát khỏi một điều gì đó.

 

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn giấc mơ thấy mình say rượu

Đặt tên hay cho người tuổi Tý để tăng may mắn và tài lộc

Căn cứ vào đặc điểm vốn có của loài chuột, mối quan hệ với những con giáp khác mà có cách đặt tên hay cho người tuổi Tý để tăng may mắn và tài lộc.
Đặt tên hay cho người tuổi Tý để tăng may mắn và tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Căn cứ vào đặc điểm vốn có của loài chuột cũng như mối quan hệ với những con giáp khác mà có cách đặt tên hay cho người tuổi Tý để tăng may mắn và tài lộc.

 

Dat ten hay cho nguoi tuoi Ty hinh anh
Đặt tên hay cho người tuổi Tý


1. Dựa vào thói quen ăn uống

  Chuột là loài ăn tạp, chúng thích các loại ngũ cốc. Do đó, nên đặt tên hay cho người tuổi Tý có chứa các bộ thủ mang ý nghĩa về ngũ cốc, cây cỏ như bộ Thảo, bộ Hòa, bộ Mễ…
 
Những tên phù hợp: Bỉnh, Trình, Tô, Tích, Phương, Đài, Linh, Miêu, Bình, Minh, Hoa, Huệ, Nghệ, Tần, Chí, Hằng, Tính, Tình, Khánh, Hoài…
 

2. Dựa vào đặc tính sinh sống

  Chuột sống ẩn náu, thích đào hang do đó nên sử dụng những tên có bộ Khẩu hoặc Miên, ý chỉ hang động, nơi chốn nghỉ ngơi.
 
Những tên phù hợp: Định, Quyết, Tự, Cung, An, Gia, Dung, Hựu, Nghi, Phú, Bảo, Danh, Đồng, Cát, Hợp, Hướng, Đơn, Hòa, Hỉ, Phẩm, Như, Gia, Nghiêm, Viên, Đồ, Đường…

 

3. Dựa vào vị trí trong 12 con giáp

  Chuột là con giáp đứng đầu, được đặt tên trước nhất nên có thể xưng vương. Trong tên nên chọn chữ có bộ Vương, Quân, Lệnh.
 
Những tên phù hợp: Linh, Cầm, Quân, Quan, Vương…
 

4. Dựa vào tính cách

  Chuột rất thích tô điểm và khá trau chuốt vẻ bề ngoài để làm đẹp cho bản thân mình. Do đó, thích hợp với những chữ có bộ Sam, Mịch, Cân, Thị, Y.
 
Những tên phù hợp: Ngạn, Đồng, Hình, Thái, Bành, Bố, Phàm, Tịch, Thường, Tránh, Hồng, Thuần, Ước, Tố, Thân, Kết, Duyên, Cương, Kế, Phúc, Kì, Trinh, Viên…
 
Chuột thích hoạt động về ban đêm nên đặt tên có bộ Tịch như Danh, Dạ, Minh, Đa, Mộng…

5. Dựa vào mối quan hệ tam hợp với những con giáp khác

  Theo tử vi, Hợi – Tý – Sửu là tam hợp với Thủy ở phương Bắc. Sức mạnh của tam hợp có vận quý nhân, có sự trợ giúp rất lớn đối với bản thân từng con giáp. Do đó, nên đặt tên người tuổi Tý có bộ Hợi, Sửu hoặc Ngọ.
 
Những tên phù hợp: Tượng, Gia, Hào, Dự, Nghị, Sinh, Long, Sản, Mâu…
 

6. Những tên cần tránh

  Dựa vào mối quan hệ tương khắc với những con giáp còn lại, nên tránh đặt những tên sau cho người tuổi Tý.
 
Tên cần tránh: Mã, Tuấn, Đằng, Liệt, Nam, Huyền, Bào, Yên, Nhiên, Hoán, Hùng, Yến, Dịch, Thiệu, Tinh, Xuân, Thời, Ánh, Trí, Cảnh, Huy, Hiểu, Hội, Ý, Thiện, Nghĩa, Mĩ, Đạt, Viễn, Tuyển, Đô, Trịnh, Giới, Kim, Nhân, Đài, Tiên, Nhiệm, Trọng, Bá, Thân, Hà, Bảo, Truyền, Đắc, Tùng, Đức…

Mời các bạn xem thêm bài viết: Đặt tên tốt để cải thiên đổi vận, thúc đẩy tài lộc để có cân nhắc lựa chọn hợp lý nhé! 
  ST  
Bí quyết đặt tên hay cho con gái để cả đời sung sướng Cách đặt tên ở nhà cho bé thật ngộ nghĩnh và may mắn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Tý để tăng may mắn và tài lộc

Xem bói tử vi tuổi Thân

Xem bói tử vi tuổi Thân qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Thân, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Thân qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Thân, sự xung khắc của tuổi Thân với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Nhâm Thân, Canh Thân, Mậu Thân, Bính Thân, Giáp Thân theo tháng sinh và giờ sinh.

Trong 12 con giáp, Khỉ có quan hệ mật thiết với người nhất, thuộc họ nhà vượn, có thể không chút nghi ngờ mà nói rằng nó đã mang trong mình trí tuệ và sự khôn khéo của con người. Những người tuổi Thân thường rất tinh anh, thông minh, nhanh trí, tháo vát, hoạt bát.

xem bói tử vi tuổi Thân
1. Tính cách người tuổi Thân

Người tuổi Thân là người tò mò, tinh quái, khôn khéo và là người vui vẻ từ trong tâm. Nếu bạn muốn có ai đó vui nhộn quanh mình thì hãy tìm một người tuổi Thân. Luôn luôn đùa giỡn, họ là chuyên gia của những trò chơi khăm. Tuy nhiên, điều này có thể khiến họ rơi vào tình thế “gậy ông đập lưng ông”, vì các trò đùa có thể là điều ác ý, gây tổn thương cho người khác. Người sinh năm Thân không chỉ có óc hài hước mà còn là người trí thức nhất trong tất cả.

Họ là tuýp người giỏi giao tiếp, giỏi xoay sở để thích nghi với môi trường, có khả năng đoán biết được ý nghĩ của người khác. Vì thế họ có khả năng điều khiển quản lý người khác. Họ là những người sở hữu sự quyến rũ, vui vẻ, tinh nghịch. Chỗ nào có mặt những người tuổi Thân thì chỗ đó sẽ không có sự tẻ nhạt, buồn chán.

Trong cuộc sống, những người tuổi Thân thường tìm kiếm những thú vui mới lạ. Đối với họ, sống chung với sự đơn điệu đồng nghĩa với tự sát. Họ thích một cuộc sống sinh động nhiều màu sắc. Những người tuổi Thân thường là những người hay tò mò, thích tìm hiểu.

Người tuổi Thân có khuynh hướng ưa chuộng cuộc sống ồn ào tấp nập nơi thành thị, và không chịu được cảnh hiu quạnh, tẻ nhạt nơi thôn quê. Tuy nhiên, họ cũng sẽ là những người cha người mẹ tuyệt vời, với một lượng kiến thức rộng lớn họ là nguồn động lực giúp con cái phát triển.

Loài khỉ có thể là niềm vui và các trò chơi, nhưng phải cẩn thận, vì khỉ có thể thành một đối thủ đáng gờm. Những người tuổi Thân là người kiên quyết và sẽ không lùi bước trước khó khăn để đạt được điều mình muốn. Trong nhiều trường hợp, thật khó hiểu rõ một người, nhưng người tuổi Thân thể hiện sự tự tin rằng bản thân họ hài lòng với những gì mình đạt được.

Trong sách sử Trung Quốc, Khỉ là nhà phát minh, nhà thơ ngẫu nhiên và là nhân tố tích cực trong việc làm thay đổi người khác, còn biểu lộ một số trò khôn ngoan bằng chính sự giảo họat và ma mãnh vốn có. Sự thông minh nhạy bén của những người tuổi Thân sẽ giúp họ nắm bắt thông tin nhanh chóng và khả năng học hỏi nhanh. Họ có thể thành công trong mọi lĩnh vực mà họ yêu thích và có hứng thú.

Người tuổi Thân có thể giải quyết những vấn đề rắc rối, phức tạp bằng chính cách xử lí lạnh lùng. Họ còn biết nhận người tài làm thầy và là người có chí tiến thủ.

Về mặt bất lợi, người tuổi Thân có tính tự chủ rất cao, họ không muốn tôn trọng người khác mà luôn bắt đầu từ lợi ích riêng của mình, suy nghĩ rất nhiều về việc mình được mất những gì, là những người tự tư tự lợi, ưa chuộng hư vinh một cách cực đoan. Mỗi khi có người nào tiến bộ hay có những cái mà họ không có thì sinh lòng đố kỵ, nhưng không để lộ ra ngoài. Ý thức cạnh tranh của họ rất lớn nhưng lại luôn giấu hoạt động mưu mô sau người khác. Trong con đường làm ăn, trù hoạch rất chu đáo, biểu lộ rõ năng lực của mình mà bất kì người nào đều khó sánh kịp.

Người tuổi Thân ưa tranh đấu nhưng họ lại giỏi che giấu suy nghĩ cùng kế hoạch hành động của mình, khiến đối phương thường bị bất ngờ. Nếu bạn bị họ lừa gạt thì bạn không thể biết được bạn bị lừa gạt như thế nào.

Họ có tư duy nhanh nhạy và tâm hồn khá lãng mạn, tinh tế. Tuy nhiên, một số người tuổi Thân lại hay làm việc theo cảm hứng, sự thiếu tập trung thường xuyên là điều khó tránh khỏi. Đôi khi, nó cũng kéo theo sự thiếu cẩn trọng, ảnh hưởng không tốt đến công việc. Nhưng nếu biết khơi gợi sự hứng thú đúng lúc kết hợp với tinh thần không ngại khó khăn, thử thách thì đây lại là một ưu điểm lớn của người tuổi Thân.

Nam giới tuổi Thân thường rất năng động, hoạt bát, giỏi giao tiếp. Họ biết cách tạo sự cân bằng trong cuộc sống để có thể chuyên tâm cho sự nghiệp. Đa số nam giới tuổi này đều có tính tự lập cao. Họ luôn muốn tự khẳng định bằng tài năng của bản thân, ít khi muốn nhờ cậy đến sự giúp đỡ của người khác. Điều này khiến họ gặp ít nhiều khó khăn trong quá trình phát triển sự nghiệp.

Tính cách đặc trưng của người tuổi Thân là tính kiên định, dù có phải đối mặt với tình thế khó khăn nguy hiểm tới đâu họ cũng không hề dao động và luôn giải quyết nhanh chóng, hợp lí.

Người tuổi Thân luôn tìm những việc ít tốn sức lực, tiền của nhất mà lại thu được lợi nhiều nhất để làm, họ để lộ những ý kiến quá thông minh, xuất sắc mà thiếu phần khéo léo khiến người ta nghi ngờ rằng họ có ý đồ vụ lợi, đôi khi họ cũng thừa nhận điều này, nhưng nói chung họ là người sòng phẳng. Nhược điểm của người tuổi Thân là họ luôn cảm thấy mình tài giỏi, ưu việt hơn người nên đôi khi dẫn đến chủ quan thái quá và gặp phải thất bại cay đắng.

Người sinh năm Thân có nhiều tài lẻ thiên bẩm, họ sẽ trở thành diễn viên, nhà văn, nhà ngoại giao, luật sư, vận động viên, nhà kinh doanh cổ phiếu… tài giỏi, họ là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc, có thể giao tiếp với bất cứ người nào.

Một trong những phẩm chất đa dạng của người tuổi Thân là tính kiên định. Mặc dù trong số họ có một số ngoài mặt thì hay xấu hổ, đỏ mặt nhưng trong lòng lại ẩn giấu những suy nghĩ không thể lay chuyển nổi. Tuy nhiên, nói rằng tất cả những người sinh năm Thân đều rất tự tư tự lợi, đố kỵ là không hẳn đúng. Khi họ chưa trực tiếp tham gia vào hoạt động nào đó thì họ không để ý lắm đến những hoạt động đó. Gặp phải chuyện gì họ cũng không cố ý coi mọi người là thù địch mà chỉ là suy nghĩ không thấu đáo, suy nghĩ cho người khác quá ít.

Người tuổi Thân rất tự mãn về sự thông minh, dũng cảm của mình, họ không hề che giấu niềm vui và tự hào đằng sau sự tự mãn đó và cũng không tô vẽ thêm cho những câu nói tự hào của mình, họ thành thật cho rằng không ai hơn được họ. Nếu bạn hiểu rõ được người tuổi Thân thì bạn sẽ không bận tâm đến những vui sướng tự hào của họ về cuộc sống, bởi đó chính là cách sống với họ.

Các biện pháp chỉ trích, phê bình, trừng phạt không những không có tác dụng với họ mà còn làm cho tình hình thêm xấu đi. Họ để những lời khiển trách đó lọt vào tai trái rồi đi ra tai phải, rất khó làm cho họ tức giận bởi vì họ cho rằng lời nói của bạn không thật, thậm chí còn rất đáng buồn cười, vô căn cứ. Họ chỉ tin mình họ, không hề kiểm điểm lại mình. Nếu bạn phê bình họ một cách vô căn cứ thì chỉ rơi vào vị trí thụ động mà thôi.

Người tuổi Thân rất tinh nhanh nhưng lại dùng không đúng chỗ. Thường thì họ tìm những cách không hao tài tốn của, sức lực, vừa có chi phí thấp nhất vì thế họ ít được mọi người tín nhiệm. Những người có ý kiến thông minh hơn họ lại cảm thấy hoài nghi không biết họ có mục đích không lành mạnh nào, có lúc họ tỏ ra thừa nhận người khác nhưng trong lòng lại chỉ chấp thuận ý kiến của mình.

Tuy nhiên người tuổi Thân không phải chỉ là những người ngoan cố, bảo thủ, chỉ là họ biết cách tùy cơ ứng biến hơn người. Đừng tức giận những hành động của họ. Đừng nói rằng họ là những người khó sửa đổi mà phải lợi dụng sự thông minh tài trí của họ, giúp họ phát huy tác dụng. Nếu có thể làm cho họ đi đúng trên con đường phát huy ưu điểm, họ sẽ sáng tạo ra những kỉ lục mới, nắm giữ được những qui phạm ở tầng lớp cao, họ không hổ là những người có phong độ chỉ huy. Thất bại không làm họ nhụt chí mà chỉ quyết tâm làm tốt hơn và kết quả sẽ làm cho mọi người phải thán phục.

Vì thông minh, lanh lợi, tháo vát nên những người sinh năm Thân thường là người chiến thắng. Họ không hề có tâm lý thoả mãn với tài năng thiên bẩm của mình, họ chỉ cảm thấy đầy đủ khi tài năng của họ được phát huy. Việc gì họ cũng muốn thử làm do họ có thể làm việc cẩn thận, kiên nhẫn, cần cù, vì thế họ không hề lãng phí thời gian.

Ý thức tự bảo vệ của họ rất mạnh và mau lẹ. Khi bị bao vây họ sẽ sử dụng mọi thủ đoạn nhanh chóng, phá vây một cách quyết đoán. Nói chung khi đã chuyên tâm một việc mà bị quấy rối liên tục thì họ sẽ nổi khùng.

Các cô gái tuổi Thân rất nhiệt tình, đầy hấp dẫn. Cho dù họ đi đâu cũng mang niềm vui, sự hưng phấn đến đó. Thật khó tìm được người không biết rung động trước vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của họ. Họ là những người thông minh, biết giữ hòa khí với những người cùng cộng tác. Họ là những nhà tổ chức các bữa tiệc, hoạt náo viên trong các hoạt động giải trí, là nữ chủ nhân hào phóng, rộng rãi với mọi người. Nhưng họ vẫn mang những đặc trưng rõ ràng giống với những người tuổi Thân: ý thức cạnh tranh mạnh mẽ, biết đoán lòng người qua sắc mặt, tính toán tỉ mỉ.

Họ không muốn bị người khác chi phối. Các cô gái trẻ tuổi Thân thích trở thành diễn viên. Họ có sinh lực dồi dào, mỗi khi nản lòng, sức sống trong họ lại không ngừng khích lệ họ tiến lên. Loại người này không muốn người khác chỉ bảo hay giúp đỡ. Trên con đường sinh sống, họ sẽ độc lập, tự tin đi theo mục tiêu riêng của mình. Họ còn truyền cho người khác những kinh nghiệm đường đi ngắn nhất mà họ tự rút ra trong đường đi của mình. Rất nhiệt tình nhưng lại không tiết lộ bí mật cho những người không hiểu biết. Khi nói chuyện, họ không nói những điều vô nghĩa mà dùng những lời lẽ mang tính thuyết phục. Họ biết cách nắm bắt những đặc trưng tính cách của người khác và dùng mưu kế của mình để điều khiển người đó. Những cô gái này không hề coi nhẹ đồng tiền mà muốn tự kiếm tiền bằng bàn tay của họ, họ suy nghĩ chín chắn rồi mới làm vì họ rất kĩ tính và nghiêm khắc với công việc.

Cô gái tuổi Thân ăn mặc rất hợp thời, đẹp đẽ, họ rất coi trọng hình thức. Họ cố gắng trang điểm sao cho tự nhiên, xinh đẹp. Đồng thời cũng cần nói thêm, da của người tuổi Thân rất nhạy cảm, quá lạm dụng mỹ phẩm sẽ khiến cho da sần sùi, thô ráp. Mặc dù phụ nữ tuổi Thân luôn tự nhân nhượng với chính họ, dễ hài lòng với bản thân nhưng họ không lề mề, chậm chạp mà làm việc có tính tổ chức. Ngoài việc tham gia các hoạt động xã giao, họ còn tận dụng thời gian để làm những việc họ thích. Họ thuộc loại phụ nữ thời trang nhất trong thành phố.

Người tuổi Thân nói chung có tài quản lý tài vụ rất nhanh nhạy, giàu tinh thần thực hành. Những lĩnh vực như công nghiệp, chính trị, kinh tế nếu không có những người này thì sẽ chịu một số tổn thất. Sự linh hoạt, thích ứng với thực tế của “Khỉ” trong truyền thuyết thần thọai Trung Quốc rất nổi tiếng nhưng phải chú ý, khi làm việc với người tuổi Thân thì bắt buộc phải khiến họ đứng hoàn toàn bên cạnh bạn, như vậy bạn mới thành công.

Mọi người khi giao tiếp với người tuổi Thân rất ít khi nổi cáu bởi vì họ là những người nhanh nhẹn, luôn đem lại cảm giác thích thú và nếu thiếu họ thì việc khó thành. Họ luôn tìm ra sách lược để giữ cho mình một vị trí có lợi. Còn nếu gặp thất bại hay ở vị trí bất lợi, họ cũng sẽ tìm ra cách ngay trong hoàn cảnh khốn khó đó để tạo ra thái độ biết chấp nhận. Đó gọi là “tận dụng mọi thời cơ, cơ hội để làm việc”.

Những người tuổi Thân hiếm khi bị bệnh và đó là bởi vì họ tin rằng bị bệnh là bỏ phí mất một ngày tươi đẹp. May mắn thay, lối sống năng động của người sinh năm Thân chính là điều giúp họ duy trì được sức khỏe tốt. Tuy nhiên, khi họ cảm thấy lo lắng hoặc căng thẳng thì họ rất dễ bị bệnh tật tấn công.

Nói tóm lại, họ là những con người nhiệt tình, tự tin và có tinh thần trách nhiệm cao. Bất cứ lúc nào họ cũng dồn hết tâm trí, sức lực để làm việc, kể cả gian khổ, nhưng bắt buộc phải thu được kết quả thoả đáng. Nếu không, họ sẽ cảm thấy bất công, buồn chán và không làm nữa. Khi làm việc chung với họ, không được trêu chọc họ, không nói với họ những câu chưa suy nghĩ khiến họ mất lòng tin.

2. Tình yêu của người tuổi Thân

Những người tuổi Thân luôn có trái tim và tinh thần trẻ trung. Ở bên họ, mọi người sẽ luôn được vui vẻ. Trên hết mọi thứ, những người này thích được vui đùa. Đây là lý do tại sao người tuổi Thân có rất nhiều bạn bè. Ngay cả trong tình yêu cũng vậy, họ cần sự phong phú, thay đổi, điều đó cũng có nghĩa rằng họ không phải là biểu tượng của sự chung thủy.

Nhũng người tuổi Thân sẽ biết khi nào là lúc họ cần phải ổn định. Khi họ chưa sẵn sàng chung sống thì rất khó nắm bắt được họ. Thật ra, người tuổi Thân nhìn chung là bừa bãi trong các mối quan hệ, xu hướng này xuất phát từ việc họ là kiểu người “cả thèm, chóng chán”. Nhưng rốt cuộc, một khi họ đã tìm được người bạn đời lý tưởng thì họ sẽ giao phó cả cuộc đời mình cho người đó.

Nói chung, người sinh năm Thân phần lớn là người có đầy đủ trí tuệ. Họ là người thông minh, nhanh nhẹn và lắm mưu kế. Họ có ý thức độc lập rất mạnh mẽ và cũng rất tự tin, không ai có thể làm thay đổi được. Tuy tuổi Thân có khả năng thu hút người khác, có nhiều niềm vui trong quan hệ nam nữ nhưng lại nói quá nhiều, có lúc còn thao thao không dứt khiến người khác khó chịu. Vì thế quan hệ với bạn khác giới sẽ không tốt, những lúc ở bên người yêu cũng phải tự kiểm điểm lại mình, có lúc cãi vã với người yêu thì đúng là do việc nói lắm của họ gây ra.

Người tuổi Thân cũng rất nhiệt tình. Với tính cách nhiệt tình này, tuổi Thân rất dễ vào lưới tình. Thế nhưng kết quả của nó là bạn yêu đơn phương, cũng có thể bạn đến với tình yêu quá nhanh, với bản tính thiếu ổn định của mình làm bạn không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, mặt khác cũng làm cho bạn không dễ có được tình yêu đích thực.

Tuy bạn thật lòng đã yêu một người nào đó, nhưng bạn sẽ dễ dàng yêu ngay người khác nếu thấy hợp, điều này sẽ làm lòng nhiệt tình của bạn bị nguội đi rất nhanh. Như vậy người yêu của bạn sẽ xa bạn. Nếu may mắn thì sự hài hước của bạn sẽ giúp bạn phá được vòng luẩn quẩn để quay về với hiện thực. Tuy vậy, không phải lần nào bạn cũng gặp may.

Thông thường, phụ nữ tuổi Thân rất quan tâm đến ngoại hình của đàn ông, bạn quyết không tình nguyện chủ động theo đuổi nam giới, thậm chí kể cả những người nhiệt tình theo đuổi bạn cũng bị bạn cho ra đứng ngoài cửa, bạn cũng không nên cho mình là lõi đời trong tình trường. Có câu nói: “Đa tình từ xưa đến nay đều sinh hận thù”.

Ngòai ra còn có một lời khuyên cho bạn: Không thể cố gắng làm cho người đàn ông đối xử tốt với mình để vừa lòng, còn bản thân bạn chỉ muốn được đối xử như một công chúa. Điều này chỉ làm cho anh ấy mệt mỏi mà xa rời bạn.

Trong cuộc sống gia đình, bạn thường thể hiện là một người phụ nữ quan trọng trước mặt chồng và là một người giỏi giao tiếp ở bên ngoài. Nhưng bạn không nên mãi chèn ép chồng bạn cả đời được, bởi như vậy chỉ làm gia đình tốt đẹp của bạn tan vỡ mà thôi. Bạn nên học nhiều về công việc nội trợ, chăm sóc chồng con và bạn sẽ có được nhiều tình yêu hơn. Khi giáo dục con cái nên phối hợp cùng chồng. Nếu bạn tự ý làm một mình thì chỉ làm cho không khí mất vui mà lại không đạt được hiệu quả giáo dục.

Nam giới tuổi Thân hoàn toàn không thích chỉ yêu một người mà sẽ có nhiều bạn gái cùng một lúc. Bạn rất xem trọng tình yêu, lúc nào cũng chìm trong giấc mộng tình yêu. Có thể vì thế mà bạn vứt bỏ hết công việc tiền của và địa vị.

Trong cuộc sống gia đình, bạn không hề nhúng tay vào giúp vợ làm việc trong gia đình. Nhưng khi qua tuổi 35, bạn sẽ có thay đổi rõ rệt. Suy nghĩ chín chắn sẽ làm cho bạn tự nguyện chịu trách nhiệm công việc gia đình.

Tình yêu của người tuổi Thân nhóm máu A

Ảnh hưởng một phần từ tính cách rụt rè, nhút nhát nên người tuổi Thân thuộc nhóm máu A không dám thể hiện tình cảm của mình trước người mình yêu mến. Trước mặt đối phương, họ thường nói chuyện vu vơ, tầm phào để che giấu tình cảm thật của bản thân. Vì lý đó mà "nửa kia" chỉ nhận thấy ở họ sự hoạt ngôn chứ không hề biết được thành ý của họ. Biết rõ nhược điểm của bản thân nên những người này tìm đến bạn thân nhất làm nhịp cầu kết nối tình cảm của mình với "nửa kia”. Vì không dũng cảm biểu lộ tình yêu với người mình thực sự yêu thương nên họ đánh mất cơ hội để cả đời chung sống với người ấy. Do có rất nhiều người bạn khác giới nên những người này sẽ chọn một trong số đó làm bạn đời của mình. Mặc dù đó không phải là người họ hết lòng yêu thương nhưng sau một thời gian chung sống, họ sẽ nhận ra những ưu điểm của người bạn đời. Hai người sẽ cùng chung tay xây đắp cho tổ ấm ngày càng hạnh phúc. Cả nam giới và nữ giới tuổi này nên xây dựng gia đình với những đối tượng hài hước, lạc quan. Sự kết hợp này sẽ mang lại không khí vui vẻ cho hai người.

Tình yêu của người tuổi Thân nhóm máu B

Người tuổi Thân vốn thông minh, có khiếu hài hước. Không những thế họ còn có khả năng nắm bắt tâm lý người khác rất tốt. Đây cũng là một lợi thế của họ trong việc chinh phục người khác giới. Nhờ khả năng nắm bắt tâm lý tốt, họ tỏ ra khá tự tin khi nói lời yêu với người mình thương mến. Tình yêu của họ là những giây phút ngọt ngào bởi họ luôn biết quan tâm, chăm sóc và làm hài lòng người yêu. Coi trọng tình yêu và mong muốn cùng người thương đi trọn quãng đời, người tuổi Thân thuộc nhóm máu B luôn hướng tới sự hòa điệu của hai tâm hồn. Đây cũng chính là cơ sở cho một mái ấm gia đình hạnh phúc. Tuy có mối quan hệ với người khác giới nhưng người tuổi Thân thuộc nhóm máu B thường kết hôn khá muộn. Nữ giới tuổi Thân thuộc nhóm máu này nên chọn bạn đời là người đàn ông trầm tính, cương nghị và có chí tiến thủ. Với nam giới, những người phụ nữ hiền lành, chu đáo và năng động sẽ một hậu phương vững chắc cho họ.

Tình yêu của người tuổi Thân nhóm máu AB

Bản thân những người này có sức hấp dẫn lớn nên họ thu hút được sự chú ý của nhiều người khác giới. Cùng các tố chất thông minh, nhanh trí và rất nhiều "nghệ thuật" trong tình yêu nên họ sẽ dễ dàng làm đối phương phải xiêu lòng. Đôi khi vì vậy mà họ nảy sinh tâm lý "xem tình yêu như một trò chơi”. Người tuổi Thân thuộc nhóm máu AB cũng khá đa tình. Mặc dù đã có người yêu song nhiều khi tim họ vẫn "loạn nhịp" trước một đối tượng quen biết, gặp gỡ. Họ có thể chuyển đổi mục tiêu tấn công ngay lập tức. Dù đã có gia đình nhưng nữ giới tuổi này vẫn thích tự do và tham gia vào các hoạt động ngoài xã hội. Vì vậy, họ nên chọn bạn đời là những người đàn ông có tinh thần trách nhiệm, biết chăm lo gia đình, yêu vợ, thương con. Nam giới nên chọn những người phụ nữ hiền lành và biết thông cảm với chồng. Có vậy thì cuộc sống hai người mới thực sự dễ chịu và hạnh phúc lâu dài.

Tình yêu của người tuổi Thân nhóm máu O

Những người tuổi Thân thuộc nhóm máu O thường thông minh, tài trí hơn người. Nhờ ưu điểm này, họ có thể dễ dàng bày tỏ tình cảm với người mình yêu mến. Ngay cả những đối tượng có "trái tim băng" cũng trở nên thổn thức, rạo rực trước nghệ thuật tỏ tình của họ. Những người này cũng rất biết cách hâm nóng tình yêu của hai người nhưng để tiến đến hôn nhân, họ cần phải kiên nhẫn hơn. Đa số người tuổi Thân thuộc nhóm máu O thường không thích kết hôn. Họ sợ bị bó buộc bởi cuộc sống gia đình. Vì lẽ đó, sau khi kết hôn, họ muốn dành cho mình khoảng trời riêng và mong người bạn đời tôn trọng điều đó. Họ vẫn là những người chủ gia đình rất có trách nhiệm, đặc biệt trong việc chăm sóc con cái. Để cuộc sống gia đình hòa hợp, nữ giới tuổi Thân thuộc nhóm máu O nên chọn bạn đời là những người đàn ông phóng khoáng, hài hước và có chung sở thích đi du lịch, dã ngoại. Nam giới nên xây dựng gia đình với những người phụ nữ hiền lành, dịu dàng. Sự kết hợp này sẽ mang lại cuộc sống như ý cho họ.

3. Người tuổi Thân và sự nghiệp

Dường như ít có tuổi nào lại có được đầu óc linh hoạt như người tuổi Thân. Sự thông minh nhạy bén của những người tuổi Thân sẽ giúp họ nắm bắt thông tin nhanh chóng và khả năng học hỏi nhanh. Họ có thể thành công trong mọi lĩnh vực mà họ yêu thích và có hứng thú. Trí tưởng tượng phong phú, óc tò mò, ham học hỏi, họ là những người có thể giải quyết vấn đề một cách hiệu quả và nhanh chóng. Họ luôn luôn tích lũy thêm kinh nghiệm và thích đương đầu với những thách thức mới để luôn được vận động trí não và các giác quan.

Người tuổi Thân đa tài đa nghệ, họ có thể làm được bất cứ ngành nghề gì như diễn viên, nhà văn, nhà ngoại giao, luật sư, vận động viên… Họ là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Họ rất giỏi trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp. Chính vì vậy thương nhân, nhà báo là những nghề rất phù hợp để họ thể hiện được hết tài năng của mình. Bên cạnh đó, họ còn có khả năng ăn nói hoạt bát. Giao lưu, kết nối mọi người là sở trường của họ. Nếu hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao chắc chắn họ sẽ thu được những thành công lớn. Ngoài ra, những người này có sức vóc dẻo dai và phản xạ nhanh, khéo léo trong các công việc có liên quan đến hoạt động hình thể. Vì vậy, diễn viên múa, xiếc, vũ công cũng đều rất phù hợp để họ lựa chọn.

Một ưu điểm dễ nhận thấy ở người tuổi Thân nữa là sự nhạy cảm, tinh tế và có óc tưởng tượng, quan sát tốt. Bất kỳ sự việc nào trong cuộc sống cũng đều gợi sự tò mò đối với họ. Nếu trở thành nhà văn họ sẽ có nhiều cơ hội trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên, nhược điểm của họ là luôn thích dẫn đầu và thích người khác phải phục tùng mình. Nếu không sửa được tính xấu này thì họ dễ bị người khác ghét bỏ, xa lánh và khó có được những cộng sự tốt. Do bản tính thông minh tài giỏi, người Thân cũng có lúc chủ quan, nên cuộc đời cũng phải gặp thất bại lớn.

Có thuyết cho rằng, người Thân cá tính có khinh suất nhưng có tài, tiền của từ bốn phía quy tụ lại; thường dễ xuất ngoại, làm việc liên miên. Nếu là nữ thì cả đời sung túc, giúp chồng. Nam giới suốt đời lao lực, quá 50 tuổi mới giàu có. Người cầm tinh con khỉ biết cách nắm bắt cơ hội làm giàu nhưng cũng rất mạnh tay trong chi tiêu. Với tính cách này, họ nên tìm cho mình một trợ lý giỏi về quản lý tài chính. Hạn chế của không ít người tuổi Thân là tính cách thiếu kiên định. Trong công việc, họ dễ bị dao động khi lựa chọn giữa việc đi tiếp con đường cũ hay bước sang lĩnh vực mới mà họ cho là có tiềm năng. Điều này có thể tạo cho họ nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng kéo theo vô vàn bất trắc.

Những người tuổi Thân có tính thích nghi rất cao, và khi bắt tay vào việc thì họ không nề hà bất kỳ việc gì. Điều mà người tuổi Thân làm tốt là vào việc thật mau lẹ, nhưng cần cẩn thận vì họ tính phí gấp đôi cho dịch vụ của mình. Bản chất tự nhiên của họ là tò mò, thích “ghi điểm” và thông minh - điều này giúp đưa họ đến thành công lớn.

Người sinh năm Thân có thời niên thiếu rất vui vẻ, hạnh phúc. Trước tiên, bạn có một gia đình rất hạnh phúc, sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ dành cho bạn là bất tận. Đối với bạn thời niên thiếu tuyệt vời, tất cả đều không có gì buồn phiền, lo lắng. Nhưng bước vào tuổi thanh niên sẽ xuất hiện nhiều vấn đề, nó bắt nguồn từ tính cách chính bản thân bạn. Bạn coi mình là số một, hoạt bát nghịch ngợm, thích sinh sự và sinh tính đa nghi, hay suy nghĩ. Đến khi về già, nói chung cuộc sống của bạn rất thanh bình. Bạn thường cảm thấy cô đơn, luôn chìm trong hoài niệm như tìm về năm tháng tuổi đã qua. Vì thế bạn không vui vẻ được.

Đường tài vận của bạn nói tóm lại không thấp, bạn rất tích cực và là người hướng ngoại, thuộc típ người lạc quan thiên bẩm, về tổng thể bạn không có những phiền não về tiền. Ngoài ra, bạn giỏi xã giao, phạm vi giao tiếp rộng vì thế bạn có nhiều cơ hội tốt về mặt kinh tế, đồng thời được nhận sự giúp đỡ của người khác.Nhưng vì tính cách nóng vội bẩm sinh và thiếu suy nghĩ, có lúc bạn sẽ làm việc qua loa, đại khái. Vì suy nghĩ không kĩ mà bạn sẽ khó tránh khỏi những sai lầm. Nếu như bạn hành động mà có cơ hội được lựa chọn một trong hai là tốt nhất. Nhưng do bạn quá nóng vội nên đã thoả mãn chỉ với một thành công nho nhỏ.

Bạn còn một khuyết điểm nữa là khi đang chuyên tâm làm một việc mà nhìn thấy việc khác thì sẽ bị chi phối. Bạn phải đợi cho việc đó hoàn thành và đem lại kết quả thì mới làm việc khác. Như vậy mới thu hoạch được nhiều. Thêm nữa, bạn có lúc quá coi trọng quan hệ với mọi người, thường đứng bên ngoài nói có tình có lý mà từ chối lập trường của người khác, vì thế mà làm mất đi con đường tài vận.

Không nên quá tự tin, phải suy nghĩ kỹ, nghe lời khuyên giải, không nên làm mất tín nghĩa, nỗ lực cố gắng, như vậy sẽ giúp cho con đường tài vận thông suốt lúc bạn về già.

4. Vận mệnh người tuổi Thân với tháng sinh

Sinh tháng Giêng

(Đầu xuân), chưa đến vụ thu hoạch, hoa quả chưa chín, lương thực không dồi dào. Nhưng bạn có tinh thần sảng khoái, sự nghiệp ở bên ngoài, khó tránh bệnh tật, đề phòng nguy cơ mất của.

Sinh tháng hai

(Kinh trập), khó giữ chức quyền, lương bổng bị giảm, nhiều chuyện buồn, ít được ân huệ. Tuy nhiên vẫn có nguồn thu khác.

Sinh tháng ba

(Thanh minh), tài giỏi hơn người, kết bạn nhiều, hôn nhân tốt đẹp, suốt đời hạnh phúc, không hợp việc đồng áng mà hợp với kinh doanh, an nhàn tự tại, vui vẻ, làm việc thuận buồm xuôi gió, biến hạn thành may, sống no đủ.

Sinh tháng tư

(Lập hạ), vất vả khó khăn nhưng có tài có danh, một đời vinh hoa, hung cát chia đôi, có người giúp đỡ, tác phong nhanh nhẹn khỏe mạnh, cuộc sống no đủ, chuyện thị phi nhiều và có lúc xử lý không đúng thì sẽ gặp khó khăn.

Sinh tháng năm

(Tiết Mang chủng), không một phút nghỉ ngơi, có khả năng phấn đấu nhưng lộc ít, biết cách cư xử, mưu sự có thể thành công, thường gặp chuyện thị phi, ít bạn và nguy hiểm, tự kiếm sống lấy.

Sinh tháng sáu

(Tiểu thử), tính tình nhẹ nhàng, ôn hòa, sống thoải mái, vui vẻ, không bệnh tật, tuy ít lộc nhưng không thiếu ăn, chỉ thiếu cao lương mỹ vị, hung cát đều có bằng nhau, gặp không ít chuyện kiện tụng, hôn nhân tốt đẹp, con cháu ngoan hiền.

Sinh tháng bảy

(Lập thu), thu lớn bởi ngũ cốc đã đến mùa thu hoạch, hoa quả đều đã chín, cả đời không sợ thiếu ăn, có lộc trời, sống vui vẻ. Mệnh trời đã định, hưởng phúc người đi trước, sống yên ổn an nhàn.

Sinh tháng tám

(Bạch lộ), tài lộc nhiều, sự nghiệp thông suốt, sống hạnh phúc, danh lợi song toàn, tiền đồ tốt đẹp, phúc hưởng bất tận, tính tình thông minh, nhạy cảm, sức khỏe tốt, gia đình hòa hợp, con cháu ngoan hiền.

Sinh tháng chín

(Hàn lộ), có tài năng, ghét chuyện bất bình, cố gắng vươn lên nhưng hay nóng vội, giữa đường gặp trở ngại nên sẽ tổn thất, có cả chuyện thị phi lẫn chuyện tốt lành, quyền lực lớn, có năng khiếu nghệ thuật, có thể phát triển thành công, sự việc luôn trái với mong muốn. Một đời tốt đẹp.

Sinh tháng mười

(Lập đông), phúc lộc bình thường, cơm ăn áo mặc không dư dật, có thể phát triển năng khiếu nghệ thuật, ý chí không kiên định, gia đình bình thường, ít hạnh phúc, nếu thừa hưởng tổ nghiệp thì sẽ được phúc may mắn, nếu không biết an phận thì chỉ được những điều mình không thích.

Sinh tháng mười một

(Đại tuyết), nhiều chuyện buồn, đôi lúc gặp hạn, cả đời vất vả, cuộc sống thiếu thốn, tinh thần suy sụp, mang bệnh tật trong người, tính tình ương bướng, vợ chồng li tán, ý chí yếu ớt, không ổn định, ít chí tiến thủ.

Sinh tháng mười hai

(Tiểu hàn), tuyết lớn rơi đầy, không ra khỏi nhà được, lạnh lẽo, ít người giúp đỡ, thiếu thốn, sức khỏe kém, ít thành công, gặp thất bại sinh buồn phiền mà mang bệnh, khó kinh doanh. Cuối đời bình an hạnh phúc.

5. Người tuổi Thân với vận mệnh

Sinh năm Nhâm Thân - 1992: Khỉ thông minh (thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành)

Những người tuổi Thân mệnh Kim vừa có khả năng nhận biết thời thế lại vừa là người rất cẩn trọng, có ý chí vươn lên. Họ thường có kiến giải độc đáo về mọi việc, làm gì cũng tính đến hiệu quả. Tuy nhiên, đôi khi người khác sẽ khó hòa hợp với cung cách làm việc của họ. Vì vậy, chỉ có một số ít người làm theo và nghe theo họ mà thôi. Họ thường không đủ kiên nhẫn để giải thích cặn kẽ từng chi tiết trong kế hoạch hành động của mình và cũng không hề quan tâm nếu ai đó không chấp nhận kế hoạch ấy. Người này thích theo đuổi danh lợi trong suốt cuộc đời và có khát vọng chiếm hữu mạnh mẽ. Họ không muốn về đích sau mọi người trong bất kỳ việc gì. Vì ý thức về bản thân quá mạnh mẽ, thậm chí đôi lúc trở nên tự tư nên họ thường không cảm nhận được rằng mình đang làm những việc không hợp lý. Cá tính này cũng khiến họ không thích hợp tác với mọi người mà chỉ muốn tự mình hành động trong mọi việc. Người này có ưu điểm là rất tự tin. Tuy nhiên, họ dễ cảm thấy nhàm chán với các công việc ít có sự đổi mới. Nếu được sao tốt tương trợ, họ dễ có được quyền lực và được hưởng vinh hoa phú quý trong đời. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ khó có cơ hội thành công trong sự nghiệp, hoặc tuy có quyền mà lại phụ thuộc nhiều vào người khác.

Sinh năm Canh Thân - 1980: Khỉ lên núi (thuộc mệnh Mộc trong Ngũ hành)

Đức tính chăm chỉ, chịu khó là một trong những nét nổi bật của người tuổi Thân mệnh Mộc. Nhờ tinh thần hiếu học cùng trí thông minh bẩm sinh, họ có được vốn kiến thức sâu rộng. Tài trí và óc phán đoán nhanh nhạy giúp họ luôn chủ động trong công việc. Họ thường lên kế hoạch tỉ mỉ, chu đáo trước khi làm một việc gì đó, rồi mới thực hiện từng bước. Vì vậy, tuy thành công đến với họ không nhanh nhưng chắc chắn. Người tuổi Thân mệnh Mộc có khả năng giao tiếp rất tốt, dễ hòa đồng với mọi người. Tuy nhiên cũng có một số người tuổi Thân mệnh Mộc quá cẩn trọng và thường chỉ biết thỏa mãn với những thành tựu nhỏ ban đầu mà không biết nhìn xa trông rộng. Điều này có thể sẽ khiến họ mất đi những cơ hội tốt trong sự nghiệp. Nếu có sao tốt tương trợ trong cung mệnh và luôn phấn đấu vươn lên thì họ sẽ sớm có được thành công trong sự nghiệp. Ngược lại, nếu không được sao tốt tương trợ, không biết kiên trì vượt khó vươn lên thì cuộc sống của họ sẽ rất khó khăn.

Sinh năm Giáp Thân - 1944: Khỉ leo cây (thuộc mệnh Thủy trong Ngũ hành)

Đây là người có tấm lòng nhân ái và rất nhiệt tình giúp đỡ mọi người. Trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, họ luôn biết cách tạo ra tiếng cười để mọi người đều thấy vui vẻ. Với công việc, họ luôn nhiệt tình và cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Tuy nhiên, khi nhiệm vụ ấy vượt quá khả năng của mình, họ sẽ không làm. Điều này đôi khi khiến người khác đánh giá họ là người không biết giữ chữ tín. Đa số người tuổi Thân mệnh Thủy rất coi trọng việc giữ thể diện. Họ luôn muốn hình ảnh của mình thật đẹp trong mắt người khác. Tuy có đầu óc linh hoạt, giàu sức sáng tạo nhưng một số người lại thiếu thực tế. Người tuổi Thân mệnh Thủy thường rất có ý chí phấn đấu và gây dựng sự nghiệp vững chắc. Họ cũng thường rất hào hứng với các hoạt động mang lại lợi ích cho cộng đồng. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ sẽ là người hiểu biết rộng, có nhiều cơ hội tốt trong sự nghiệp. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ vẫn là những người có phúc, mỗi khi gặp hoạn nạn thì dữ sẽ hóa lành.

Sinh năm Bính Thân -1956: Khỉ an nhàn (thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành)

Mang tính cách chung của người tuổi Thân, họ đều rất thông minh, nhanh nhạy. Họ có đầu óc mưu lược của người tuổi Tỵ song không quá đa nghi. Họ cũng là người linh hoạt, giỏi ứng biến. Ngoài trí tưởng tượng phong phú và giàu sức sáng tạo, họ còn là người có ý chí phấn đấu và luôn muốn dựa vào khả năng của bản thân để giải quyết mọi khó khăn trong công việc cũng như cuộc sống. Tuy nhiên, một số người tuổi Thân mệnh Hỏa khá cảm tính trong cách xử lý công việc. Họ luôn thích thể hiện sự vui vẻ và chính điều này khiến người xung quanh thường không đoán được họ đang suy nghĩ gì. Đây cũng là những người thích tranh biện để đi tới quan điểm rõ ràng. Tuy không có được ý chí kiên định như người tuổi Thân mệnh Mộc nhưng họ cũng không phải là người dễ đầu hàng trước thất bại mặc dù có thể họ sẽ cần đến một khoảng thời gian dài để lấy lại tinh thần. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ sẽ có một cuộc sống an bình. Nếu không được sao tốt tương trợ họ sẽ phải sống cảnh tha hương hoặc chịu sự sai bảo, chi phối của người khác.

Sinh năm Mậu Thân - 1968: Khỉ ăn quả (thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành)

Giống như người tuổi Thân mệnh Hỏa, họ thường rất mưu trí, nhanh nhẹn. Khả năng này giúp họ tiến hành công việc đạt hiệu quả cao và ít khi có sai sót. Họ có khả năng phán đoán mọi việc rất tốt, làm việc linh hoạt, có thể tùy cơ ứng biến để thích hợp với mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên, họ lại giống người tuổi Thân mệnh Kim, thường thấy nhàm chán khi phải làm một việc trong khoảng thời gian quá dài. Nhờ khiếu hài hước cùng khả năng giao tiếp tốt, họ được nhiều người quý mến, nhất là người khác giới. Tuy nhiên, mỗi khi tâm trạng không tốt, họ thường đẩy trách nhiệm hoặc sự bực bội sang người khác nên dễ mất đi sự tin tưởng của bạn bè. Người tuổi Thân mệnh Thổ cũng là người khá nhanh nhạy trong việc nắm bắt cơ hội. Nếu biết kiềm chế hơn thì chắc chắn cuộc sống và sự nghiệp của họ sẽ gặp nhiều thuận lợi và thành công hơn.

6. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Thân và các tuổi khác

Tuổi Thân và tuổi Tý

Tí và Thân là một cặp "xứng đôi vừa lứa". Cả hai đều hài hước, dí dỏm và là trung tâm chú ý trong các bữa tiệc hoặc các hoạt động xã hội. Do vậy, họ thường có những khoảng thời gian thật thú vị bên nhau. Hai con giáp này đều có cái tôi cá nhân khá lớn, nhưng đây lại không phải là vấn đề lớn với cả đôi bên. Đôi khi, họ mâu thuẫn, cãi vã và cạnh tranh nhau nhưng rồi họ lại hóa giải mọi thứ theo cách rất hài hước và dễ chịu.

Khi là người yêu hoặc vợ chồng, Tí và Thân rất thắm thiết và quanh quẩn bên nhau. Trong con mắt của bạn bè thì đây là cặp trời sinh. Tuổi Chuột có khả năng chế ngự cảm giác ghen tuông hoặc sở hữu của tuổi Khỉ. Những người cầm tinh con Chuột thường hay thể hiện mình và khá phóng khoáng sẽ hiểu tuổi Khỉ hơn bất kỳ con giáp nào. Vì vậy, họ ứng xử hòa nhã và sống với nhau rất hòa thuận.

Khi là đối tác kinh doanh, cả hai con giáp này đều năng động. Tí và Thân cùng chung quyền lực. Trong khi, tuổi Chuột có cái đầu sắc sảo trong làm ăn và kiếm tiền thì tuổi Khỉ cũng thích được nắm quyền lực trong tay. Điều thú vị là tuổi Chuột đủ khôn ngoan và khéo léo để cho tuổi Khỉ cảm thấy cũng đang nắm quyền. Nhìn chung, mục tiêu của Tí và Thân đều giống nhau vì vậy, họ dễ dàng hòa nhập để cùng phát triển.

Tuổi Thân và tuổi Sửu

Tuổi Trâu và tuổi Khỉ có nhiều điểm khác biệt. Tuy nhiên, họ có thể trở thành bạn thân nếu cả hai đều hiểu rõ bản chất của nhau. Người tuổi Trâu thích sự hòa hợp và trật tự; họ thường biết cách để tránh khẩu chiến khi có thể. Người tuổi Khỉ sẽ tìm cách để làm cho cuộc sống của Trâu phong phú hơn và đem lại khoảng thời gian thật vui vẻ cho người tuổi Trâu vốn trầm tính và nội tâm. Tuy nhiên, khi nào tuổi Thân quá ưu tiên cho sự náo nhiệt thì tuổi Sửu không còn đủ kiên nhẫn nữa.

Khi là hai người yêu nhau, người này biết cách tạo không gian riêng cho người kia. Tuổi Thân thích năng động, thích đi chơi cùng bạn bè và các hoạt động xã hội còn tuổi Sửu thì chỉ thích quanh quẩn bên ngôi nhà thân yêu của mình. Sở thích của tuổi Thân là tìm sự thoải mái cho bản thân mình. Bởi vậy, đôi khi người cầm tinh con Trâu khó có thể chịu nổi được tính ham vui của tuổi Thân. Trong mắt của tuổi Trâu, tuổi Khỉ có lúc tò mò, lúc lại thích lang thang một mình khiến người cầm tinh con Trâu không thể hiểu nổi.

Nếu là đối tác làm ăn, hai “hành tinh” này rất khó giao tiếp với nhau bởi đơn giản, họ có mục tiêu khác nhau: Tuổi Sửu muốn làm việc tập trung, chăm chỉ và làm đúng ngay từ lần đầu trong khi đó, tuổi Thân chỉ tập trung vào công việc khi biết chắc kết quả là tuyệt vời thôi. Ngược lại, tuổi Thân sẽ thấy chán ngán bởi tính thực tế, bảo thủ của tuổi Sửu và hơn thế nữa còn coi tuổi Sửu là “kẻ phá đám”.

Tuổi Thân và tuổi Dần 

Một cuộc tình không đáng để bạn theo đuổi. Bạn sẽ chỉ làm cả hai đau khổ đến chết. Những cuộc cãi vã nhỏ nhặt và kéo dài triền miên sẽ làm cuộc sống trở nên ngột ngạt bế tắc. Hổ và Khỉ khó có thể tìm thấy những điểm chung. Là hai con giáp đối nghịch nhau trong vòng Hoàng đạo, giữa họ thường xuyên có mâu thuẫn. Ban đầu, họ khá cuốn hút nhau bởi cả hai đều hài hước, dễ tính. Người tuổi Hổ dũng cảm, gan dạ và khá ga lăng khiến tuổi Thân rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, dần dần, tuổi Thân ngày càng tỏ rõ sự khoe khoang và thích cạnh tranh với tuổi Dần để được chú ý hoặc tranh giành vị trí dẫn đầu. Còn Dần thì luôn luôn coi mình mới xứng với vị trí chỉ huy. Bởi vậy, trong mắt của Dần, Thân khá nhỏ mọn và phù phiếm.

Khi là một cặp uyên ương, hai con giáp này tạo cho nhau không khí vui vẻ cũng có nhưng cũng rất hay cãi vã lẫn nhau. Tuổi Thân hay tò mò lại thích đàn đúm bạn bè. Đôi khi người tuổi Thân không để ý rằng: Dần thích tự do và muốn làm những việc riêng cho mình. Dần dần, Hổ thấy ngán ngẩm và muốn rời xa người yêu lúc nào cũng muốn sở hữu và gò bó mình. Cả hai đều chạy theo sở thích riêng của mình: Tuổi Thân muốn mình sống thật thoải mái còn tuổi Dần cần tự do. Bởi vậy, hai người này khó gắn kết chặt chẽ với nhau.

Trong công việc, hai “hành tinh” này cũng có nhiều việc cần bàn. Dần nghiêm khắc và yêu cầu Thân phải làm việc nhiều hơn trong khi đó, Thân thích chơi nhiều hơn làm. Hai con giáp này nhanh chóng chán nhau bởi Thân coi Dần là kẻ thích làm bề trên còn trong mắt Dần, Thân là mẫu người lông bông và ham chơi.

Tuổi Thân và tuổi Mão 

Mão và Thân có khá nhiều điểm khác nhau, bởi vậy cả hai cùng cần cố gắng để hiểu và dung hòa mối quan hệ. Tính hay nhún nhường của Mão sẽ cải thiện đáng kể mối quan hệ nhưng nhìn chung tuổi Mèo thường bị động và vị tha hơn mức cần thiết. Do đó, trong mối quan hệ giữa Mão và Thân thì Mão dành nhiều tâm huyết hơn. Tuổi Khỉ thì thường dành nhiều thời gian để theo đuổi những hoài bão và ước mơ của mình.

Khi là hai người yêu nhau, hai hành tinh này có rất nhiều sở thích khác nhau. Mão thích các công việc nhà, thích những bản nhạc nhẹ nhàng. Tuy hơi nhút nhát nhưng trong những cuộc gặp gỡ mang tính gia đình hoặc bạn bè thân thiết, Mão rất nhiệt tình. Tuổi Thân đam mê các buổi tiệc tùng, thích đám đông, ồn ào và náo nhiệt. Nhưng họ khác nhau ở chỗ: Mão thích tổ chức các bữa tiệc nhỏ trong gia đình còn Thân thì lại thích các sự kiện đó tại các câu lạc bộ, những tụ điểm đông người. Hai tuổi này có một số điểm có thể dung hòa được nhưng sự gắn kết khó có thể bắt nguồn từ sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn.

Khi là đối tác kinh doanh, Mão và Thân cần phối hợp thật nhịp nhàng để công việc của họ không bị đổ bể. Mão không nên đảm nhiệm các vấn đề liên quan đến tài chính và Thân cũng vậy. Bởi người tuổi Thân chi tiêu khá mạnh tay và khó có thể giữ được tiền. Tốt nhất, Thân sẽ là người ở “tiền tuyến” đảm nhận trách nhiệm tổ chức các cuộc gặp gỡ đối tác, khách hàng và Mão sẽ chăm lo việc hậu phương để hỗ trợ cho Thân. Còn tài chính chắc hẳn cần nhờ tới một nhân vật thứ ba đảm đương để công việc kinh doanh phát triển đi lên.

Tuổi Thân và tuổi Thìn 

Cả hai đều có năng lượng rất dồi dào, tinh thần lạc quan và thích các hoạt động vui vẻ như tiệc tùng, tụ tập. Thân thích theo đuổi theo sở thích của mình nhưng không làm phật lòng Thìn bởi cả hai đều sống thoáng và vui vẻ. Tuy nhiên, cả hai đều có tính cách mạnh và dễ nổi nóng.

Nếu Rồng và Khỉ yêu nhau, lực hút sẽ rất mạnh. Trong “chuyện ấy”, họ nồng nàn và biết cách làm cho nhau hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu sống trong cùng dưới một mái nhà, ngôi nhà của họ sẽ rất khó ngăn nắp bởi họ ít dành thời gian cho gia đình. Chẳng ai trong số họ thích thú với việc lau nhà, dọn dẹp, nấu nướng… Bởi vậy, chớ ngạc nhiên khi thấy tổ ấm chung của hai con giáp này bừa bộn. Tuổi Thìn thích có một không gian thoải mái, gọn gàng sau khi đi làm về nhưng Thìn biết không thể mong đợi điều đó ở tuổi Thân.

Khi Thìn và Thân cùng làm ăn với nhau, họ sẽ sẵn sàng đón nhận những thách thức bởi bản chất của họ vốn ưa mạo hiểm. Họ thường khuyến khích nhau cùng tìm ra những hướng mới cho công việc kinh doanh. Thìn rất may mắn về tài chính và có vẻ như làm việc chăm chỉ hơn Thân. Đó có thể là may mắn của Thân khi được làm việc với Thìn.

Tuổi Thân và tuổi Tỵ 

Tị và Thân có rất nhiều những điểm trái ngược nhau hoặc những điểm chung không hề bổ sung cho nhau. Họ đều thích có nhiều thời gian vui chơi. Cả hai đều duyên dáng và khá nổi bật trước đám đông. Tuy nhiên, tuổi Tị có phần sống khép mình hơn tuổi Thân. Tị muốn dành nhiều thời gian ở nhà và đọc ngấu nghiến một quyển sách hay ho nào đó. Tuổi Thân thì lúc nào cũng muốn vui chơi, chạy theo hoài bão và ước mơ của mình.

Nếu là một cặp đôi, Tị và Thân sẽ có nhiều thời gian vui vẻ bên nhau cùng với bạn bè. Về thể xác, hai con giáp này cũng rất hấp dẫn nhau. Tuy nhiên, bản chất của người tuổi Tị là rất hay ghen và có tính sở hữu trong tình yêu. Bởi vậy, Thân sẽ rất khó để không để cho Tị có lý do “gây chuyện”. Thân vốn là con giáp khá chung tình và khó có thể trở thành kẻ phản bội trong tình yêu. Tuy nhiên, Thân vẫn thường đi chơi đêm với nhiều tầng lớp khác nhau. Điều này làm cho Tị hết sức lo lắng mặc cho Thân có trung thành tới đâu.

Khi là đối tác làm ăn, hai “hành tinh” này có thể cùng hợp tác, cùng phát triển nếu họ biết cách tự điều chỉnh. Nếu họ biết cách tránh những mâu thuẫn, những tính cách trái ngược nhau có thể trở thành những điểm bổ sung. Tuổi Thân vốn ưa thích những điều mạo hiểm. Tuổi Tị khá cẩn thận và chăm chỉ khi họ tin vào mục tiêu mình đề ra. Tuổi Tị khá may mắn với chuyện tiền bạc nhưng đôi khi thấy ngán ngẩm bởi tính cách ham vui của Thân. Hai con giáp này rất dễ cạnh tranh giành vị trí “người dẫn đường”. Trong hai tuổi này, Tị làm việc nhiều hơn Thân.

Tuổi Thân và tuổi Ngọ

Hai tuổi này có nhiều điểm tương đồng và có thể gắn kết lâu dài: đều vui vẻ, ham chơi, ưa khám phá và cùng khao khát được làm trung tâm của sự chú ý. Người tuổi Thân luôn muốn chinh phục thử thách, và nếu như có một cuộc đua ngầm, thì rất có thể tuổi Ngựa sẽ đột nhiên bỏ cuộc. Tuổi Ngựa không thích sự ràng buộc, và tuổi Khỉ thì có vẻ như luôn ưu tiên cho những đam mê cá nhân, hai điều này tưởng chừng là khiếm khuyết nhưng lại thích hợp với nửa kia.

Hợp nhau, nên tình yêu giữa hai con giáp này có vẻ như suôn sẻ. Chỉ có điều tuổi Ngựa sinh ra không phải để chiều chuộng, để ôm ấp một tình yêu chung thủy, vì thế, nếu không nhạy cảm thì hai người “buông” nhau rất dễ dàng. Tuy nhiên, trong thời gian mặn nồng, đôi uyên ương thực sự trân trọng nhau. Khỉ thích đàn đúm và họ thường hay sa đà vào các cuộc chơi, nhưng một khi đã cặp với Ngựa, họ chẳng còn thời gian mà lạc lối.

Nếu hai con giáp này làm ăn chung, họ có thể cần một đối tác thứ ba duy trì sự gắn kết và ổn định. Khỉ thường bận rộn với những việc riêng, trong khi Ngựa thì mải miết làm và khi thấy đối tác thiếu nghiêm túc, họ sẽ bỏ dở giữa chừng. Nếu lập công ty chung, doanh nghiệp của họ rất năng động, nhiều tiềm năng, nhưng không ổn định. Khi có mâu thuẫn, sẽ chẳng có ai chịu nhượng bộ ai.

Tuổi Thân và tuổi Mùi

Mặc dù mối quan hệ của Thân và Mùi rất vui vẻ nhưng Thân cần điều chỉnh lối sống sôi động và cách chơi “bạt mạng” của mình sao cho Mùi không phải lo lắng. Mùi rất nhạy cảm và dễ xúc động. Do đó, khi có cảm giác không được yêu thương, họ thường lo lắng và mất thăng bằng. Thân có tính cách sôi động, dễ gần, luôn tò mò và ưa mạo hiểm. Thân và Mùi dễ nảy sinh cảm xúc khi cùng tham gia những nhóm hoạt động xã hội, nhưng để làm cho Mùi cảm thấy thoải mái lâu dài, Thân sẽ phải cố gắng rất nhiều.

Khi yêu nhau, mối quan hệ của họ thường bắt đầu ở những bữa tiệc tối hoặc một câu lạc bộ nào đó. Đây là những nơi đông vui, rất thích hợp để Mùi tự do, thoải mái trò chuyện và thể hiện cá tính. Thân sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn, bí ẩn và tâm hồn nhạy cảm của Mùi. Khi đã là người yêu, Mùi thường dành tặng Thân những món quà có ý nghĩa cả về vật chất và tinh thần. Bù lại, Mùi rất thích được quan tâm, chiều chuộng. Tuy nhiên, điều này không dễ thực hiện vì Thân thường chỉ thích sự vui vẻ và ít để tâm đến việc chăm sóc người khác.

Trong mối quan hệ làm ăn kinh doanh, hai người có thể sẽ phải chịu đựng những căng thẳng. Thân thường chỉ ham vui, chứ không thực sự là con người của công việc. Mùi là người có tham vọng phát triển các ý tưởng độc đáo, nhưng lại không giỏi trong vấn đề quản lý tài chính. Mùi thích trang trí nơi làm việc của mình theo phong cách riêng. Mặc dù thích quyền lực, nhưng cả Mùi và Thân đều không quyết đoán, dễ bị dao động trước những lời xu nịnh. Do đó, họ cũng dễ bị kẻ xấu lợi dụng.

Tuổi Thân và tuổi Thân

Người tuổi Thân luôn vui tươi và hài hước. Họ bị cuốn hút bởi sự vui vẻ, đam mê với những khám phá. Vậy nên hai tuổi Thân kết hợp với nhau niềm vui sẽ được nhân đôi. Tuổi Thân thường có chút phô trương và thích nổi bật giữa đám đông. Do đó giữa họ cũng dễ xảy ra cãi vã, nhưng họ không mấy khi để bụng vì điều đó sẽ chỉ tốn nhiều thời gian và gây mệt mỏi. Họ sẽ đấu tranh hết mình nhưng khi qua rồi họ sẽ quên rất nhanh.

Khi yêu nhau, họ có sự hòa hợp lớn về thể chất. Họ âu yếm nhau như hai con mèo nhỏ xoay tròn nghịch với những cái móng vuốt của mình. Nếu hai tuổi Thân sống trong một gia đình, họ sẽ chẳng cẩn thận trong việc giữ gìn ngôi nhà, thậm chí không mấy khi ở nhà. Họ sẽ chẳng ở nhà trừ trường hợp mang bạn bè về nhà do các tụ điểm vui chơi, các quán bar đã đóng cửa. Thân với Thân có thể giữ được ngọn lửa tình lâu bền hơn so với khi Thân yêu người khác con giáp vì Thân rất thích được khích lệ, động viện. Đôi khi con giáp này thích đi một mình, lang thang, mơ mộng. Họ cũng thích giao lưu, đàn đúm bạn bè và có tính hơi hiếu kỳ. Nhưng điều này cho dù có xảy ra thì cũng không ảnh hưởng gì lắm đến quan hệ tình cảm của họ.

Trong làm ăn kinh doanh, hai tuổi Thân dễ xảy ra tranh chấp để nắm quyền lãnh đạo. Mặc dù Thân luôn muốn vui vẻ nhưng cũng thích được nắm quyền cho dù điều đó có nghĩa là sẽ bị gắn vào một nhiệm vụ cụ thể. Do đó họ sẽ phải cố gắng để thỏa hiệp xem ai sẽ quản lý bộ phận nào để tránh xung đột với nhau. Thân thường là những nhân vật nổi trội trong những cuộc họp mặt về kinh tế. Các khách hàng thích tìm đến Thân bởi cách ăn nói có duyên và tính hài hước của Thân. Nơi làm việc chung của hai người rất nhộn nhịp. Tuổi Thân là người ưa mạo hiểm. Việc kinh doanh của họ có thể gặp thất bại hoặc được hưng thịnh nhưng với họ đó luôn là con đường lựa chọn có nhiều điều thú vị

Tuổi Thân và tuổi Dậu 

Thân và Dậu có những sự khác biệt trong cảm nhận do đó mối quan hệ giữa họ thường không được êm đẹp. Thứ nhất, cả hai đều muốn nắm quyền kiểm soát người khác theo cách riêng của mình. Dậu thể hiện quyền lực của mình bằng cách cằn nhằn, yêu cầu mọi người phải thật hoàn hoản. Dậu quan sát thế giới một cách kỹ lưỡng và muốn thay đổi nó cho tốt hơn. Thân thì ngược lại, Thân sẽ khẳng định quyền lực của mình một cách ồn ào nhất, sẵn sàng đương đầu với mạo hiểm và luôn giành sự chú ý về mình. Dậu thấy Thân có những hành động thái quá còn Thân cho rằng Dậu chẳng có gì thú vị.

Trong tình yêu, hai tuổi này không được hợp nhau cho lắm. Họ có thể gặp gỡ nhau ở những nơi đông người vì Dậu thích ra ngoài chơi và thích nghe những lời khen ngợi. Khoảng thời gian ngọt ngào này dành cho hai con giáp sẽ rất ngắn ngủi. Ngay sau đó, Dậu sẽ sớm cằn nhằn Thân về những việc như đi dự tiệc quá nhiều, không chú ý đến sức khỏe, hãy ở nhà và đi ngủ sớm hơn, nhắc nhở về việc vứt tất bừa bộn…. Thân là người thích giao lưu và có tính hiếu kỳ nên Thân sẽ ít dành thời gian ở bên Dậu hơn nếu Dậu cứ ép Thân phải thực hiện những việc theo ý Dậu. Với Dậu, cằn nhằn là một thói quen không thể bỏ được nhưng dường như thói quen này lại được áp dụng đặc biệt với Thân. Dậu cho rằng Thân có quá nhiều thứ cần phải thay đổi.

Trong làm ăn kinh doanh, hai “hành tinh” này lại khá ăn ý với nhau. Những vấn đề cơ bản trong công ty nên để Thân làm người đảm nhiệm. Điều này sẽ giúp Thân thỏa mãn mong muốn được trở thành người đứng đầu và vận dụng hiệu quả sự khéo léo của mình cho công việc. Dậu nên quản lý bên cạnh, sử dụng đầu óc thong minh của mình vào việc quản lý tài chính và ngăn cản Thân đưa ra những quyết định thiếu khôn ngoan.

Tuổi Thân và tuổi Tuất 

Thân và Tuất có nhiều điểm khác biệt nhưng họ đều là những người sôi nổi yêu thích hoạt động. Điều này làm họ trở nên dễ gần. Thân thích vui vẻ nên luôn sẵn sàng cho những cuộc phiêu lưu khám phá mới. Tuất đánh giá cao điều này và muốn là người bạn đường của Thân để trò chuyện cùng nhau. Tuất là người hay suy nghĩ và bận tâm đến nhiều thứ hơn Thân, nhưng nhìn chung Tuất cũng là một người hòa nhã, vui vẻ. Đôi khi Tuất muốn đi đâu đó một mình cho tâm trạng thoải mái. Việc này cũng không làm Thân bận tâm bởi Thân luôn bận rộn nên không mấy khi để ý đến sự vắng mặt của Tuất.

Khi yêu nhau, hai người sẽ là một cặp đôi ăn ý miễn là Tuất có thể tin tưởng ở Thân. Vì Thân cũng không hẳn là người không đáng tin cậy nên tốt nhất Tuất nên tìm hiểu thói quen cũng như điểm yếu của Thân. Người tuổi Thân thích giao lưu, và có tính hơi hiếu kỳ, thỉnh thoảng thích đi lang thang, mơ mộng. Liệu rằng Tuất có chấp nhận được điều này không vì Tuất là người khá nguyên tắc, có được niềm tin từ Tuất là rất khó vậy nên đã tin tưởng một ai Tuất sẽ rất trân trọng người đó. Nhìn chung, hai tuổi này kết hợp với nhau sẽ tạo nên cuộc sống vui vẻ, lạc quan.

Trong làm ăn kinh doanh, Thân sẽ giữ vai trò như người đứng đầu, Tuất sẽ chỉ đi bên phụ giúp cho Thân. Thân có khả năng thuyết phục khách hàng và Tuất sẽ là người tiếp tục duy trì mối quan hệ làm ăn đó. Tuất có khả năng đặc biệt trong việc nhìn nhận sự việc và đánh giá con người. Do đó Tuất có thể sử dụng khả năng đặc biệt này để trợ giúp cho Thân tránh được những rủi ro đáng tiếc. Không khí nơi làm việc của hai người rất vui vẻ và sôi nổi. Việc kinh doanh sẽ rất phát đạt nhờ vào sự bạo dạn của Thân.

Tuổi Thân và tuổi Hợi 

Thân và Hợi có nhiều niềm vui khi ở bên nhau. Cả hai đều là mẫu người vui vẻ, có suy nghĩ tiến bộ và khá nhạy cảm. Nhưng Thân có chút chơi bời hơn Hợi. Hợi thích những đồ ăn ngon, thích tán tỉnh. Những việc rất đơn giản như được ngủ trong một chiếc giường thoải mái, hay được đi tắm hơi cũng dễ làm cho Hợi cảm thấy vui vẻ. Còn Thân, Thân không thích ở nhà mà thích đến những bữa tiệc lớn, vui nhộn nơi họ có thể tự do vui đùa. Hợi quan niệm gia đình và những người bạn thân là những thứ quan trọng nhất với họ trong cuộc sống, trong khi Thân thường đặt sự sự vui vẻ lên hàng đầu.

Khi yêu nhau Thân có thể sẽ tốn thời gian để thuyết phục Hợi đi chơi đó đây. Thân là người có nhiều ham muốn về “chuyện ấy” nhưng không hẳn muốn trải qua hàng giờ trên giường ngủ. Thân đôi lúc sẽ cảm thấy chán việc cố gắng thay đổi Hợi và muốn ra ngoài chơi cho thoải mái. Hợi sẽ phải chấp nhận điều đó vì Thân không phải là người linh hoạt. Tốt nhất trong tình yêu, Hợi nên rộng lượng và chấp nhận nếu muốn làm người bạn đời được vui vẻ. Tuy nhiên đặc điểm này cũng dễ khiến Hợi trở thành người dễ bảo. Thân chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ đối xử tệ bạc với Hợi nhưng có lẽ đó do Thân không để ý đến chuyện đó.

Trong làm ăn kinh doanh, nếu biết kết hợp sức mạnh của cả hai, Thân và Hợi kết sẽ xây dựng được một sự nghiệp vững chắc và thịnh vượng. Thân thích lãnh đạo và thường là người đại diện cho công ty đi giao thiệp với khách hàng, thuyết phục mọi người vì có kinh nghiệm và khá bạo dạn. Hợi là người làm việc chăm chỉ theo sự chỉ dẫn của người khác nhưng sẽ cần biết cách để giúp Thân tránh khỏi những rủi ro không đáng có.

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Thân với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Thân

Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày

Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày. Mỗi ngày bạn hãy tự tạo niềm vui cho mình bằng cách nói một câu nói hay. Như thế cuộc sống của bạn sẽ ý nghĩa hơn
Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày. Mỗi ngày bạn hãy tự tạo niềm vui cho mình bằng cách nói một câu nói hay. Như vậy, không những bạn sẽ cảm thấy thoải mái, yêu đời hơn mà còn truyền cảm hứng cho người khác nữa đấy.

Mời bạn cùng thưởng thức những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày đầy ỹ nghĩa với mỗi cảm xúc khác nhau mang lại một niềm vui hay nỗi buồn. Vậy chúng ta cùng đọc và cảm nhận ý nghĩa của những câu nói hay về cuốc sống hằng ngày nhé!

Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày

1. Đôi khi chúng ta tưởng rằng, những mảnh vỡ rơi xuống tứ tung, nhưng thật ra chúng rơi vào đúng vị trí của chúng.

———

2. Đừng quá lệ thuộc vào ai đó trong cái thế giới này. Ngay cả cái bóng của bạn cũng bỏ bạn đi khi bạn ở trong đêm tối.

———

3. Dù bạn có là một người phụ nữ tốt thế nào đi chăng nữa, bạn cũng sẽ chẳng bao giờ là đủ tốt đối với người đàn ông chưa sẵn sàng vì bạn.

4. Đừng yêu thương những gì bạn chưa thể tin tưởng. Đừng ganh ghét những thứ mà bạn không thể có. Đừng nói ra những những điều mà bạn không thể làm. Đừng phán xét những việc mà bạn không được biết.

5. Dù ngôi nhà của bạn có to bao nhiêu đi nữa, dù bạn mới vừa tậu một chiếc xe hơi mới tinh, hay kể cả tiền của bạn trong tài khoản ngân hàng có nhiều cỡ nào, thì phần mộ của bạn cũng chỉ nhiêu đó kích thước. Hãy khiêm tốn.

Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày

6. Đừng nói mà hãy làm. Đừng huyên thuyên mà hãy hành động. Đừng hứa mà hãy chứng minh.

7. Đừng bao giờ quyết định những vấn đề lâu dài trong lúc cảm xúc đang ngắn hạn.

8. Đối với bạn mà nói, sẽ chẳng bao giờ là quá già để có một mục tiêu mới hay để mơ một giấc mơ mới.

9. Đôi khi bạn không cần phải có mục tiêu trong cuộc sống, đại loại là những mục tiêu to lớn, bạn chỉ cần biết điều mà bạn phải làm kế tiếp là gì mà thôi.

10. Thời gian là miễn phí nhưng nó vô giá. Bạn không thể sở hữu nó, nhưng bạn có thể sử dụng nó. Bạn có thể dùng nó, nhưng bạn không thể giữ nó. Một khi bạn làm mất nó, bạn sẽ không thể nào có lại được nó.

Trên đây là những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày với những ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống. Vậy bạn hãy đọc và cảm nhận và bày tỏ nỗi niềm và tâm trạng của mình nhé !


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về cuộc sống hằng ngày

Quá trình ướp xác sống của các thiền sư Nhật Bản

Quá trình ướp xác người sống Nhật Bản kéo dài 3.000 ngày với những công đoạn đau đớn, kiệt sức do ăn uống kham khổ và uống nhiều hóa chất độc hại.
Quá trình ướp xác sống của các thiền sư Nhật Bản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để trở thành Phật, các nhà sư Nhật Bản phải trải qua quá trình ướp xác người sống kéo dài 3.000 ngày với những công đoạn đau đớn, kiệt sức do ăn uống kham khổ và uống nhiều hóa chất độc hại.

Qua trinh uop xac song cua cac thien su Nhat Ban hinh anh
 
Nghi lễ ướp xác này được gọi là Sokushinbutsu. Nghi lễ này được hàng trăm nhà sư ở Nhật Bản thực hiện trong nhiều thế kỷ và coi đây là cách thức nhập cõi Niết Bàn. Tuy nhiên phương pháp này quá gian nan nên trong lịch sử nhân loại chỉ có khoảng 24 thiền sư nhập được cõi Niết Bàn, tôn thờ thành Phật.
 
Quá trình tự ướp xác kéo dài trong khoảng hơn 3.000 ngày và chia thành 3 giai đoạn chính. Theo đó, những nhà sư phải tuân thủ chế độ ăn uống vô cùng thanh đạm và kham khổ. Điểm được cho là cốt yếu, mang lại thành công của những nhà sư trong quá trình khổ luyện chính là giảm tối đa việc ăn uống, dần dần tuyệt thực.
 
Giai đoạn đầu tiên trong hành trình tự ướp xác là làm giảm thiểu lượng mỡ và thịt trong cơ thể – nguyên nhân chính gây ra tình trạng thối rữa và phân hủy ở những xác ướp.
 
Để làm được điều này, nhà sư phải thực hiện việc ăn kiêng kéo dài suốt 1.000 ngày. Họ chỉ được ăn một số loại hạt và quả dại hái ở khu vực xung quanh chùa như lạc, đậu tương hay quả dâu rừng.
 
Song song với việc ăn uống đạm bạc là việc thực hiện một loạt hoạt động thể chất với cường độ mạnh nhằm làm tiêu hao toàn bộ nguồn năng lượng tích trữ và năng lượng mới sinh.
 
Nhờ đó, lượng mỡ và thịt dần dần bị đẩy ra ngoài thông qua quá trình đốt cháy năng lượng trong lúc vận động. Kết quả là ngày qua ngày, những nhà sư chỉ còn lớp da bọc xương và chỉ đủ sức duy trì sự sống một cách yếu ớt.   Khi cơ thể hầu như không còn chút thịt nào, những nhà sư sẽ bước vào giai đoạn kế tiếp, kéo dài thêm 1.000 ngày để cơ thể hoàn toàn mất nước.
 
Trong suốt quá trình này, lượng thức ăn vốn đã ít ỏi của những nhà sư được rút xuống mức ít nhất có thể. Thay vì việc ăn quả và hạt như trước đây, những nhà sư chỉ ăn một chút vỏ và rễ cây. Lượng nước trong cơ thể họ dần cạn kiệt.
 
Tuy nhiên, 2.000 ngày ăn uống khổ cực có lẽ chẳng thấm vào đâu so với những đau đớn mà các nhà sư phải trải qua trong 1.000 ngày ở giai đoạn cuối cùng, giai đoạn “tẩm độc”. Hàng ngày những nhà sư sẽ uống một loại trà được chế từ nhựa cây Urushi – loại cây được dùng để sản xuất vecni trong công nghiệp đồ gỗ.
 
Loại trà độc này khiến người dùng bị nôn mửa, buồn tiểu nhiều, nhanh chóng tiêu hao lượng nước trong cơ thể. Bằng việc uống loại trà này, lượng nước ít ỏi còn lại trong cơ thể nhà sư sẽ bị đẩy ra ngoài. Bên cạnh đó, chất độc có trong loại trà sẽ dần ngấm vào xương của nhà sư, khiến các loài giòi, bọ không thể xâm nhập vào cơ thể.
 
Sau khi kết thúc quá trình “hành xác” kéo dài đúng 3.000 ngày, nhà sư sẽ tự giam mình trong một ngôi mộ được làm bằng đá nguyên khối. Thông thường, trước khi vào mộ, họ được phép mang những vật dụng cá nhân của mình để chôn cùng.   Một khoảng không gian nhỏ đủ để nhà sư ngồi bất động theo tư thế thiền hoa sen được đẽo gọt bên trong phiến đá. Sau khi bước vào ngôi mộ đá, cánh cửa mộ sẽ bị bịt kín lại, chỉ để hở một lỗ nhỏ cho không khí lưu thông.
 
Mỗi ngày, nhà sư sẽ rung chiếc chuông mà ông mang theo vào trong mộ 1 lần để báo với thế giới bên ngoài mình vẫn còn sống. Nếu một ngày, những vị sư khác trong chùa không còn nghe thấy tiếng chuông rung lên nữa thì lúc đó họ biết rằng, nhà sư đã viên tịch.   Khi ấy, họ sẽ đến bịt ống thông khí lại và tiếp tục chờ đợi thêm 1.000 ngày nữa trước khi bật nắp mộ ra để kiểm tra xem việc ướp xác thành công hay không.
 
Nếu như sau khi nắp mộ được mở ra và thấy trong ngôi mộ là một xác ướp nguyên vẹn, nhà sư đó lập tức được phong thành Phật và được đưa về chùa để thờ cúng. Ngược lại, nếu xác ướp bị thối rữa hoặc mục nát, những nhà sư khác sẽ mang đi chôn cất cẩn thận. Tuy nhiên, tên tuổi và cuộc đời của những nhà sư tự ướp xác không thành cũng dần đi vào quên lãng.   Mặc dù có khá nhiều người muốn thực hiện thuật tự ướp xác để được thành Phật. Song, do quá trình thực hiện rất khắc nghiệt và nhiều yếu tố nhân đạo, chính phủ Nhật Bản đã ra lệnh cấm thực hiện thuật này và hiện cũng không còn hệ phái Phật giáo nào thực hiện việc tự ướp xác này nữa.    ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quá trình ướp xác sống của các thiền sư Nhật Bản

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Xem tướng tay: Ngón áp út

Ngón áp út thật dài, cao hơn ngón trỏ và có gút là người ưa cờ bạc nhưng cũng là bàn tay nghệ sĩ gặt hái nhiều thành công. Hay tò mò, tự tin, tự đề cao để lấn áp người khác. Nếu đầu ngón áp út cong mảnh khảnh thì ưa thẩm mỷ, có năng khiếu nghệ thuật.
Xem tướng tay: Ngón áp út

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 - Ngón tay áp út ngắn: Không khoe khoang, tranh đua, không óc thẫm mỹ, cô độc.- Ngón tay áp út bè bè: Ưa kịch nghệ, khiêu vủ, thể thao, giàu nghị lực hoạt động.

- Ngón tay áp út có đường ngang trên lóng tay: Hay gặp khó khăn.

- Ngón tay áp út có đường hướng thượng trên lóng: Tình cảm tốt, thuận lợi.

- Ngón tay áp út dài: Có lý tưởng, có cá tính nghệ sĩ.

- Ngón tay áp út nhọn: Xa xỉ, ham cờ bạc.

- Ngón tay áp út vuông: Sành tâm lý, thực tế, kiên quyết.

- Ngón tay áp út dài hơn ngón trỏ: Thông minh, gặp nhiều may mắn vật chất.

- Ngón tay áp út quá dài: Nữa ưa bài bạc, ham tiền, ham nổi bật trên mọi phương diện.

- Lóng 1 dài (lóng có móng) : Ưa nghệ thuật.

- Lóng 1 thật dài: Khó hiểu, kỳ quặc.

- Lóng 1 ngắn: Tính đơn giản, ít đua đòi; ngược lại : Ưa cầu kỳ, thậm chí kiểu cách ngoài khả năng của mình.

- Lóng 1 dầy: Ưa nghệ thuật trong khoái lạc hình thể vật chất như điêu khắc, họa sĩ.

- Đầu lóng 1 tròn: Hoạt bát, dễ mến nhung có lúc thiển cận.

- Lóng 2 dài: Ước vọng mong đạt tới mục đích, có khiếu về sáng tác nghệ thuật, có thể nổi danh, nếu quá dài: tính kỳ quặc.

- Lóng 2 ngắn: Yếm thế, muốn vươn lên nhưng đầy lo ngại.

- Lóng 2 mập: Không có khiếu trong mỹ thuật.

- Lóng 2 có hình tròn: Sẽ bị loạn trí.

- Lóng 3 dài:. Ưa đòi hỏi cùng với sự khoe khoang.

- Lóng 3 ngắn: Hay thất bại.

- Lóng 3 mập: Sung túc.

- Lóng 3 ốm: Chập nhận sứ mạng, ít bận tâm tới tiền hay nghèo giàu.

Nguồn: Tổng hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tay: Ngón áp út

Xem tướng tư thế ngủ lột tả tính cách và tài vận của bạn –

Xem tướng. Ngủ giống như công việc thường làm hàng ngày, nhưng đã bao giờ bạn thử hỏi tư thế ngủ không đúng có thể ảnh hưởng đến tài vận không? Xem tướng ngủ của bạn Trái ngược với tư thế nằm thu mình, bạn là người vui vẻ phóng khoáng, chân thành đá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng. Ngủ giống như công việc thường làm hàng ngày, nhưng đã bao giờ bạn thử hỏi tư thế ngủ không đúng có thể ảnh hưởng đến tài vận không?

Xem tướng ngủ của bạn

Trái ngược với tư thế nằm thu mình, bạn là người vui vẻ phóng khoáng, chân thành đáng quý. Tuy nhiên không có điều gì là hoàn hảo cả. Trọng tâm cuộc sống của bạn phải bắt đầu từ việc tạo dựng niềm tin, học cách nhìn nhận sai lầm và khiếm khuyết của mình, phải hiểu rằng điều đó thực ra chính là cái giá để tự hoàn thiện bản thân mình, có như vậy hạnh phúc mới đến với bạn.

Nằm nghiêng – nằm nghiêng một bên

Tư thế ngủ này cho thấy bạn là người luôn có niềm tin. Do bạn luôn nỗ lực cố gắng nên làm bất cứ việc gì cũng đều có thể thành công. Tư thế này cho thấy họ có thể trở thành một người giàu có và có quyền thế trong tay.

Nằm nghiêng – thu mình

ngu2

Tư thế ngủ này cho thấy rõ cảm giác bất an của bạn, do vậy bạn có thể nảy sinh lòng ích kỷ, hay đố kỵ và có ý định phục thù. Vì bạn rất dễ cáu gắt, nên những người xung quanh đều phải hết sức dè chừng, tránh động chạm đến nỗi đau của bạn mà khiến bạn phẫn nộ.

Nằm nghiêng – co một chân

Đặc điểm tính cách của bạn là hay hoang mang sợ hãi và quá nhạy cảm. Bạn luôn thích than vãn và trách móc này nọ. Do vậy có thể đoán biết rằng, ngoài ra bạn cũng là người luôn có tâm trạng căng thằng, vì vậy rất dễ có những phản ứng gay gắt đối với những chuyện nhỏ nhặt. Bạn phải nhắc nhở bản thân rằng, cuộc sống thực ra chẳng có gì là ghê gớm cả, hãy học cách thả lỏng mình!

Nằm thẳng – duỗi chân giang tay

Luôn tự do và giàu nhiệt huyết! Tư thế ngủ này thể hiện rõ tính chân thành của bạn. Bạn là người luôn khiến người khác cảm thấy thoải mái, là người tôn thờ cái đẹp. Bạn có thể kiếm được nhiều tiền nhưng cũng tiêu xài hoang phí.

Một đặc điểm khác về tính cách khiến người khác không vui đó là, bạn hay xen vào những việc không đâu, và một điều tệ hại hơn là, bạn có vẻ là một người rất thích bới móc khuyết điểm của người khác. Như vậy thì ai muốn bạn trở thành nhân vật chính của câu chuyện tiếp theo?

Nằm thẳng – hai tay để sau gáy

ngu3

Bạn có trí thông minh tuyệt đỉnh và luôn nỗ lực học hỏi. Tuy nhiên đôi khi lại có ý nghĩ hoang đường, khiến người ta khó mà hiểu nổi, khó mà sánh bước cùng bạn. Bạn rất biết cách chăm sóc người thân, nhưng vấn đề chính là rất khó để yêu thương một ai đó.

Nằm thẳng – hai chân bắt chéo

Người có tư thế ngủ này thông thường đều có tính tự sướng, họ quen với mô thức sẵn có trong cuộc sống, do vậy rất khó chấp nhận sự thay đổi. Ở một mình có thể là sự lựa chọn tốt nhất trong tiềm thức của bạn. Hay nói cách khác, khả năng giải quyết vấn đề của bạn luôn phụ thuộc vào tính kiên nhẫn.

Tư thế khác – chân tay để sát người

Do luôn bị giằn vặt với những ký ức không mấy tốt đẹp trước đây, nên bạn luôn cảm thấy trống vắng, buồn tẻ, chìm đắm trong thất bại và sóng gió của quá khứ. Cũng chính vì như vậy mà bạn có vẻ là một người thiếu quyết đoán, hay trì trệ, không dứt khoát, ấn tượng của mọi người về bạn đó là bạn đã để tuột mất tình yêu của mình.

Tư thế khác – trùm chăn kín mít

ngu_ad

Ở những nơi công cộng bạn luôn tỏ ra là người vô tư, thoải mái và thẳng thắn, tuy nhiên trong thâm tâm bạn lại luôn ẩn chứa cảm giác thẹn thùng và yếu đuối. Nếu khó khăn trắc trở đến tới tập, bạn thà chịu đựng sự giày vò chứ không muốn nhờ người khác giúp đỡ. Hèn chi khi ngủ tư thế của bạn thật kỳ quặc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tư thế ngủ lột tả tính cách và tài vận của bạn –

Quy luật an vòng sao Trường Sinh trong tử vi

Cách an vòng sao Trường Sinh là một bí ẩn nằm chồng lên bí ẩn tam hợp cục trong tử vi. Đây là một trong những kiến thức tử vi rất cần thiết cho người muốn xem
Quy luật an vòng sao Trường Sinh trong tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách an vòng sao Trường Sinh là một bí ẩn nằm chồng lên bí ẩn tam hợp cục trong tử vi. Đây là một trong những kiến thức tử vi rất cần thiết cho người muốn xem số mệnh.

Quy luat an vong sao Truong Sinh trong tu vi hinh anh
 
Quy luật an vòng sao Trường Sinh được thiết kế trên nền móng tam hợp cục. Vị trí của các sao trong vòng Trường Sinh được phân bố theo cấu trúc của tam hợp cục. Chỗ khởi Trường Sinh tùy thuộc vào Cục.  Mà Tử Vi Cục thì ăn vào tam hợp cục. Hay nói cho rõ hơn:
 
• Tử Vi Thủy Cục ăn vào Tam Hợp Thủy Cục Thân – Tí – Thìn.
 
• Tử Vi Mộc Cục ăn vào Tam Hợp Mộc Cục Hợi – Mão - Mùi.
 
• Tử Vi Hỏa Cục ăn vào Tam Hợp Hỏa Cục Dần - Ngọ - Tuất.
 
• Tử Vi Kim Cục thì ăn vào Tam Hợp Kim Cục Thân – Tí - Thìn.
 
Theo đó, vòng sao Trường Sinh được phân bố như sau:
 
• Sinh - Vượng - Mộ của Tử Vi Thủy Cục ăn vào Thân – Tí - Thìn của Tam Hợp Thủy Cục.
 
• Sinh - Vượng - Mộ của Tử Vi Mộc Cục ăn vào Hợi – Mão - Mùi của Tam Hợp Mộc Cục.
 
• Sinh - Vượng - Mộ của Tử Vi Hỏa Cục ăn vào Dần - Ngọ - Tuất của Tam Hợp Hỏa Cục.
 
• Sinh - Vượng - Mộ của Tử Vi Kim Cục ăn vào Tỵ - Dậu - Sửu của Tam Hợp Kim Cục.
 
Tất cả Thổ Cục trong Lục Thập Hoa Giáp gồm có: Canh Ngọ, Tân Mùi (Lộ Bàng Thổ), Mậu Dần, Kỷ Mão (Thành Đầu Thổ), Bính Tuất, Đinh Hợi (Ốc Thượng Thổ), Canh Tí, Tân Sửu (Bích Thượng Thổ), Mậu Thân, Kỷ Dậu (Đại Trạch Thổ), Bính Thìn, Đinh Tỵ (Sa Trung Thổ).
 
Luận theo tử vi thì nếu đương số là:
 
Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Mộc tức là Thổ Cục Sửu/Dần/Mão (Thổ Cục Tân Sửu, Thổ Cục Mậu Dần, Thổ Cục Kỷ Mão), thì vòng Trường Sinh sẽ được an theo Mộc Cục. 
 
Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Hỏa tức là Thổ Cục Thìn/Tỵ/Ngọ (Thổ Cục Bính Thìn, Thổ Cục Đinh Tỵ, Thổ Cục Canh Ngọ), thì vòng Trường Sinh sẽ được an theo Hỏa Cục. 
 
Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Kim, tức là Thổ Cục Mùi/Thân/Dậu (Thổ Cục Tân Mùi, Thổ Cục Mậu Thân, Thổ Cục Kỷ Dậu), thì vòng Trường Sinh sẽ được an theo Kim Cục.
 
Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Thủy, tức là Thổ Cục Tuất/Hợi/Tí (Thổ Cục Bính Tuất, Thổ Cục Đinh Hợi, Thổ Cục Canh Tí), thì vòng Trường Sinh sẽ được an theo Thủy Cục.

Các Cục khác luận đoán tương tự.
 
Chỉ an vòng sao Trường Sinh theo một chiều, đó là chiều kim đồng hồ, dù là Âm Nam hay Dương Nam, Âm Nữ hay Dương Nữ.  Làm ngược lại sẽ vi phạm nguyên lý.  
 
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả công cụ tra cứu tử vi năm 2016 chuẩn xác nhất

Theo Việt dịch

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quy luật an vòng sao Trường Sinh trong tử vi

Khám phá giấc mơ mua bán

Trong giấc mơ, thấy cảnh buôn bán mặc cả, ám chỉ rằng, bạn đang quá tính toán, chi ly và không muốn thua kém người khác.
Khám phá giấc mơ mua bán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Trong giấc mơ, thấy cảnh buôn bán mặc cả, ám chỉ rằng, bạn đang quá tính toán, chi ly và không muốn thua kém người khác. 



Kham pha giac mo mua ban hinh anh
Ảnh minh họa
  Nếu bạn là nam giới, cảnh mặc cả trong mơ có ý nhắc nhở bạn, không nên chủ quan và bảo thủ trong cư xử, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của những người xung quanh sẽ giúp bạn tiến bộ hơn.   Nữ giới mơ thấy cảnh mặc cả, ám chỉ bạn đã nói quá nhiều trong các cuộc chuyện trò. Hãy nói những vấn đề cần thiết và nhường chỗ cho bạn bè mình cùng tham gia câu chuyện.    Hình ảnh "tay xách nách mang" hàng hóa trong mơ, báo hiệu bạn đang mong muốn được người khác tôn trọng và đối xử tốt với mình. Bên cạnh đó, nó còn có ngụ ý, bạn luôn khao khát tìm được người để trao gửi tình yêu thương. Có thể các mối quan hệ của bạn chưa thật hoàn hảo nhưng hãy tin rằng, nếu bạn sống tốt, 1 ngày gần đây mọi người sẽ hiểu, yêu mến và nhất định sẽ có người đón nhận tình yêu của bạn.   Trong giấc mơ, nếu bạn đi mua hàng cùng mẹ là điềm báo, tâm lý của bạn chưa ổn định. Có thể bạn có thể bạn chưa thật sự chín chắn với lứa tuổi của mình.    Bạn thấy mình đứng trước quấy hàng gọi ông chủ hay nhân viên phục vụ nhưng không một ai tiếp đón; hay bạn muốn mua 1 món hàng nhưng trong ví chỉ có mấy đồng bạc lẻ, bạn cảm thấy lo lắng bất an... 2 giấc mơ này ngụ ý, bạn đang mất niềm tin vào chính mình.    Nếu cùng giấc mơ này nhưng khi trả tiền xảy ra tranh chấp giữa bạn với nhân viên thu ngân báo hiệu, bạn đang thiếu năng lực trong công việc.

Đừng quá lo lắng, hãy làm việc chăm chỉ và không ngừng học hỏi các đồng nghiệp, chắc chắn bạn sẽ tiến bộ và mọi việc sẽ ổn thỏa. 

Theo Giấc mơ & vận mệnh con người trong cuộc sống
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá giấc mơ mua bán

Muốn có hỷ sự, kích hoạt ngay sao Hồng Loan, Thiên Hỷ

Mãi chưa tìm được người thương, chuyện hôn nhân chậm trễ dù đã tích cực, chủ động, cố gắng rất nhiều? Ấy là vì bạn chưa biết cách kích hoạt sao Hồng Loan và
Muốn có hỷ sự, kích hoạt ngay sao Hồng Loan, Thiên Hỷ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Hỷ đấy thôi.


Muon co hy su, kich hoat ngay sao Hong Loan, Thien Hy hinh anh
 
Thường khi nhắc tới đường tình duyên, người ta nghĩ ngay tới sao Đào Hoa. Nhưng nếu chỉ kích hoạt sao Đào Hoa mà không kích hoạt sao Hồng Loan hoặc sao Thiên Hỷ thì đương số tuy đã có đời sống ái tình sung mãn, đã “thoát” cảnh “ế ẩm tơ duyên”  nhưng hỷ sự vẫn rất khó thành.
 
Năm gặp sao Hồng Loan là năm được lợi về hôn nhân, năm gặp sao Thiên Hỷ là năm tốt đẹp cho việc cưới hỏi.
 
Tuổi Tý: Hồng Loan vượng tại Mão - Thiên Hỷ vượng tại Dậu.
 
Tuổi Sửu: Hồng Loan vượng tại Dần - Thiên Hỷ vượng tại Thân.
 
Tuổi Dần: Hồng Loan vượng tại Sửu - Thiên Hỷ vượng tại Mùi.
 
Tuổi Mão: Hồng Loan vượng tại Tý - Thiên Hỷ vượng tại Ngọ.
 
Tuổi Thìn: Hồng Loan vượng tại Hợi - Thiên Hỷ vượng tại Tỵ.
 
Tuổi Tỵ: Hồng Loan vượng tại Tuất - Thiên Hỷ vượng tại Thìn.
 
Tuổi Ngọ: Hồng Loan vượng tại Dậu - Thiên Hỷ vượng tại Mão.
 
Tuổi Mùi: Hồng Loan vượng tại Thân - Thiên Hỷ vượng tại Dần.
 
Tuổi Thân: Hồng Loan vượng tại Mùi - Thiên Hỷ vượng tại Sửu.
 
Tuổi Dậu: Hồng Loan vượng tại Ngọ - Thiên Hỷ vượng tại Tý.
 
Tuổi Tuất: Hồng Loan vượng tại Tỵ - Thiên Hỷ vượng tại Hợi.
 
Tuổi Hợi: Hồng Loan vượng tại Thìn - Thiên Hỷ vượng tại Tuất.
 
Sau khi đã xác định được vị trí (hướng lợi và thời gian vượng nhất) của hai sao Hồng Loan, Thiên Hỷ, thì tùy theo ý muốn (nên căn cứ vào lá số, coi hạn lập gia đình để chọn thời điểm thích hợp) mà đặt bình hoa (màu sắc) và số lượng hoa như đã làm với sao Đào Hoa để kích hoạt sao Hồng Loan hoặc sao Thiên Hỷ đem lại may mắn cho hỷ sự.
 
- Tuổi Tỵ sao Hồng Loan vượng tại Tuất, sao Thiên Hỷ vượng tại Thìn thì chọn tháng Ngọ, ngày Ngọ, giờ Ngọ năm Tuất hoặc năm Thìn đặt bình hoa màu đỏ, cắm 9 bông hoa ở không gian phía Nam hoặc đặt ở phía Nam của phòng ngủ để kích hoạt vận đào hoa cho tình duyên và hỷ sự.
 
- Tuổi Ngọ sao Hồng Loan vượng tại Dậu, sao Thiên Hỷ vượng tại Mão thì chọn tháng Mão, ngày Mão, giờ Mão năm Dậu hoặc năm Mão đặt bình hoa màu đỏ, cắm 9 bông hoa ở không gian phía Đông hoặc đặt ở phía Đông của phòng ngủ để kích hoạt vận đào hoa cho tình duyên và hỷ sự.
 
- Tuổi Mùi sao Hồng Loan vượng tại Thân, sao Thiên Hỷ vượng tại Dần thì chọn tháng Tý, ngày Tý, giờ Tý năm Thân hoặc năm Dần đặt bình hoa màu vàng, cắm 5 bông hoa ở không gian phía Bắc hoặc đặt ở phía Bắc của phòng ngủ để kích hoạt vận đào hoa cho tình duyên và hỷ sự.
 
- Tuổi Thân sao Hồng Loan vượng tại Mùi, sao Thiên Hỷ vượng tại Sửu thì chọn tháng Dậu, ngày Dậu, giờ Dậu năm Mùi hoặc năm Sửu đặt bình hoa màu trắng, cắm 7 bông hoa ở không gian phía Tây hoặc đặt ở phía Tây của phòng ngủ để kích hoạt vận đào hoa cho tình duyên và hỷ sự.
 
Các tuổi khác, căn cứ vào vị trí Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ của tuổi mà suy luận tương tự.
► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn có hỷ sự, kích hoạt ngay sao Hồng Loan, Thiên Hỷ

Bài trí tượng ông Thọ, đào tiên để khỏe mạnh và sống lâu

Bài trí hình tượng ông Thọ trong nhà là một trong những cách tốt nhất giúp các thành viên trong gia đình bạn khỏe mạnh.
Bài trí tượng ông Thọ, đào tiên để khỏe mạnh và sống lâu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sang năm mới mọi người thường chúc nhau tài lộc dồi dào, gia đình hạnh phúc. Với người cao tuổi thì thì điều mà mọi người muốn nghe nhất là là lời chúc sức khỏe, sống trường thọ cùng con cháu.

Tượng ông Thọ

Trưng bày tượng ông Thọ trong nhà đem lại may mắn cho gia chủ

Biểu tượng phổ biến nhất của tuổi thọ chính là Thọ Tinh Công, một trong tam tượng Phúc Lộc Thọ mà chúng ta hay trưng bày trong nhà. Người xưa quan niệm rằng, quà mừng thọ cho ông bà cha mẹ không có gì ý nghĩa hơn là bức tượng ông Thọ.

Bài trí tượng ông Thọ trong nhà là một trong những cách tốt nhất giúp các thành viên trong gia đình bạn khỏe mạnh.

Trái đào

Theo truyền thuyết của người Trung Quốc, cây đào tiên thường được trồng ở phía Tây của thiên đình và phải hàng ngàn năm mới đơm hoa kết quả. Đây được xem là loại hoa quả biểu trưng cho sự bất tử và hôn nhân gia đình.

Theo quan niệm của người xưa, nếu được ăn đào tiên chắc chắn sẽ sống lâu. Đeo những miếng gỗ nhỏ lấy từ cây đào tiên cũng có khả năng giúp chống lại bệnh tật vì chúng có tác dụng như những miếng bùa hộ mệnh đặc biệt. Trong buổi lễ thành hôn, người ta hay trưng bày hình ảnh các quả đào như một lời chúc phúc cho cô dâu và chú rể.

Vào dịp tết, con cháu cũng thường dâng tặng ông bà, cha mẹ quả đào để mừng tuổi và mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với người thân yêu của mình.

(Theo Doanhnhan360)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí tượng ông Thọ, đào tiên để khỏe mạnh và sống lâu

SAO LỘC TỒN TRONG TỬ VI

lộc tồn (Thổ) *** 1. Ý nghĩa tài lộc: Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư dật về tiền bạc, ý nghĩa công danh là...
SAO LỘC TỒN TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lộc tồn (Thổ) 



***
1. Ý nghĩa tài lộc: Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư dật về tiền bạc, ý nghĩa công danh là thứ yếu. Sự giàu có thường do 2 nguyên nhân:             - do di sản tổ phụ để lại: người có Lộc Tồn ở Mệnh, Phúc bao giờ cũng được hưởng của tổ phụ, nhiều khi truyền kiếp, lưu truyền đến 2, 3 đời.             - do người khác biếu xén: Lộc Tồn chỉ sự có "lộc ăn", được người khác ban tặng, giúp đỡ. Nặng về ý nghĩa tiền bạc, Lộc Tồn đi với các sao tài sẽ hết sức phát đạt. Đó là: Tử Vi, Vũ Khúc, Thiên Phủ đắc địa (chính tinh), Thiên Mã, Tràng Sinh, Đế Vượng, Hóa Lộc, Long Trì, Phượng Các, Tả Phù, Hữu Bật, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc.
2. Ý nghĩa tính tình:             - thông minh, học rộng             - có tài tổ chức, có nhiều sáng kiến, biết quyền biến theo nhiều hoàn cảnh             - tính nhân hậu, từ thiện             - đoan chính, chế được tính lả lơi của Đào Hồng. Đi với Hóa Lộc sẽ có nghĩa:             - độc đoán             - chuyên quyền, có óc lãnh tụ
3. Ý nghĩa công danh, phúc thọ: Có Lộc Tồn ở Mệnh thì vinh hiển, sống lâu.
4. Ý nghĩa tử tức, phu thê: Lộc Tồn là 1 trong các sao chỉ sự hiếm muộn. Đóng ở cung Tử thì chậm con và hiếm con. Ngoài ra, Lộc Tồn cũng có nghĩa chậm trễ. Tại cung Phu Thê thì muộn vợ/chồng. Tại cung Tài thì chậm có của, sự phát đạt chỉ có về sau.
5. Ý nghĩa của lộc tồn và một số sao khác: Đồng cung hay hội chiếu với các sao tài, Lộc Tồn chủ sự thịnh vượng về tiền bạc. Nếu gặp sao xấu, ý nghĩa tài lộc giảm hay mất đi nhiều
Tồn, Tuần Triệt hay Phá: 1 trong 3 sao này hóa giải gần hết hiệu lực của Lộc Tồn về mặt tài chính.
Tồn, Không, Kiếp: như trên, ngoài ra còn có nghĩa có tiền được một thời gian ngắn rồi phá sản mau lẹ và khủng khiếp, bị tai họa tiền bạc.
Tồn, Kỵ, Tuế: có tiền nhưng bị hao tán, bị ăn chặn, bị dị nghị
Lộc Tồn, Thiên Không: tham nhũng, hối lộ, bị chúng ghét, ích kỷ, hà tiện.
Tồn, Cự, Nhật đồng cung: phá sức sáng của Tồn rất nhiều.
Tồn, Lộc: tiền bạc bị giảm, bị lụy thân vì tiền.
6. Ý nghĩa của lộc tồn  ở các cung: Sao này đóng ở cung nào thì ban tài lộc cho cung đó. Riêng ở cung Tật thì giải họa, giải bệnh nếu không gặp sát tinh.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO LỘC TỒN TRONG TỬ VI

Những giấc mơ ác –

Sách Chu lễ chép: "Phàm là các quan Thái bốc (chiêm mộng) được triều đình phong hàm tam phẩm trở lên đều có nhiệm vụ nắm vững điềm lành điềm dữ trong triều để báo trước cho hoàng đế, các triều thần để ứng phó hoặc triển khai đại sự." Hàng năm, vào mù
Những giấc mơ ác –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những giấc mơ ác –

Lắng nghe bàn chân bật mí tính cách chủ nhân

Lòng bàn chân phẳng hay lõm, ngón chân cái hay ngón trỏ dài hơn... đều có thể cho biết những điều bất ngờ về chủ nhân của nó.
Lắng nghe bàn chân bật mí tính cách chủ nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

foot2-7675-1409895300.jpg

Theo Vnexpress


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lắng nghe bàn chân bật mí tính cách chủ nhân

Bắt gọn tướng người "thùng rỗng kêu to"

Tướng người thùng rỗng kêu to: Bề ngoài họ tỏ ra hiểu biết, nói năng lưu loát nhưng thực chất bên trong lại tiềm ẩn sự lo lắng vì sợ người khác biết điểm yếu
Bắt gọn tướng người "thùng rỗng kêu to"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bề ngoài họ tỏ ra hiểu biết, nói năng lưu loát nhưng thực chất bên trong lại tiềm ẩn sự lo lắng vì sợ người khác biết điểm yếu của mình.


1. Cách nói chuyện nhanh trước chậm sau


Những ai có thói quen khi bắt đầu một câu chuyện thì nói rất nhanh để vừa thể hiện ta đây là người hiểu biết hoặc để trấn áp người khác nhưng càng về sau tần suất và tốc độ lời nói càng giảm, chứng tỏ là người có tư duy kém cỏi, là tướng người “thùng rỗng kêu to”.

Người xưa có câu “hữu xạ tự nhiên hương” ý chỉ người càng có năng lực, càng giỏi giang thì lại ít khi thể hiện bản thân. Nhưng một khi họ đã lên tiếng thì ai nấy đều phải thán phục tài năng của họ.

Bat gon tuong nguoi thung rong keu to hinh anh
Ảnh minh họa

2. Hai đuôi mắt trễ xuống thành hình chữ “Bát”


Trong nhân tướng học coi đây là tướng mắt của người thiếu sự chân thành. Hơn thế, khuôn mặt không hài hòa này khiến người đối diện có cảm giác bất an, không muốn kéo dài cuộc trò chuyện.

Ngoài ra, người này thích sĩ diện, khéo che giấu cảm xúc cá nhân cũng như những điểm của mình, khéo đóng kịch, hay tâng bốc tài năng và địa vị của bản thân nhằm có được sự tin tưởng của người khác.

3. Ngũ quan không hài hòa, gầy trơ xương


Ngũ quan chính là 5 bộ phận trọng yếu trên khuôn mặt (mắt, mũi, miệng, tai, lông mày). Nếu ngũ quan thiếu sự hài hòa, các bộ phận trọng yếu này gầy gò, xương xẩu, không đồng nhất chứng tỏ chỉ số EQ (chỉ số về cảm xúc) thấp. Thông thường những doanh nhân thành đạt, chính trị gia thường có chỉ số này khá cao, đồng nghĩa với việc những đặc điểm ngũ quan hài hòa.

Người có ngũ quan không hài hòa thường rất lí tính, tác phong nhanh nhẹn, thậm chí khi nói còn hay “cướp” lời người khác để thể hiện ta đây là người hiểu biết. Nhưng thực chất bên trong họ rất sợ để cho mọi người thấy sự thiếu tự tin hoặc kém cỏi của bản thân.

4. Lông mày thưa và đứt đoạn

Đa phần người có lông mày thưa thớt lại đứt đoạn sống khá tình cảm, tác phong nhanh nhẹn đàng hoàng và khá ngay thẳng. Tuy nhiên người này chỉ có thể hạ quyết tâm nhất thời, hễ gặp phải khó khăn trở ngại là chùn bước, bỏ cuộc giữa chừng.

Trong cuộc sống hàng ngày, người này tỏ ra mình khá hoàn hảo, luôn phấn đấu không ngừng để thể hiện bản thân. Họ sẵn sàng tranh luận nảy lửa với đối thủ để bảo vệ quan điểm sống của mình. Đôi khi vì thể hiện thái quá khiến mọi người xung quanh cảm thấy khó chịu, ngại tiếp xúc.

5. Miệng rộng để lộ hàm và răng khi nói chuyện


Những người có tướng miệng rộng, khi nói chuyện để lộ hàm và răng, thậm chí nước bọt bắn ra ngoài thường thích thể hiện bản thân, nói nhiều, thậm chí lúc nào cũng ồn ào, nói năng khoác lác nhằm gây sự chú ý của mọi người.

► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Theo Tử vi số mệnh

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bắt gọn tướng người "thùng rỗng kêu to"

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd