Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Khoa học vào cuộc giải mã bàn cầu cơ

Nhiều người tin rằng bàn cầu cơ có thể đoán trước tương lai nhưng các nhà khoa học đã chứng minh điều đó hoàn toàn không có thật.
Khoa học vào cuộc giải mã bàn cầu cơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn cầu cơ là trò chơi tâm linh rất phổ biến trong những năm 1840-1850 và vẫn còn phổ biến đến tận ngày nay. Nhiều người tin rằng nó có thể đoán trước tương lai nhưng các nhà khoa học đã chứng minh điều đó hoàn toàn không có thật.

Khoa hoc vao cuoc giai ma ban cau co hinh anh
 
Bàn cầu cơ bao gồm một bảng chứ cái, chữ số và hai từ “có” hoặc “không”. Nhưng người tham gia sẽ cùng nhau đặt tay lên một mảnh gỗ trên bảng và yêu cầu linh hồn (có thể là người thân đã qua đời) trả lời câu hỏi nào đó. Linh hồn sẽ di chuyển mảnh gỗ từ chữ cái này đến chữ cái khác, cuối cùng tạo ra một lời nhắn hay câu trả lời cho câu hỏi, mặc dù những người đặt tay lên đó khẳng định không hề dùng tay di chuyển miếng gỗ. 
 
Nhà vật lý nổi tiếng Michael Faraday đã tìm hiểu vấn đề này. Ông phát hiện ra rằng mảnh gỗ di chuyển nhờ vào ảnh hưởng của hiệu ứng vô thức, sức mạnh cơ bắp của những người tham gia gây ra sự chuyển động, do họ kỳ vọng mảnh gỗ di chuyển. Vì vậy hiện tượng trên không phải do linh hồn tạo ra.
 
Nhóm các nhà khoa học thuộc ĐH British Columbia cũng tiến hành các thí nghiệm, giải mã bí ẩn về bàn cầu cơ. Các tình nguyện viên tham gia sẽ bị bịt mắt và sử dụng cầu cơ. Họ bị làm cho tin rằng, mình đang chơi cùng với người khác, điều này giúp tối đa hóa hiệu ứng vô thức có thể xảy ra. 
 
Sau đó, họ bị hỏi và trả lời câu hỏi nhờ cầu cơ một cách hết sức bình thường, tự nhiên. Sử dụng bàn cầu cơ xong, họ sẽ bị hỏi lại những câu hỏi ấy nhưng phải trả lời bằng cách gõ đáp án lên máy tính.
 
Kết quả cho thấy, nếu người chơi không biết câu trả lời, đáp án của họ trên máy tính chỉ đúng một nửa. Tuy nhiên, khi sử dụng cầu cơ, tỉ lệ đúng lên tới 65%. Điều ấy chứng minh, trong tiềm thức con người đã có ý niệm về đáp án đúng và bàn cầu cơ đã giúp họ thể hiện linh cảm đó.
 
Giới khoa học đã công nhận giả thuyết ấy và câu chuyện bí ẩn về cầu cơ được khép lại nhưng có vẻ như câu hỏi về chuyện có hay không những linh hồn vẫn còn là điều bí ẩn.
► Tham khảo thêm: Những lời tiên tri của Vanga gây chấn động thế giới

Theo Khoahoc.tv

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khoa học vào cuộc giải mã bàn cầu cơ

Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý, Tuổi tý, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý, tu vi Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý, tu vi Tuổi tý
Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý

Hướng dẫn cách trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý. Tuổi Tý nên trang trí nhà bằng gam màu chủ đạo là trắng,.. nên tránh sử dụng các màu vàng, da cam, đỏ và tím trong nhà. Theo tử vi người tuổi Tý thuộc hành thủy, tương ứng với các màu đen và xanh lam. Do kim sinh thủy, người tuổi Tý nên trang trí nhà bằng gam màu chủ đạo là trắng. Bên cạnh đó, do thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa nên người tuổi này nên tránh sử dụng các màu vàng, da cam, đỏ và tím.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 1Người tuổi Tý nên trang trí nhà bằng gam màu trắng   Màu sắc trong ngôi nhà là yếu tố đầu tiên tạo nên ấn tượng thẩm mỹ cho khách đến chơi. Các gam màu nhạt và tươi mang ý nghĩa chỉ sự phát triển, mở rộng. Ngược lại, các gam màu sẫm lại hàm ý sự thụt lùi và thu hẹp. Vậy bạn nên kết hợp hai thứ màu sắc này thế nào để tạo ra không gian vừa đẹp mắt, vừa có thể thúc đẩy tài vận và sự đào hoa cho ngườituổi Tý?   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 2Nội thất màu đen – trắng mang lại sự hiện đại và tinh tế.   Xem boi màu sắc nên dùng cho người tuổi Tý: Màu đen tuyền mang lại cảm giác vừa cao quý, vừa nghiêm trang. Màu xanh lam thể hiện sự trường tồn, thanh thản và niềm tin. Hai gam màu bản mệnh này của người tuổi Tý vừa dễ phối hợp với màu trắng của hành kim, vừa khiến không gian ngôi nhà trở nên sang trọng.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 3Sự kết hợp giữa lam – trắng mang lại sự giản dị, bình yên.   Người tuổi Tý hợp với Thân, Thìn và Sửu, do đó nên trang trí hình các con vật này trong nhà. Nên tránh trang trí các hình xung với Tý là Ngọ và Mão.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 4Người tuổi Tý không nên trang trí hình Ngọ và Mão trong nhà.   Trong số 12 con giáp, Tý và Sửu là đôi bạn khá thân thiết. Sự kết hợp giữa đôi bạn này có thể xem như quý nhân của nhau. Con trâu biểu tượng cho sự may mắn, sẽ mang lại cho người tuổi Tý hạnh phúc, bình an và sức khỏe dồi dào. Để tăng cường sức khỏe, người tuổi Tý nên đeo hoặc treo trong nhà mặt dây chuyền có hình Sửu.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 5 Dây chuyền hình trâu sẽ hỗ trợ sức khỏe của người tuổi Tý.

 Bên cạnh đó cũng có thể thay thế hình trâu bằng vật trang trí hình khỉ và rồng. 

Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 6

Ngoài ra, vật đem lại may mắn và sức khỏe mà người tuổi Tý nên có là tượng voi và chuột. Bạn nên đặt nó ở phía Tây trong phòng ngủ, trên tủ kê ở đầu giường hoặc phía trái trên bàn làm việc. Cách trang trí này sẽ giúp xua đuổi bệnh tật và mang lại điều lành. 

Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 7Tượng voi mang lại điều lành cho người tuổi Tý.   Người tuổi Tý nên trồng 1 hoặc 6 chậu cây trong nhà. Các loại cây phù hợp là thủy quỳ, dương xỉ, xương rồng tròn, thường xuân, trúc phú quý, cây đại tướng quân (còn gọi là náng, chuối nước hay tỏi voi) và lục thảo trổ.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 8Cây thủy quỳ.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 9Cây dương xỉ.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 10Xương rồng tròn.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 11Cây thường xuân.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 12Cây trúc phú quý.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 13Cây đại tướng quân.   Cách trang trí nhà theo phong thủy cho người tuổi Tý 14Cây lục thảo trổ.   Người tuổi Tý nên chọn nhà ở có số tầng và số nhà có đuôi là 1 hoặc 6, như 1, 6, 11, 16,… và  kị các con số có đuôi là 0, 3, 5, 8. Ở nơi làm việc, họ nên chọn các tầng có số đuôi là 2 hoặc 7, và không nên chọn các tầng có số 4 và 9 ở đuôi.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí nhà theo phong thủy người tuổi Tý - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Các linh vật phong thủy giúp "tiền vào nhà như nước"

Trong tín ngưỡng phương Đông, có một số loài vật linh thiêng mà chỉ cần để những biểu tượng thay thế hoặc tranh của chúng trong nhà cũng sẽ đem lại may mắn và tiền tài cho gia chủ.
Các linh vật phong thủy giúp "tiền vào nhà như nước"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Rồng

nhung-linh-vat-phong-thuy-mang-lai-may-man-tai-loc-cho-gia-chu-neu-de-trong-nha

Rồng là biểu tượng may mắn phổ biến trong dân gian từ xưa đến nay. Chỉ cần để trong nhà hoặc văn phòng làm việc một bức họa hay bức tượng hình con rồng cũng đủ để thu hút nguồn năng lượng tích cực, mang đến sự phú quý cho bạn. Đặc biệt là những bức tượng hoặc tranh hình con rồng với tông màu xanh lá, đỏ hoặc tím sẽ đem lại sự thịnh vượng trường tồn.

Bạn có thể chọn các biểu tượng rồng để trang trí ngôi nhà như: tranh ảnh, tượng, bát đĩa, lọ gốm sứ hoặc các đồ vật khác, miễn là có hình con rồng. Và nhớ là phải đặt chúng ở hướng tài lộc của bạn nhé.

2. Phúc Cẩu

nhung-linh-vat-phong-thuy-mang-lai-may-man-tai-loc-cho-gia-chu-neu-de-trong-nha-1

Trang trí cổng nhà hoặc cửa chính bằng một cặp chó đá khá giống sư tử hay còn gọi là "Phúc Cẩu" rất phổ biến ở Trung Quốc và các nước Châu Á khác. Phúc cẩu có tác dụng canh giữ và bảo vệ gia chủ khỏi những tác động tiêu cực từ bên ngoài xâm lấn, ngay cả khi gia chủ không ở nhà. Kích thước của bức tượng không làm ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ của nó theo phong thủy. Tuy nhiên, nên cố gắng để hòa hợp giữa kích thước ngôi nhà của bạn và cặp tượng đá để đem lại hiệu quả tốt nhất. 

3. Cá vàng

nhung-linh-vat-phong-thuy-mang-lai-may-man-tai-loc-cho-gia-chu-neu-de-trong-nha-2

Nuôi một bể cá vàng sẽ giúp đem lại tiền tài cho gia chủ. Lưu ý là nếu số cá vàng là số lẻ, sẽ làm tăng vận khí may mắn của bạn, giúp bạn ngày càng phát đạt hơn. Còn nếu số cá vàng là số chẵn, sẽ giúp bảo vệ và duy trì mức độ giàu có và của cải hiện tại của bạn. Nếu phát hiện cá trong bể bị chết hoặc có vấn đề bệnh tật, nên thay ngay.

4. Cóc ba chân ngậm tiền xu (Thiềm Thừ)

nhung-linh-vat-phong-thuy-mang-lai-may-man-tai-loc-cho-gia-chu-neu-de-trong-nha-3

Tương truyền từ thời xa xưa, có một người nông dân đã cứu một con cóc khỏi một cái giếng và thế là ngày nào con cóc đó cũng ngậm trong miệng một đồng vàng mang tặng ân nhân của mình để báo đáp ơn cứu mạng, Từ đó, hình ảnh con cóc đại diện cho kho tiền "từ trên trời rơi xuống", nếu ai sở hữu một bức tượng con cóc ba chân ngậm đồng xu sẽ ngập trong tiền bạc và giàu sang. Khi đặt tượng cóc trong nhà, lưu ý phải để đầu con cóc hướng vào trong nhà, tuyệt đối không để hướng ra ngoài. Nếu không, tiền bạc sẽ theo hướng đó mà đi ra khỏi nhà bạn đấy.

5. Những linh vật khác

cac-linh-vat-phong-thuy-giup-tien-vao-nha-nhu-nuoc-4

Hạc...

cac-linh-vat-phong-thuy-giup-tien-vao-nha-nhu-nuoc-5

...Voi 

cac-linh-vat-phong-thuy-giup-tien-vao-nha-nhu-nuoc-6

...và Rùa cũng là linh vật mang lại tấn tài tấn lộc cho gia chủ

Ngoài những linh vật kể trên, còn có một số các linh vật khác cũng gắn liền với sự may mắn, sung túc như:

Chim hạc - biểu tượng của sự trường thọ và may mắn,

Voi - giúp chủ nhà làm ăn yên ổn, hạnh phúc,

Rùa - đại diện linh thiêng của phúc lộc dồi dào, hanh thông.

Để tượng hoăc tranh có hình ảnh những loài vật này trong nhà sẽ mang lại cho bạn hạnh phúc ấm êm, đầy đủ cả Phúc - Lộc - Thọ.

Alexandra V (theo Exemplore)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các linh vật phong thủy giúp "tiền vào nhà như nước"

Cổng làng ma ám với xe Exciter, những cái chết bí ẩn

Mặc dù mới xây đươc 4 năm nhưng cổng làng ma ám Nhĩ Thượng đã chứng kiến 25 vụ tai nạn với 6 cái chết thương tâm, hàng chục người phải vào viện.
Cổng làng ma ám với xe Exciter, những cái chết bí ẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặc dù mới xây đươc 4 năm nhưng cổng làng Nhĩ Thượng đã chứng kiến 25 vụ tai nạn với 6 cái chết thương tâm, hàng chục người phải vào viện. Những cái chết cùng giờ, cùng địa điểm, cùng đi xe Exciter, vậy "bí ẩn" là gì?

 
► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

Tai nạn cùng giờ, chết cùng địa điểm

  Đoạn đường dẫn vào cổng làng ma ám Nhĩ Thượng cách con đường chính lên huyện khoảng chừng 800m. Trên đoạn đường này không có nhà ở, dọc hai bên đường là ruộng lúa và một ít lăng mộ.Đến đầu năm 2012, đoạn đường được huyện đầu tư mở rộng và đổ nhựa, lòng đường rộng gần 5m.
Cong lang ma am voi xe Exciter, nhung cai chet bi an hinh anh
Cổng làng Nhĩ Thượng

 
Hoàn thành con đường mới được một tháng, thì trên đoạn đường này cách cổng làng khoảng 100m đã xảy ra một tai nạn lạ lùng. Một cán bộ trung tâm y tế dự phòng của huyện (quê xã Trung Giang), trên đường đi làm về lúc khoảng 7h tối thì tự gây tai nạn chết ngay tại chỗ. Không có ai đâm vào xe của người này. Người chạy xe tự trượt xe ngã xuống, đầu đập mạnh xuống nền đường dẫn đến tử vong.   Sau cái chết đó chưa được bao lâu thì đến lượt một người đàn ông quê xã Gio Hải khi đi tắt qua đoạn đường này về nhà thì gặp tai nạn chết. Ông Nguyễn Đức, người chứng kiến vụ này kể lại “ Lúc đó cũng khoảng chừng gần 7h tối, trời vẫn còn sáng vì mùa hè, tôi đang dắt con trâu dưới ruộng lên để lùa về nhà thì thấy anh ấy chạy xe máy hướng về cổng làng. Cách cổng làng khoảng 100m đang có một xe tải chạy cùng chiều. Anh ấy tự dưng loạng choạng tay lái rồi đâm thẳng vào sau xe ô tô”. Cú va chạm mạnh làm người đi xe máy văng khỏi xe, rơi xuống ruộng, chết tại chỗ.   Vài tháng sau “đến lượt” một nam thanh niên trong thôn, vừa tốt nghiệp cao đẳng, đang trên đường về quê sau thời gian xa nhà. Người mẹ đau đớn kể lại: “Nó nói với tôi qua điện thoại: “Mẹ ơi đợi cơm con, khoảng 30 phút nữa con sẽ về với mẹ”, thế nhưng nó mãi mãi không bao giờ về với tôi nữa, oan nghiệt quá”.   Sau hàng loạt những tai nạn bất thường, ai đi qua đoạn đường này cũng cố gắng chạy chậm và bình tĩnh. Thế nhưng vẫn không tránh khỏi những tai nạn quái gở, nặng thì vong mạng, nhẹ cũng nhập viện.   Hầu hết những vụ tai nạn đều gần như cùng giờ, cùng địa điểm. Ông Nguyễn Xuân Đông, Trưởng thôn Nhĩ Thượng thống kê: “Tính đến thời điểm này, hầu hết các vụ tai nạn đều xảy ra trong hai khoảng thời gian, là 12h trưa và 7h tối, đều cách cổng làng khoảng 100m. Mọi người dù có cẩn thận thế nào, khi đi qua cổng làng khoảng giờ trên đều ít nhiều cũng bị ngã xe.”.   “Biết chết mà vẫn không tránh được”, như tai nạn vào tháng 7/2014 mới đây. Một nữ cử nhân đại học sư phạm quê ở Vĩnh Thành (Vĩnh Linh) đi xe máy về làng Nhĩ Thượng để dự đám cưới người bà con. Tiệc cưới xong, cô định ra về lúc 12h trưa. Mọi người khuyên can hết lời, cô vẫn quyết đi để kịp giờ buổi dạy chiều. Qua cổng làng Nhỉ Thượng, cô bị tai nạn chết tại chỗ. Người ta không biết nguyên nhân thế nào, chỉ nghe tiếng “rầm”, khi dân làng chạy ra thì thiếu nữ đã tử vong.   Những người từng thoát chết nói gì?   Chẳng lẽ cổng làng lại có “ma”? Những người sống sót sau các vụ tai nạn thuật lại những gì? Pháp luật & Thời đại đã tìm gặp các nhân chứng.   Ông Nguyễn Mỹ, người thôn Nhĩ Thượng là một nạn nhân của vụ tai nạn cách cổng làng 50m. Ông Mỹ năm nay 74 tuổi, tuổi cao nhưng trước khi gặp nạn, sức vẫn còn lao động tốt. Một ngày cuối tháng 4/2014, ông đi gieo lúa về muộn, trên đường kéo xe kéo về nhà bị tai nạn phải nhập bệnh viện Huế. Ông kể lại: “Lúc đó trời đã chạng vạng, tôi vừa đi gieo lúa về, kéo xe sát mép đường, cách cổng làng khoảng 50m thì nghe một tiếng rầm, hai cành của xe kéo đánh mạnh vào lưng tôi. Tôi văng xuống ruộng, khi tỉnh lại đã thấy mình nằm trên giường bệnh viện”.   Người đụng ông Mỹ là anh Trần Hữu Cảnh, chạy xe máy đi cùng chiều. Anh Cảnh thuật lại: “Lúc đi đến đoạn đường trên thì đèn xe tôi tự dưng tắt phụt, sau đó tôi không còn điều khiển được tay lái, ông Mỹ đang di chuyển phía trước nhưng trước khi đâm đến, tôi lại tưởng đó là đống rơm người ta phơi bên đường. Ai dè khi lao tới nghe tiếng rầm rồi cảm giác đau lộng óc”. Ông Mỹ mất bốn tháng nằm điều trị ở bệnh viện Trung ương Huế.   Nhiều người thoát chết khác kể lại, lúc bị tai nạn đều hoàn toàn mất phương hướng giống như ai đang giữ tay lái xe mình. Em Nguyễn Văn Tiến từng bị ngã xe ở đây kể lại: “Khoảng hơn 12h trưa ngày 13/8/2013, em chạy xe máy đi mua thẻ điện thoại, đi qua cổng làng bỗng cảm giác như ai kéo tay lái xe về bên trái, em bình tĩnh quăng xe, nhảy xuống đường. Chiếc xe lao thẳng xuống ruộng. May số em còn lớn, chiếc xe hư hỏng nặng, nhưng người không bị gì”.   Người mê tín cho rằng cổng làng trước đây không hề có chuyện ma ở, từ ngày có con đường mới thì liên tiếp mới xảy ra những vụ tai nạn nên có thể “con đường mới được mở rộng đã đi qua trên xác thịt của ai đó nên họ phản đối, bắt phạt những người đi qua đây phải chết”.   Ông Nguyễn Mai, nhà gần cổng làng hoang mang: “Chẳng biết có ma thật hay “thần hồn nát thần tính” mà nhiều đêm người trong nhà tôi nghe thấy tiếng khóc lóc thảm thiết, gọi nhau văng vẳng. Từ khi những vụ tai nạn xảy ra, cứ tối đến nhà tôi không dám mở cửa”.   Tính đến thời điểm hiện tại cổng làng mới chưa được hai năm nhưng đã xảy hơn 25 vụ tai nạn lớn nhỏ khiến người đi đường qua đây bất an. “Nhiều vụ tai nạn rất vô lý. Nhiều người không tin chuyện “ma ám”, nhưng sự trùng lặp cứ diễn ra trước mặt liên tiếp như thế, ai cũng phải hoang mang”, một nhân chứng nói.   Một điều trùng lặp khác, rất nhiều nạn nhân trong những vụ tai nạn này đều chạy xe Yamaha Exciter. Hai người đàn ông đầu tiên tử vong tại đây đều chạy xe loại này. Rồi anh Trần Văn Long vừa mua chiếc xe Exciter về, xe mới chưa về tới nhà, khi đi qua đoạn đường này đã bị tai nạn. Anh Phạm Thái (ngụ xã Gio Thành) điều khiển chiếc Exciter kéo xe gỗ qua cổng làng thì xe gỗ lật ngửa giữa đường…   Người làng đã quá quen với cảnh tượng người thân của các nạn nhân đến cổng lảng gọi “hồn” về. Đặc biệt có một “pháp sư” càng gieo thêm nỗi hoang mang trong dư luận khi lắc đầu: “Gọi cũng vô ích, các oan hồn rủ nhau ở lại đó, nói: “Bây giờ dưới ni đông vui lắm, ở đây không muốn về nữa””.   Người làng hạn chế tai nạn bằng cách đến những khoảng thời gian 12h trưa và 7h tối, không ai đi qua cổng làng ma ám này. Ai chạy xe Exciter thì tuyệt nhiên không đi lỗi này, mà tìm đường vòng tránh “cửa tử”.   Những cũng chính từ những đặc điểm này, mà Pháp luật & Thời đại đã đặt ra một lý giải. Đoạn đường đẹp thẳng băng, không bị hạn chế tầm nhìn, những người qua đây đều “mát ga” (đặc biệt với loại xe côn tay khó điều khiển như Exciter), bất cẩn, không làm chủ được tốc độ, nên chuyện tai nạn là hoàn toàn có thể xảy ra, chứ không có “con ma” nào “trấn yểm” đoạn đường?

ST.

Tại sao mắt thường lại không nhìn thấy linh hồn hay quỷ thần? 5 điềm báo bạn sắp có tiền hoặc có tình Khám Chí Hòa - Trận đồ bát quái giam giữ linh hồn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cổng làng ma ám với xe Exciter, những cái chết bí ẩn

Ưu điểm và khuyết điểm trong tính cách của 12 con giáp

Trong cuộc sống, mỗi người đều có một tính cách riêng, nếu người ngoài không biết rõ thì rất dễ xảy ra mâu thuẫn, hiểu lầm.
Ưu điểm và khuyết điểm trong tính cách của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem thêm: Tính cách 12 chòm sao và trắc nghiệm vui những điều liên quan đến bạn

Uu diem va khuyet diem trong tinh cach cua 12 con giap hinh anh
 
Người tuổi Hợi tính tình thẳng thắn, không thích vòng vo, tâm địa trong sáng, vô cùng độ lượng với mọi người, từ vẻ bề ngoài tới nội tâm đều rất mạnh mẽ, là người có tài nhưng lại thiếu tôn trọng người nhà, thường hay phê bình người khác, không có tính nhẫn nại. Trong chuyện tình cảm, phụ nữ tuổi Hợi thường nghi ngờ vô căn cứ, tâm địa xấu xa… Người này thích hợp với ngành Ngân hàng, cơ khí, điện khí, đồ gỗ.
  Người tuổi Tuất tính tình cương trực, trọng tình trọng nghĩa, gan dạ, có ý chí phấn đấu, hiểu chuyện, thông minh, nhạy bén, nhiệt tình nhưng lại khá táo tạo. Phụ nữ tuổi Tuất giàu có rất có sức hấp dẫn, nhưng tâm lý thay đổi thất thường, chuộng hư vinh, thiếu sự nhẫn nại. Người này thích hợp với các công việc buôn bán cơ khí, đồ điện, bán thuốc tây, đồng hồ, làm bác sỹ…

Uu diem va khuyet diem trong tinh cach cua 12 con giap hinh anh

Người tuổi Dậu rất đa mưu túc trí, lanh lợi, giao tiếp tốt, rất được mọi người coi trọng, là người hay ôm mộng lớn lắm mưu nhiều kế nhưng tính tình lúc nóng lúc lạnh, có trí tuệ nhưng lại có khuyết điểm là không có chí tiến thủ, khi gặp bất lợi thì tính toán quá nhiều, vì cái lợi trước mắt mà bỏ qua cái lợi lớn. Mặc dù vậy, người tuổi Dậu cũng rất tình cảm, nhanh nhẹn, có tướng xuất ngoại, phụ nữu tuổi Dậu giữ bí mật rất tốt.   Người tuổi Thân khá hiếu động và lanh lợi, là ngươi đa tài, nhanh nhẹn, có sự hiệp nghĩa nhưng nhiều khi quá quan tâm chuyện người khác mà xao nhãng chuyện của mình, rất lãng phí thời gian. Bình thường không mạnh miệng nhưng khi gặp chuyện bất hợp lý thì lập tức phản đối, khá nôn nóng, ưa hư vinh, thường có hành vi giả tạo. Nếu muốn gặt hái thành công thì người tuổi Thân cần phải thẳng thắn hơn, cơ hội thăng tiến sẽ nhiều hơn.
Uu diem va khuyet diem trong tinh cach cua 12 con giap hinh anh
 
Người tuổi Mùi tính tình ôn hòa, có hiếu, tôn trọng lễ nghĩa, lanh lợi, thường xả thân vì việc nghĩa nhưng lại hay gặp khó khăn, lao tâm khổ tứ. Người này thường có những suy nghĩ thâm trầm nhưng lại có con mắt nghệ thuật, rất tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, là người khá đặc biệt. Người tuổi Mùi cũng là người có chí tiến thủ, rộng lượng, nữ nhân tuổi Mùi cũng là người rất lý trí, những lúc rảnh rỗi thường thích làm những việc theo sở thích.
Người tuổi Ngọ mang vận mệnh thích “động” không tích “tĩnh”, khả năng giao tiếp rất tốt, người này mang vẻ ngoài hư vinh nhưng nội thâm lại không như vậy, cũng có quý nhân phù trợ giúp thành công. Người tuổi Ngọ được nhiều người yêu mến, rất hiểu tâm lý nên thường được lòng mọi người. Trong mọi chuyện thường suy nghĩ khá kỹ càng, khả năng giữ bí mật khá tốt, là người lanh lợi, mẫn cán, hòa đồng trong công việc nhưng đôi khi lại khá khoe khoang, bi quan.

Uu diem va khuyet diem trong tinh cach cua 12 con giap hinh anh 4
 
Người tuổi Tị là người có tài, trí tuệ cao siêu, khả năng giao tiếp rất tốt, có lòng cao thượng, thường được mọi người khen ngợi nhưng nội tâm vô cùng hiểm độc, lòng dạ đố kị, thích gây sự với người khác nên thường đánh mất những cơ hội may mắn. Người tuổi Tị cũng có lòng dũng cảm, cũng khá thân thiện với mọi người, con mắt thẩm mỹ tốt. Phụ nữ tuổi Tị sống tốt thì gia trạch vững, sống không ra gì thì nhà cửa tan nát, tuổi trẻ cũng chịu nhiều phong sương khổ ải. Thời trung niên, nữ giới tuổi Tị sướng khổ sẽ nhờ vào nhan sắc, tuổi già thì chú trọng việc tu nhân tích đức.   Người tuổi Thìn tính tình cương nghị, ngạo mạn, tự cao tự đại, khả năng giao tiếo không tốt lắm, thiếu sự nhẫn nại, thường hay nóng vội, đôi khi sống cực đoan, liên tiếp gặp thất bại, nếu thay tính đổi nết thì may mắn sẽ chiếu cố. Người tuổi Thìn có khả năng suy  luận tốt, có sự phấn đấu, ý chí kiên cường, phái nữ khá tự tin về bản thân, không để ai có cơ hội chê trách. Tuổi trẻ gặp nhiều thất bại, trung vận gặp nhiều khó khăn.   Người tuổi Mão tính cách ôn hòa, nên tĩnh không nên động, trong suy nghĩ thiếu sự quyết đoán nên bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt nhưng tâm lại rất thiệt, thường phung phí tiền bạc cho những việc vô ích. Người này giàu tình cảm nhưng cả đời lại bất hạnh, tốt nhất là nên cẩn thận. Người tuổi Mão cũng khá mẫn cảm nhưng lại có ý chí tự lực tự cường, có tâm từ bi, ý chí kiên định… cả đời không lo nhưng cuối đời chú ý cơ thể suy nhược.  
Uu diem va khuyet diem trong tinh cach cua 12 con giap hinh anh 4
 
Người tuổi Dần mang vẻ ngoài khoan dung nhưng nội tâm lại rất kiên cường, khá là dũng cảm. Người này cũng có lòng từ bi, sẵn sàng xả thân hiệp nghĩa, thường không màng danh lợi thế gian nhưng phải chú ý người tuổi Dần thường hay bất kính nên bị người khác buông lời ác ý, cần phải cẩn thận, nếu biết tôn trọng người khác thì sẽ được mọi người yêu mến. Nữ nhân tuổi Dần là người có trí thông minh, cuộc sống gặp nhiều may mắn.   Người tuổi Sửu tính tình thành thật, kiên trì nhẫn nại cao nhưng lại khá cố chấp, khả năng giao tiếp không được tốt. Nữ nhân tuổi Sửu thường tin vào lời ngon ngọt mà gặp trắc trở trong tình duyên, hối hận không kịp, tốt nhất là nên cẩn thận. Người này trầm mặc ít lời, nội thâm ôn hòa, cần cù, độc lập, nhiệt tình và kiên định. Người này gặp nhiều trắc trở trong đời sống tình cảm, anh em cạn tình, sớm xa gia đình, xa quê hương, thời trung niên gặp nhiều phiền toái và buồn rầu, hậu vận tuy có chút phiền toái nhưng cũng tốt hơn.

Uu diem va khuyet diem trong tinh cach cua 12 con giap hinh anh 4
 
Người tuổi Tý thường được cát tinh che chở, tính cách phi thường, thông minh lanh lợi, làm việc rất có tâm có đức. Người này có chí hướng nhưng lòng tham lại khá mạnh mẽ nên gặp nhiều thành công, cả đời hạnh phúc vì quá quá nhiều quý tinh chiếu rọi nhưng không nên vì thế mà khinh người. Thời trung vận mưa thuận gió hòa, vạn sự như ý. Hậu vận tốt đẹp, hưởng vinh hoa phú quý, mặc dù có hung tinh phá mệnh nhưng cũng không đáng kể.
Phương Thùy
5 con giáp đào hoa đấy nhưng chớ vội chủ quan Top 3 nàng giáp một khi đã làm sếp thì mạnh mẽ hơn cả sếp nam 3 con giáp giấu nhẹm chuyện thất tình, cấm ai đả động

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ưu điểm và khuyết điểm trong tính cách của 12 con giáp

Xác định tọa và hướng của dương trạch –

Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào. Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào.

8-497a6

Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu. bạn cần lấy mặt ánh sáng của căn nhà Làm hướng. Cái gọi là mặt ánh sáng chính là lấy mặt mà nhà hay mở cửa sổ nhiều nhất làm hướng. Thường Là năm ở mặt cửa sổ sát đất, mặt ánh sáng của ngôi nhà này là hướng Bắc, vì thế ngôi nhà này là dương trạch toạ Nam hướng Bắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xác định tọa và hướng của dương trạch –

8 cách đơn giản để có góc thư giãn lí tưởng ngoài trời

Trong điều kiện chật hẹp ở các đô thị, chỉ cần một khoảng sân nhỏ trước nhà làm chỗ nghỉ ngơi đã là một điều quá tuyệt vời. Hãy khéo tận dụng khoảng không gian lý tưởng này để có một góc thư giãn, nghỉ ngơi đúng nghĩa. Dưới đây là 8 ý tưởng biến niềm yêu thích của bạn thành hiện thực:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thiết kế một quầy bar nhỏ

quầy bar nhỏ 
Một quầy bar nhỏ xinh xắn trước nhà sẽ là chỗ thư giãn rất thú vị

Quầy bar này bạn có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, đơn giản là nơi pha chế đồ uống hay một khu vực ăn uống đúng nghĩa đều tốt. Tuy nhiên, bạn cần thiết kế sao cho nó đúng nghĩa là một bar ngoài trời ở sự tiện lợi, vừa có thể nấu nướng, ăn uống như gian bếp thực thụ vừa được thoải mái thư giãn.

2. Mắc một chiếc võng mềm mại

góc thư giãn ngoài trời 
Một chiếc võng mềm mại thế này quả là nơi thư giãn ngoài trời tuyệt vời

Có lẽ đây là cách làm đơn giản mà cũng hiệu quả nhất. Nếu khoảnh sân nhỏ nhà bạn có cây lớn thì giải pháp này rất tuyệt. Bạn cũng có thể tự tạo 2 cây cột chắc chắn dưới bóng mát của dàn cây leo cũng tốt. Nếu không thể mắc được võng thì xích đu là giải pháp thay thế tuyệt vời.

3. Tạo một căn phòng nghỉ ngơi đúng nghĩa

sân vườn nhỏ 
Biến góc sân vườn nhỏ trở thành gian phòng ấm áp chỉ với một bộ bàn ghế cỡ lớn

Ý tưởng này cũng rất thú vị, bạn chỉ cần chọn bàn ghế và các vật dụng có chất liệu bền, đẹp là có thể "hô biến" góc sân vườn nhỏ phía sau nhà trở thành nơi nghỉ ngơi lí tưởng.

Hãy chọn đặt một bộ bàn ghế thật rộng rãi để những vị khách tới chơi cũng có thể ngồi thư giãn hoặc ngồi chờ thật thoải mái. Nếu đặt thêm một chiếc lò sưởi nữa thì không gian này sẽ trở nên ấm cúng vô cùng.

4. Ưu tiên nội thất màu xanh lá cây

nội thất màu xanh lá 
Nội thất màu xanh lá luôn mang đến cảm giác thư thái, dễ chịu

Với phòng thư giãn sau nhà, bạn không nhất thiết phải trang trí quá cầu kỳ hoặc màu mè. Chỉ cần chọn một số đồ nội thất có màu xanh lá cây cũng đủ mang lại cho không gian này cảm giác mát dịu. Bên cạnh đó, bạn có thể bổ sung một vài mô hình trò chơi ngoài trời như sân golf, tenis... để tăng thêm sự gần gũi với thiên nhiên.

5. Tự tạo một spa nhỏ

spa nhỏ ngoài trời 
Một spa nhỏ ngoài trời là nơi thư giãn tuyệt vời sau ngày làm việc mệt mỏi

Đừng ngại bố trí một bồn tắm nước nóng nhỏ ở cuối sân, vì nó có thể sẽ là nơi bạn muốn ra thư giãn nhất sau một ngày dài làm việc mệt nhoài. Hãy bố trí nó gần ở khu vực cửa phòng chính để bạn có thể nhanh chóng bước đến đó tận hưởng sự thoải mái nhẹ nhàng một cách nhanh nhất.

6. Cân nhắc về tần suất sử dụng

góc thư giãn 

Nhiều người luôn muốn được thư giãn ở khu vực nghỉ ngơi bất cứ thời điểm nào trong năm. Nếu có điều kiện, bạn có thể xây một căn phòng trên đỉnh núi với một chiếc lò sưởi để ngắm cảnh tuyết rơi tuyệt đẹp bên ngoài mà không sợ bị lanh. Tùy thuộc vào thực tế, bạn có thể chọn đặt lò sưởi hoặc quạt sao cho phù hợp.

7. Dựng nhà chòi

nhà chòi 
Nhà chòi ngay phía sân sau là một gợi ý không tồi để có thể hóng gió, nghe tiếng côn trùng kêu

8. Thêm yếu tố nghệ thuật

không gian thư giãn ngoài trời 
Nếu thêm các chi tiết trang trí bạn sẽ thấy không gian thư giãn ngoài trời hoàn hảo hơn nhiều. Đơn giản
chỉ là một bức tranh hay sự nhấn nhá về màu sắc cũng đem lại những hiệu quả rõ rệt

(Theo CafeLand) 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 cách đơn giản để có góc thư giãn lí tưởng ngoài trời

Vận trình tử vi trọn đời Nhâm Tý nữ mang chi tiết

Nhâm Tý nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhâm Tý nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1912, 1972 và 2032
Cung CHẤN. Mạng TANG ĐỐ MỘC (cây dâu)
Xương CON CHUỘT.Tướng tinh CON BEO

Bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng

Nhâm Tý cung Chấn số này,
Tang đố mạng Mộc cây tầm trồng dâu.
Sanh ra lỗi số mùa Thu,
Mùa Hạ cũng chẳng có mưu chước gì.
Bởi sanh lỗi số cực thân,
Sáng lo chạy gạo bước chân không ngừng.
Đông Xuân thì đặng thuận mùa,
Làm ăn có của chẳng thua bạn bè.
Nhưng mà duyên lỡ buổi đầu,
Nhiều chổ đi nói khẩn cầu không nghe.
Bởi số Nhâm Tý cứng đầu,
Ai mà nói khích chẳng cầu chẳng ưa.
Chịu người ngọt dịu đầu môi,
Bởi thế phải khổ lôi thôi nhiều lần.
Nhưng nhưới trí sáng thông minh,
Ai tính mưu kế thì nàng biết ngay.
Số cô nhờ có quới nhân,
Tu nhân tích đức Thánh Thần đỡ cho.

xem bói tử vi tuổi Tý

CUỘC SỐNG

Tuổi Nhâm Tý cuộc đời lao nhọc về tâm trí nhiều hơn là thể xác. Trung vận thì được đầy đủ, hậu vận an nhàn, nhưng còn nhiều lo nghĩ về sự nghiệp và việc làm ăn, tuy nhiên cuộc đời còn nhiều việc lo âu. Số về tâm trí không được rảnh rang, có lo nghĩ nhiều việc, cho đến mãn cuộc đời cũng vẫn còn lo và còn khổ cực về tâm trí. Tuy vậy, nhờ ở phúc đức phần con cái có cơ hội phát triển mạnh mẽ sau nầy.

Tóm lại: tuổi Nhâm Tý khá hay về tiền bạc, tâm trí nhiều lo nghĩ, con cháu được phát đạt mạnh.

Tuổi Nhâm Tý hưởng thọ trung bình khoảng từ 58 đến 69 tuổi, ăn ở hiền lành thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.

TÌNH DUYÊN

Tuổi Nhâm Tý về phần tình duyên được chia ra làm ba giai đoạn như sau:

Nếu sanh vào những tháng nầy, thì cuộc đời phải ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là sanh vào những tháng: 3, 7 và 12 Âm lịch.

Nếu sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 4, 5, 8 và 11 Âm lịch.

Nếu sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời tình ái của bạn chỉ có 1 lần và hưởng được hạnh phúc hoàn toàn, đó là sanh vào những tháng: 1, 2, 9 và 10 Âm lịch.

Trên đây là diễn tiến về vấn đề tình duyên của tuổi Nhâm Tý theo khoa chiêm tinh và huyền bí học.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Công danh tuổi Nhâm Tý nếu có cũng chỉ ở vào mức độ trung. Gia đạo tuổi nhỏ có nhiều rối rắm, phần con cái không được an vui, nhưng hậu vận thì an nhàn và có nhiều tốt đẹp về con cái.

Sự nghiệp được vững chắc từ năm 35 tuổi trở đi. Tiền bạc từ trung vận trở lên và từ đó về sau sẽ có nhiều dịp may phát triển về tài lộc.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

N ếu làm ăn hay mọi việc có liên quan đến tiền bạc và cuộc đời, nên cần chọn những tuổi nầy làm ăn mau phát đạt và không sợ thất bại, vì các tuổi này thuận về là ăn với Tuổi Nhâm Tý, đó là các tuổi: Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Thân.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong việc hôn nhơn nên cần lựa chọn với những tuổi nầy thì không sợ nghèo túng và thất bại trong cuộc đời, đó là những tuổi hạp về tình duyên và cả tài lộc nữa, đó là các tuổi: Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Thân, Canh Tuất.

Nếu kết duyên với những tuổi nầy thì chỉ có một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là các tuổi: Quý Sửu, Đinh Tỵ, Kỷ Mùi, Tân Hợi.

Bạn kết hôn với những tuổi nầy, đời bạn có thể phải sống trong một cuộc sống nghèo khổ không tạo được những điều kiện bảo đảm cho cuộc đời, đó là bạn kết hôn với những tuổi: Tân Dậu, Kỷ Dậu.

Những tuổi trên đây nếu kết hôn, ăn ở với nhau thì nghèo khổ, khó tạo được một cuộc sống đầy đủ hoàn toàn.

Những năm ở vào tuổi nầy kỵ kết hôn, nếu kết hôn thì lâm vào cảnh xa vắng hay có nhiều đau xót về vấn đề tình duyên, đó là những năm bạn ở vào số tuổi: 20, 22, 26, 32, 34, 38 và 44 tuổi.

Sanh vào những tháng nầy tuổi Nhâm Tý có số đa phu, hay ít ra cũng đa đoan về việc lấy chồng, đó là sanh vào những tháng: 1, 4, 5 và 7 Âm lịch.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Nên tránh những tuổi nầy vì rất đại kỵ trong cuộc đời bạn trong tất cả mọi khía cạnh, nếu kết hôn hay làm ăn với những tuổi nầy sẽ bị tuyệt mạng hay biệt ly giữa cuộc đời, đó là các tuổi: Nhâm Tý, Ất Mão, Mậu Ngọ, Giáp Tý, Đinh Mão, Canh Ngọ, Bính Ngọ.

Những tuổi nầy không nên làm ăn cũng như về việc kết duyên.

Gặp tuổi kỵ trong gia đình nên cúng sao hạn cho cả hai tuổi. Về tình duyên không nên làm lễ hôn nhơn linh đình hay ra mắt bà con thân tộc. Về việc làm ăn không nên giao dịch về tiền bạc

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

N hững năm khó khăn nhứt trong cuộc đời bạn, làm ăn khó khăn, gặp nhiều trở ngại trong cuộc đời, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 34, 38 và 45 tuổi.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Đó là ngày lẻ, tháng lẻ và giờ lẻ. Xuất hành vào những tháng, giờ và ngày này trong suốt đời, không sợ bị thất bại mà trái lại sẽ có thể nắm lấy được sự thành công hoàn toàn.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 20 đến 25 tuổi: Thời gian nầy gặp nhiều may mắn về tình cảm; tài lộc lẫn công danh có phần yếu kém, nên cẩn thận việc giao dịch, nên cẩn thận bản thân, coi chừng bị lợi dụng tình cảm.

Từ 26 đến 30 tuổi: Thời gian này về cuộc sống, có nhiều phát đạt, nên tránh những sự giao dịch tiền bạc không phải là việc làm ăn, nên phòng tai nạn hay bịnh tật trong những năm 27 và 28 tuổi. 29 tuổi kỵ vào tháng 4 có bịnh hoạn.

Từ 31 đến 35 tuổi: Thời gian nầy, nên tránh sự giao dịch về tiền bạc, sự nghiệp có cơ hội phát triển mạnh mẽ, nên hùn hạp hay phát triển việc làm ăn, sẽ có nhiều kết quả tốt về phần tài lộc, cuộc sống lên cao.

Từ 36 đến 40 tuổi: Thời gian này nên cẩn thận việc xuất hành hay đi xa, nên tránh việc giao thương, giao dịch có tánh cách lớn lao, thời gian này nên lo việc gia đình thì tốt. 37 tuổi có tai nạn nhỏ. 38 tuổi sẽ có hoạnh tài vào những tháng 4, 7 và 9 Âm lịch; Ba tháng này đại lợi và đại phát đạt cho tuổi Nhâm Tý.

Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian nầy, gặp nhiều dịp tốt, tạo được cơ hội để phát triển sự nghiệp và cuộc đời, nên dốc hết khả năng sẵn có vào những năm nầy thì có phần tốt đẹp cho cuộc đời bạn.

Từ 46 đến 50 tuổi: Thời gian nầy không được nhiều tốt đẹp cho phần bổn mạng và tài lộc, nên cẩn thận cho lắm không sự nghiệp và cuộc đời sẽ có nhiều đau xót.

Từ 51 đến 55 tuổi: Thời gian nầy, nên cẩn thận cho gia đình, trong con cái có người gặp khó khăn, dung hòa và sáng suốt, vui tươi cho con cái được phần vui vẻ và tiếp tục cuộc sống hoàn toàn hạnh phúc.

Từ 56 đến 60 tuổi: 56 tuổi, năm này hay đẹp về tình cảm lẫn tài lộc. 57 tuổi, đầy triển vọng tốt đẹp tuy hơi có bịnh hoạn, tài lộc, tình cảm đều thắng lợi. 58 tuổi năm trung bình, tài lộc có đôi phần phát đạt. 59 và 60 tuổi, hai năm này xung kỵ tuổi, coi chừng bổn mạng không được vững.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Tý

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Nhâm Tý nữ mang chi tiết

Có phải lông mày dài có tướng làm quan?

Bộ vị Trung chính gồm 11 bộ vị bộ phận, trong đó, ở bộ vị bộ hận là Ngạch giác, nếu lông mày đoan trang, thanh tú kéo dài tới bên trán thì sẽ làm quan.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ vị Trung chính trên khuôn mặt xét thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Trung chính, Ngạch giác, Hổ giác, Ngưu giác, Phù cốt, Nguyên giác, Phủ chiến, Hoa cái, Phúc đường, Thái hà, Giao ngoại. Trong đó, bộ vị bộ hận là Ngạch giác là chủ của phú quý, hiển hách. Ở bộ vị bộ phận này, nếu lông mày đoan trang, thanh tú kéo dài tới bên trán thì sẽ có tướng làm quan.

bi-vi-trung-chinh

Ngạch giác là vị trí của phú quý, hiển hách.

Nếu lông mày đoan trang thanh tú kéo dài tới bên trán thì sẽ làm tể tướng, nếu là nữ giới mà có tướng này thì sẽ được làm hậu phi; nếu mày mỏng cong lại nhỏ như hình con giun thì người này có lòng đố kỵ lớn.

Hổ giác, hay còn gọi là “nghi lộ”, chủ vị trí tướng soái, nắm giữ binh quyền. Đồng thời còn chủ quản cả việc xuất hành.

Sắc tốt thì có lợi cho việc xuất hành, khí sắc không tốt thì tránh không ra ngoài là tốt nhất. Người mà có nốt ruồi đen ở vị trí này thì không nên đi xa.

Ngưu giác, chủ quyền quý.

Đầu xương nhô lên và dài như sừng thì có thể làm tể tướng.

Phù cốt, chủ làm chức vị.

Người mà xương to thì làm quan to, xương nhỏ thì làm quan nhỏ, có khiếm khuyết thì cả đời không được làm quan.

Nguyên giác, chủ quan lộc.

Xương nhô lên như hình chiếc sừng thì cả đời có quan lộc, nếu không thì cả đời chẳng thể được làm quan.

Phủ kích, chủ làm võ quan.

Xương mà nhô lên thì có binh quyền. Màu sắc tốt thì là quan võ, thanh quý hiển hách; nếu có khiếm khuyết thì có thể sẽ phải bị bỏ mạng vì họa binh đao.

Hoa cái, chủ việc tà chính.

Sâu mà dày nặng thì trường thọ và được làm quan, ngắn thì đoản mệnh mà còn phải chịu hình thương, nông và mỏng thì có tai nạn. Sắc ác, có nốt ruồi đen và lõm là điềm báo vận mệnh chẳng thể dài lâu. Hoa cái còn được gọi là “Bì bộ”, nếu bộ vị này sắc khô thì kinh doanh bị lỗ vốn.

Phúc đường, chủ phúc lộc.

Nếu đầy đặn thì cả đời làm quan, không có tai họa, giàu có và trường thọ; hẹp và mỏng thì nghèo, khó, đoản mệnh, không được làm quan và thậm chí còn có tai họa xảy đến.

Giao ngoại, chủ vị trí của cát hung khi xuất ngoại.

Màu sắc không tốt thì không thể đi xa, đầu xương nhô lên thì cả đời không nên đi xa; có nốt ruồi đen, khiếm khuyết thì có thể sẽ phải bỏ mạng nơi đất khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có phải lông mày dài có tướng làm quan?

Mơ thấy con gái: Có tâm trạng tốt –

Giấc mơ này thường liên quan đến vai trò của các bậc cha me, hoặc tượng trưng cho mối quan hệ phụ tử. Hình ảnh con gái trong mơ luôn mang lại niềm vui cho người nằm mơ, làm tan biến bao chuyện buồn lo trong cuộc sống thường nhật. Thế nên, mơ thấy con
Mơ thấy con gái: Có tâm trạng tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con gái: Có tâm trạng tốt –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Sao Quan Phủ

Hành: Hỏa Loại: Phù Tinh, Hình Tinh Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sa...
Sao Quan Phủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: Hỏa
Loại: Phù Tinh, Hình Tinh
Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén

Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.
 
Sao Quan Phủ có ý nghĩa giống sao Quan Phù, tuy nhiên không hội chiếu với Thái Tuế. Chính vì điều này mà có thể phân biệt điểm khác biệt giữa Quan Phủ - Quan Phù. 
Ngoài các ý nghĩa tương tự sao Quan Phù, sao Quan Phủ nếu đồng cung (hội chiếu) với Thái Tuế sẽ khiến việc khiếu kiện, việc công vô cùng trắc trở, đặc biệt là kiện tụng, đấu tranh pháp lý...

Quan Phủ Thái Tuế một cung
Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Quan Phủ

Nhà lệch tầng tạo ra xung khí –

Hiện nay nhiều người ưa chuộng làm nhà lệch tầng, với mục đích tiết kiệm diện tích, điểm nhấn kiến trúc... Tuy nhiên, dưới góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt. Bản chất nhà lệch tầng là sự khác biệt về cao độ giữa các tấm sà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay nhiều người ưa chuộng làm nhà lệch tầng, với mục đích tiết kiệm diện tích, điểm nhấn kiến trúc… Tuy nhiên, dưới góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt.

Bản chất nhà lệch tầng là sự khác biệt về cao độ giữa các tấm sàn hoặc các không gian. Vì vậy, làm nhà cao tầng cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tính chất sử dụng không gian, sở thích cá nhân, nhân khẩu trong gia đình, diện tích…

av

Có thể xuất phát từ sự cảm thấy đơn điệu trong những không gian nhà ống vốn đều và thẳng, nên người ta muốn thay đổi, nhất là khi điều kiện mặt bằng chật hẹp hoặc bị gò bó vào một khuôn khổ nhất định thì việc thay đổi các cao độ sẽ mang lại dáng vẻ lạ lẫm, mới mẻ cho không gian, đồng thời kèm theo nhiều ưu điểm khác.

Ưu điểm đầu tiên của nhà lệch tầng là giải quyết được vấn đề thông thoáng (khi kết hợp vói cầu thang, giếng trời) vì các tấm sàn không kéo dài suốt mà thay đổi và tạo những ống hút gió xiên giữa tầng này với tầng kia (tất nhiên phải có lối cho gió vào).

Thứ hai, tầm nhìn giữa các tầng đa dạng, phong phú, khả năng quan sát và đi lại thoải mái, không nhàm chán. Cầu thang sau khoảng chục bậc lại có thể đi vào được một tầng.

Do đó, đa số các ngôi nhà lệch tầng đều có chung cảm giác “là lạ”, tạo cảm giác căn nhà như có nhiều không gian, nhiều tầng và nhiều sự hấp dẫn.

Ưu điểm tiếp theo là sử dụng không gian hữu dụng hơn, chẳng hạn nhũng khu phụ để xe, kho, phòng cho người giúp việc… đặt nơi tầng trệt không cần cao, bên trên là phòng khách hoặc bếp.

Lệch tầng, có thể làm cao độ trần tùy thích, không giống như nhà thẳng tầng có chiều cao “cứng”.

Thế nhưng, nhà lệch tầng cũng có không ít nhược điểm:

– Thứ nhất là tổng thể ngôi nhà về mặt giao thông bị chia ra bỏi các cao độ khác nhau nối với nhau bằng cầu thang nên gây một số bất tiện, chẳng hạn như cứ ra khỏi cửa phòng là phải lên xuống cầu thang, nhất là với nhà nhỏ.

Điều này không phù hợp vói người cao tuổi, trẻ em hoặc người tàn tật. Nếu không làm phòng vệ sinh riêng theo từng tầng thì xảy ra tình trạng từ tầng này phải lên tầng kia để dùng.

– Về cao độ, nhà lệch tầng có thể sẽ không phù hợp vói một số quy hoạch có bắt buộc khống chế chiều cao từng tầng.

– Nhược điểm nữa là ở nhà lệch tầng, tỷ lệ chiếm chỗ của ô cầu thang và các chiếu nghỉ thang luôn lớn.

– Về mặt cơ động và đa năng hóa không gian, nhà lệch tầng cũng không linh hoạt bằng nhà thẳng tầng vì không gian bị giới hạn khi đi lại, chỉ phong phú trong điểm nhìn.

Dưói góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt. Nếu xây dựng không khéo dễ tạo thành những luồng xung khí từ cát mặt sàn tác động vào con người sống và sinh hoạt trong tòa nhà, ảnh hưỏng đến sức khỏe và tài vận của từng thành viên trong gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà lệch tầng tạo ra xung khí –

Xem tướng cổ để biết người sướng hay khổ –

Nếu tướng cổ vừa vặn, tương xứng với mặt và đầu là tướng người cao quý, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Cổ là bộ phận để nâng đỡ đầu, nối liền với cột sống có tác dụng như trụ cột của cơ thể người. Cổ là một tiêu chí để đánh giá vẻ đẹp của hình t
Xem tướng cổ để biết người sướng hay khổ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng cổ để biết người sướng hay khổ –

2 đại nguyên tắc phong thủy khi táng mộ giúp con cháu ấm no

Hai nguyên tắc phong thủy khi táng mộ cần phải biết dưới đây là kiến thức hữu ích mà tất cả mọi người nên tham khảo để chọn vị trí huyệt mộ tốt.
2 đại nguyên tắc phong thủy khi táng mộ giúp con cháu ấm no

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng quan trọng tới hậu vận của một gia đình, thậm chí một dòng họ vì thế không thể tùy tiện.  

1. Xác định huyệt vị


2 dai nguyen tac phong thuy khi tang mo giup con chau am no hinh anh
 
Theo phong thủy âm trạch, thế đất đẹp, cuộc đất hay là rất tốt nhưng chọn được đất đẹp mà không chọn đúng vị trí táng mộ thì cũng vô nghĩa, không có ích lợi gì, thậm chí còn gây hại. Xem thêm bài viết Chọn huyệt cát, yên âm trạch   Ví dụ như nghĩa trang ở vùng bình địa, tựa lưng vào núi cao vững chắc, trái phải đều có núi hộ vệ, phía trước tầm nhìn thoáng đãng trống trải, đối diện phía xa là dáng núi thanh tú. Theo đánh giá khách quan thì thế đất này khá ổn. Nhưng đáng tiếc là mộ phần lại không được an táng ở vị trí thích hợp, lưng dựa vào lưng chừng sườn núi, phía trước là dốc thẳng xuống, xa hơn khoảng 5m là địa thế bình thường, không có điểm nhấn.   Huyệt vị này đã phảm phải lỗi lớn trong nguyên tắc phong thủy khi táng mộ. Minh đường nên bằng phẳng thoáng đãng nhưng tuyệt đối không được dốc xuống vì như vậy có ngụ ý là gia trạch đi xuống, ảnh hưởng tới con người và tài sản của đời sau. Ngược lại, nếu phần mộ có thể táng ở vị trí mà minh đường rộng rãi, hường lên trên thì con cháu đời sau rất có phúc.  

2. Xác định hướng mộ

  Phong thủy âm trạch tốt hay xấu phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh, thế đất, cuộc đất. Dựa vào núi, ở cạnh sông, có sơn minh thủy tú thì mới được coi là có phong thủy đúng đắn. Nhưng thế đất đẹp, cuộc đất tốt, vị trí cũng ổn mà hướng mộ xác định sai lầm thì phong thủy cũng bị ảnh hưởng vô cùng nhiều.   Trong phong thủy có khái niệm sơn hướng, sau lưng dựa vào là sơn, trước mặt đối diện là hướng. Âm trạch coi trọng hướng của phần mộ, cần có phía trên là sơn, phía dưới là hướng. Hướng của phần mộ được xác định bởi hướng bia mộ, bia mộ mặt chính diện quay về đâu, có lưng dựa vào đâu thì mới xác định được sơn hướng.
2 dai nguyen tac phong thuy khi tang mo giup con chau am no hinh anh
 
Để biết mộ có sơn hướng như thế nào, cần sử dụng tới la bàn phong thủy. Có 24 sơn hướng, phân chia theo bát quái, mỗi quẻ quản 3 sơn hướng. Quẻ Càn ứng với Tuất Càn Hợi, quả Khảm ứng với Nhâm Tý Quý, quẻ Cấn ứng với Sửu Cấn Dần, quẻ Chấn ứng với Giáp Mão Ất, quẻ Tốn ứng với Thìn Tốn Tị, quẻ Khôn ứng với Mùi Khôn Thân, quẻ Đoài ứng với Canh Dậu tân, quẻ Ly ứng với Bính Ngọ Đinh.   Nguyên tắc phong thủy khi táng mộ là phải có thế mộ vượng sơn vượng hướng, phối hợp với thủy pháp tốt thì mới là trọn vẹn. Ví dụ, thế mộ nên là Càn sơn Tốn Hướng chứ không nên là Tuất sơn Thìn hướng,… Xem thêm Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát   Phong thủy có câu "phân kim kém một đường, phú quý không gặp gỡ", chính là nói tới tầm quan trọng của sơn hướng, kém một đường mà giàu nghèo còn khác biệt huống chi là hướng khác nhau thì vận trạch cũng sẽ có nhiều thay đổi. Vì thế, khi chọn vị trí và hướng táng mộ không thể qua loa đại khái.   Cuộc đất đẹp, huyệt vị chuẩn, sơn hướng vượng là ba yếu tố tạo nên phong thủy âm trạch vượng gia vượng tài, giúp con cháu đời sau được hưởng phúc ấm của tổ tiên. Ngày nay, hầu hết nghĩa trang đều có quy hoạch nhất định, việc chọn cuộc đất nhìn sông dựa núi, có long mạch, sa huyệt như hướng dẫn là rất khó. Nhưng vị trí đặt huyệt và sơn hướng của huyệt thì vẫn có thể tự quyết định được.   Dựa vào những gợi ý phía trên, bạn đọc có thể xác định vị trí và hướng tốt để táng mộ cho người nhà. Muốn chắc chắn hơn, hãy mời thầy phong thủy xem xét, đo đạc, tìm hướng cho chính xác.
15 lỗi phong thủy âm trạch tuyệt đối đừng mắc phải Kiến thức cơ bản về phong thủy âm trạch Hung cát 8 hướng chọn đất đặt mộ giúp con cháu tránh họa
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 2 đại nguyên tắc phong thủy khi táng mộ giúp con cháu ấm no

Tướng đàn ông qua đôi mắt –

Cũng như đánh giá bất kỳ đối tác nào, xem mắt là quan trọng đầu tiên. Thiết nghĩ xem mắt thì ai cũng có thể xem được. Xem mắt giúp xác định người đoan chính, trí lực, tình cảm. - Nên chọn người mắt sáng (sáng trong, sáng xanh), lòng đen trắng rõ ràng
Tướng đàn ông qua đôi mắt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông qua đôi mắt –

Nên làm gì trong tháng cô hồn

“Ngày Rằm tháng 7 không phải ở chỗ mâm cao cỗ đầy, mà ở thái độ và lương tâm của mỗi người", bạn nên làm gì trong tháng cô hồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng cô hồn và lễ Vu lan không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà còn ở rất nhiều các quốc gia khác, đặc biệt là các nước Á Đông. Ở Nhật Bản, ngày lễ này được tổ chức vào ngày 7/7 Âm lịch và cả ngày rằm tháng bảy. Ở Đài Loan, ngày lễ này được kéo dài cả tháng nhưng thông thường thường tập trung vào ngày 15 của tháng.Tháng cô hồn hay tháng “xá tội vong nhân” là một tín ngưỡng dân gian quan trọng.

lam-trong-thang-co-hon

Dưới đây là những việc bạn nên làm trong "tháng cô hồn".

- Cúng các cô hồn trong tháng bất cứ ngày nào, nếu vào ngày mùng 2 hoặc 16 âm lịch thì càng tốt để tỏ lòng thành chính mình.

- Thăm mộ phần của người thân trong gia đình ở ngoài nghĩa địa hay vãng sanh đường trong chùa chiền lưu giữ các hũ hài cốt.
- Nên hạn chế sát sinh các con vật.

- Nên ăn chay để tránh điềm dữ.

- Nên làm phúc thiện mạnh mẽ trong tháng này.

- Nếu biết tụng kinh thì nên trì tụng (Chú Đại bi, chuẩn đề, vu lan báo hiếu, Địa tạng)

- Nên ăn nói nhã nhặn vui vẻ trong gia đình hay trong bạn bè đối tác.

- Nên tránh xa các cuộc xung đột.

- Nên cứu người khi gặp nguy cấp.

- Nên đi chùa chiền thắp nhang cầu xin sức khỏe, cầu siêu…

Tại sao tháng 7 âm lịch được gọi là 'tháng cô hồn'?

Gọi là Tháng cô hồn vì theo quan niệm của người xưa, đây là tháng mà Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì “thả cửa” để cho ma quỷ túa ra tứ phương.

Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã từng dạy rằng: “Ngày Rằm tháng 7 không phải ở chỗ mâm cao cỗ đầy, mà ở thái độ và lương tâm của mỗi người"

Trong ngày này, các gia đình nên lên chùa làm lễ Vu Lan, cầu siêu tỏ lòng báo hiếu đến cha mẹ, ông bà, tổ tiên… vào ban ngày, sau đó về nhà làm một mâm cơm chay thắp hương lên bàn thờ Phật và bàn thờ người thân.

Riêng việc thiết lập mâm lễ cúng cho những cô hồn chưa siêu thoát thì nên thực hiện vào buổi chiều tối. Mâm lễ cúng cô hồn nên đặt ngoài sân, không đặt ngoài bậu cửa nhà hoặc có thể cúng tại chùa.

Việc cúng Vu Lan báo hiếu tại tư gia nên thực hiện theo các khóa lễ sau: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia tiên, cúng thí thực cô hồn và phóng sinh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên làm gì trong tháng cô hồn

Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.
Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…

Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.

Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.
Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).

Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!

                         

Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.
Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.

Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Doanh nhân tuổi Dậu

Doanh nhân tuổi Dậu là những người sinh năm 1945, 1957, 1969, 1981... Họ tài giỏi, có năng lực tổ chức và lãnh đạo.
Doanh nhân tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Đa số doanh nhân tuổi Dậu là người khá cầu toàn, do đó họ luôn đặt ra yêu cầu cao đối với bản thân cũng như với người xung quanh. Tuy nhiên, nếu biết linh hoạt, mềm dẻo khi nhìn nhận và giải quyết vấn đề thì công việc của họ sẽ tiến triển thuận lợi hơn.

Doanh nhân tuổi Dậu thường thích nghe lời khen ngợi của mọi người hơn là những lời góp ý, phê bình thẳng thắn, ngay cả khi họ biết những ý kiến đó sẽ giúp ích cho họ. Không ít lần họ tỏ ra bảo thủ, cố chấp. Nhưng điều đáng ghi nhận ở họ là sự chăm chỉ trong công việc và lòng nhiệt tình giúp đỡ người khác. Cũng vì điều này, người tuổi Dậu luôn được mọi người yêu mến. Trong lĩnh vực kinh doanh, người tuổi Dậu rất biết cách quản lý tài chính, biết cân đối giữa thu và chi.

Doanh nhân tuổi Dậu hợp với người Tỵ, tuổi Sửu và xung với người tuổi Mão, tuổi Tý.

(Theo Việt Báo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nhân tuổi Dậu

Tháng 6 này, con giáp nào bội thu cả tiền và tình?

Bước sang tháng 6, vận may của người tuổi Hợi tăng đột biến, làm gì cũng cảm thấy thuận lợi vô cùng vì gặp được bạn hiền, quý nhân phù trợ. Không những có nhiều cơ hội tăng lương mà lĩnh vực đầu tư cũng sinh lời lớn, được một tháng “bội thu”.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tuổi Hợi   Bước sang tháng 6, vận may của người tuổi Hợi tăng đột biến, làm gì cũng cảm thấy thuận lợi vô cùng vì gặp được bạn hiền, quý nhân phù trợ. Không những có nhiều cơ hội tăng lương mà lĩnh vực đầu tư cũng sinh lời lớn, được một tháng “bội thu”.    Vận may của con giáp này lớn tới mức mua vé số cũng có thể trúng thưởng, tham gia bốc thăm trúng thưởng khi đi mua sắm kiểu gì cũng có giải mang về.    Về phương diện tình cảm, những chú Heo xinh xắn, đáng yêu, tính tình lại lạc quan, hòa đồng nên chẳng khó khăn trong việc thu hút đối tượng khác giới, vận đào hoa vì thế cũng tăng. Tình yêu như được chắp thêm đôi cánh, rất có thể đám cưới linh đình sẽ được diễn ra trong tháng.  

Tu vi thang 6 nam 2016 cua 12 con giap hinh anh
 

2. Tuổi Tuất
  Những tháng gần đây, vận khí của người tuổi Tuất không mấy lý tưởng, công việc có phần bình ổn hơn nhưng tình cảm lại thăng trầm vô độ.   Nhưng kể từ tháng 6, thời vận chuyển biến tích cực, được quý nhân giúp đỡ, cơ hội kiếm tiền, làm giàu tăng vọt. Nhưng nên nhớ, làm việc gì cũng cần thận trọng, lắng nghe ý kiến, lời khuyên của người khác, tránh cố chấp, bảo thủ để rồi tự mình đánh mất cơ hội tốt.   Tình cảm trong tháng 6 phát triển rực rỡ, mọi khúc mắc, mâu thuẫn giữa đôi bên đều được giải quyết êm đẹp. Tình yêu đến mang theo những niềm vui bất tận, vận khí hanh thông vô cùng. Vậy mới nói, bạn chính là con giáp bội thu cả tiền và tình trong tháng này.   
Tu vi thang 6 nam 2016 cua 12 con giap hinh anh
 
3. Tuổi Mão   Người cầm tinh con Mèo tính tình hào sảng, phóng khoáng, trí tuệ lại thông minh, lanh lợi hơn người. Bước vào tháng 6, tài vận của họ đạt mức đỉnh điểm, buôn may bán đắt, nhận tin vui thăng chức tăng lương, đầu tư thu lời ồ ạt.    Phương diện công việc hứa hẹn những thành công bất ngờ. Sau bao nỗ lực cố gắng, năng lực bản thân được khẳng định, cấp trên đánh giá cao và sẽ đề bạt thăng tiến. Tình hình tài chính khả quan, làm đâu thắng đó, lãi mẹ đẻ lãi con, xóa bay áp lực tiền bạc.    Nhưng nên nhớ, lấy tích lũy làm phương châm hàng đầu, lấy tiết kiệm làm lối sống cơ bản, có như vậy vận khí tốt lành mới theo bạn lâu dài được.   Khi khúc mắc về tài chính, công việc đã được giải quyết đâu vào đó, tình cảm của bạn ắt thăng cấp, gia đình hạnh phúc, đôi lứa tiến tới hôn nhân viên mãn.

Ngọc Điệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng 6 này, con giáp nào bội thu cả tiền và tình?

Lộ mặt rồi nhé, những con giáp này háo sắc lắm đây

Chúng ta ai cũng yêu cái đẹp, cái này là bản chất con người rồi. Nhưng bạn có biết trong 12 con giáp thì ai là người háo sắc rõ ràng không?
Lộ mặt rồi nhé, những con giáp này háo sắc lắm đây

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  “Gái ham tài, trai ham sắc”, kì thực thì trên đời này bất kể là nam hay nữ, chắc hẳn ai cũng đều yêu cái đẹp cả. Chúng ta dễ dàng có cảm tình, sinh lòng yêu thích với những thứ gì xinh đẹp, đó như là một dạng bản năng vậy.   Nhưng cũng có những người đa tình, đứng núi này trông núi nọ, mà một trong những nguyên nhân gây ra sự tình đó chính là vì họ có phần háo sắc, thường đi theo tiếng gọi của bản năng mà không hỏi ý kiến của lý trí, tạo cho người khác cảm giác họ không được nghiêm túc trong chuyện tình cảm.   Vậy bạn có biết xem bói tử vi thì trong số 12 con giáp, ai là người háo sắc không? Hãy cùng theo dõi với Lịch ngày tốt nhé.


Lo mat roi nhe, nhung con giap nay hao sac lam day hinh anh
 
 

Tuổi Dần

  Những người sinh năm Dần thường sống khá cảm tính, thích gì làm nấy. Họ hiếm khi che giấu cảm xúc của bản thân, yêu thì nói là yêu mà ghét thì nói là ghét. Thấy những thứ xinh đẹp, họ cũng không kìm nổi lòng mình mà nhìn lâu hơn một chút.   Trong chuyện tình cảm cũng vậy. Họ dễ bị thu hút bởi ngoại hình của đối phương. Bất kể đang trong trạng thái, tình huống như thế nào, chỉ cần nhìn thấy người mình thích là họ sẽ không chút ngần ngại theo đuổi đến cùng. Họ không quan tâm kết quả ra sao, cũng chẳng cần biết làm vậy có để lại ấn tượng xấu cho đối phương.   Người tuổi Dần tính cách chính là như vậy, có thể nhiều người sẽ nghĩ rằng họ là kẻ háo sắc, lăng nhăng, kì thực họ chỉ là người thẳng thắn và sẵn sàng biểu đạt tình cảm của mình mà thôi. Đừng quá định kiến nếu người bên cạnh bạn có phần ưa thích cái đẹp nhé.

Bạn đã biết cách để Bắt bài đàn ông háo sắc dễ như trở bàn tay chưa?


Lo mat roi nhe, nhung con giap nay hao sac lam day hinh anh 2
 

 

Tuổi Tị

  Những người tuổi Tị quả thực là mẫu người theo chủ nghĩa ngoại hình, bị nhan sắc khống chế. Khi chọn đối tượng yêu đương cũng vậy, chỉ cần đối phương không đủ xinh đẹp trong mắt họ thì dù tính cách có tốt đến đâu họ cũng chẳng buồn nhìn thêm một cái. Đây có lẽ là điểm khá xấu trong tính cách người tuổi Tị mà họ nên để tâm và cải thiện hơn.   Vốn thích những người có ngoại hình xinh đẹp nên họ khó tránh bị người khác ban cho danh hiệu “háo sắc”, nhưng bản thân mình, người tuổi Tị không thấy thế làm phiền. Họ có cá tính và luôn tâm niệm rằng bản thân mình chỉ đang theo đuổi cái đẹp chứ đâu có làm điều gì phạm pháp. Cứ thế thôi, đời ai nấy sống!

Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân, bạn biết chưa?


Lo mat roi nhe, nhung con giap nay hao sac lam day hinh anh 3
 
 

Tuổi Mùi

  Người tuổi Mùi khá cao ngạo, họ sẽ không bao giờ để lộ ra mình là kẻ theo chủ nghĩa ngoại hình, thậm chí nếu bạn nói họ háo sắc thì chắc chắn sẽ nhận lại một tràng phản kích vô cùng tức giận với đủ lời lẽ, dẫn chứng rõ ràng để chứng minh theo hướng ngược lại.   Kì thực, bản thân họ biết rõ mình là người thế nào, họ thầm đánh giá đối phương qua ngoại hình. Nếu điểm số của người đó quá thấp thì rõ ràng đã bị loại khỏi cuộc chơi. Họ thích những người xinh xắn hoặc đẹp trai, thân hình quyến rũ.    Khuôn mặt và thân hình đẹp là hai điều mà một nửa của người tuổi Mùi không thể thiếu. Nếu để ý chút thôi, bạn sẽ thấy người yêu của họ đều là những anh chàng, cô nàng vô cùng xinh đẹp và quyến rũ, cuốn hút người khác ngay từ ánh nhìn đầu tiên.


Lo mat roi nhe, nhung con giap nay hao sac lam day hinh anh 4
 

 

Tuổi Dậu

  Những người sinh năm Dậu là người khá ưa sĩ diện. Họ luôn chọn cho mình hình mẫu lý tưởng là một người có ngoại hình hoàn hảo. Thân hình có thể xếp thứ 2, nhưng vị trí đầu tiên luôn phải là khuôn mặt.   Họ coi gương mặt người yêu như gương mặt của mình, chính vì thế mà dù bạn có tài giỏi xuất sắc đến đâu mà điểm ngoại hình không đủ tiêu chuẩn thì cũng chẳng thể lọt vào mắt người tuổi Dậu.   Tuy nhiên, con giáp này chỉ khắt khe và bị ngoại hình khống chế khi chọn người yêu thôi. Những khi khác, họ hoàn toàn thoải mái và hiếm khi để ý đến vấn đề ngoại hình của người khác. Thậm chí, nếu là bạn bè, bạn còn thấy họ là người khá tốt tính và rất dễ nói chuyện làm thân nữa. 
Hy Vũ

“Bắt bài” đàn ông háo sắc dễ như trở bàn tay Tình duyên phơi phới với người bát tự vượng đào hoa năm 2017

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lộ mặt rồi nhé, những con giáp này háo sắc lắm đây

Lục Thập Hoa Giáp và số mệnh đặc trưng trong tử vi đẩu số (Phần 3)

Xem tử vi đẩu số theo Lục Thập Hoa Giáp là phương pháp lâu đời, dựa trên Thiên can, Địa chi và nạp âm để suy tính ra mệnh, cát hung trong đời.
Lục Thập Hoa Giáp và số mệnh đặc trưng trong tử vi đẩu số (Phần 3)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi theo Lục Thập Hoa Giáp là phương pháp lâu đời, dựa trên Thiên can, Địa chi và nạp âm để suy tính ra mệnh, cát hung trong đời.


Luc Thap Hoa Giap va so menh dac trung trong tu vi dau so hinh anh
 
Lục Thập Hoa Giáp gồm 60 hoa giáp, tương ứng với 60 trường hợp. Tử vi của mỗi hoa giáp sẽ đoán định được đường đi nước bước trong cuộc đời.
  21. Sinh năm Giáp Thân (Khỉ chuyền cành), năm Giáp Mộc, ngũ hành Kim, nạp âm Tỉnh Tuyền Thủy: tâm tính ôn nhu, tuổi trẻ bận rộn, về say lợi đạt, gia đình hưng vượng, vợ chồng hòa hợp, người nữ biết lo toan vun vén, có số vinh quang.   22. Sinh năm Ất Dậu (Gà gáy trưa), năm Ất Mộc, ngũ hành Kim, nạp âm Tỉnh Tuyền Thủy: ăn ngay nói thật, chí khí hiên ngang, cơm áo đủ dùng, phúc thọ song toàn, anh em không trợ giúp nhau, gia đình hòa hợp, người nữ đi xa thì phát đạt, vững vàng.   23. Sinh năm Bính Tuất (Chó ngủ đông), năm Bính hỏa, ngũ hành Thổ, nạp âm Ốc Thượng Thổ: thái độ làm người hào kiệt, hòa thuận, chiêu tài thuận lợi, tự thân lập nghiệp, tiền vận cần lao, tuổi già vinh hoa, khí chất thanh cao, người nữ lúc tuổi già rất tốt, tài vượng khá.   Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)
24. Sinh năm Đinh Hợi (Lợn qua núi), năm Đinh Hỏa, ngũ hành Thủy, nạp âm Ốc Thượng Thổ: thông minh, biết mưu tính, tự thân lập nghiệp, người nữ có hình cần phải chậm rãi, hay làm việc thiện, tài nguyên vượng, mệnh có thiên tài.
  25. Sinh năm Mậu Tý (Chuột kho thóc), năm Mậu Thổ, ngũ hành Thủy, nạp âm Phích Lịch Hỏa: thông minh, văn võ song toàn, vợ chồng hòa thuận, có tài, tuổi già vượng phát rầm rộ, người nữ hiền lương, phát đạt.   26. Sinh năm Kỷ Sửu (Trâu trong chuồng), năm Kỷ Thổ, ngũ hành Thổ, nạp âm Phích Lịch Hỏa: người thẳng thắn, tinh thông văn nghệ, cơm áo l\không ít, nam nữ có thể tái hôn, sau thì vợ chồng hòa thuận, bách niên giai lão, lúc tuổi già an nhàn.   Xem bát tự hợp hôn chuẩn bị cưới vợ gả chồng
27. Sinh năm Canh Dần (Hổ rời núi), năm Canh Kim, ngũ hành Mộc, nạo âm Tùng Bách Mộc: thái độ làm người vội vã, bộc tuệch, dễ giận dễ quên, thay đổi thất thường, cơm áo sung túc, tuổi trẻ tiền tài tiêu phá không có tích lũy, tuổi già mới ổn định, người nữ có mệnh làm vợ tốt.
  28. Sinh năm Tân Mão (Mèo trong hang), năm Tân Kim, ngũ hành Mộc, nạp âm Tùng Bách Mộc: có chí khí, tâm thẳng, đường quan lộc tốt, lòng thanh thản nhưng không an nhàn, ít dựa vào gia đình, tự lập nghiệp, tuổi trẻ lao lực, tuổi già đại lợi, người nữ lo liệu việc gia đình thịnh vượng.   29. Sinh năm Nhâm Thìn (Rồng phun mưa), năm Nhâm Thủy, ngũ hành Thổ, nạp âm Trường Lưu Thủy: lao lực, tay chân không ngơi nghỉ, có danh nhưng không có lợi, tuổi già mới phát, người nữ biết lo liệu.   Mẹo tử vi đơn giản giúp tăng lương thành công trong năm mới
30. Sinh năm Quý Tỵ (RắN trong cỏ), năm Quý thủy, ngũ hành Hỏa, nạp âm Trường Lưu Thủy: thông minh lanh lợi, tài lộc tụ tán, gần quý nhân, trung niên vất vả, có học trò tốt, lúc thành lúc bại, bị người khác phản bội, về già mới vinh hoa.

=> Xem ngày tốt, ngày tốt xấu chuẩn nhất tại Lichngaytot.com
 

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lục Thập Hoa Giáp và số mệnh đặc trưng trong tử vi đẩu số (Phần 3)

Tướng người lưng dài –

Mỗi phần của cơ thể con người đều ít nhiều nói lên tính cách và vận số của đời người. Lưng (phần sau thân người, từ vai xuống thắt lưng) cũng không nằm ngoài phạm trù ấy. Lưng đẹp là lưng có chiều dài vừa phải, hình dáng cân xứng, đầy đặn, rắn chắc
Tướng người lưng dài –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người lưng dài –

Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét

Nhìn xa thì tưởng soái ca nhưng tiếp xúc mới thấy họ có thể làm các cô gái điên đầu. Cùng điểm danh những chòm sao nam đáng ghét như vậy nhé.
Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hẹn hò vốn là chuyện vô cùng vui vẻ, mang tới bầu không khí thoải mái, phấn khởi nhưng có những chòm sao được mệnh danh là “sát thủ hẹn hò”.

Diem danh 4 chom sao nam dang ghet la sat thu hen ho hinh anh 2
 

Hạng 5: Xử Nữ

  Chòm sao theo đuổi hoàn mỹ Xử Nữ lúc hẹn hò nhất định cực kì chu đáo, bất kì chi tiết nhỏ nào cũng đều phải tự tay chuẩn bị mới yên tâm, làm bạn gái người này thực sự là vừa hạnh phúc vừa đau khổ. Hạnh phúc chính là như công chúa hưởng thụ sự tỉ mỉ chu đáo quan tâm, cực khổ là họ thường xuyên yêu cầu bạn gái cũng phải dốc lòng dốc sức cho cuộc hẹn hò.   Khi phát hiện người yêu chưa chuẩn bị được tốt hoặc làm việc có sai sót thì Xử Nữ tự động bật chế độ lải nhải, nhai đi nhai lại lỗi lầm khiến người ta mặt mày xám xịt. Có đẹp đến mấy thì chàng trai này cũng biến thành chòm sao nam đáng ghét, khiến các nàng muốn chạy thật nhanh để không còn phải nghe những lời càu nhàu như mẹ già ở nhà.  

Hạng 4: Ma Kết

  Ma Kết là cung hoàng đạo chuẩn soái ca với bề ngoài lạnh lùng mà hấp dẫn, lại thêm năng lực vượt trội, nam tính ngời ngời nữa chứ, hẹn hò với người này chắc hẳn sẽ vô cùng hãnh diện đúng không. Không sai, Kết Kết có rất nhiều ưu điểm, là mẫu đàn ông trong mơ của không ít cô gái nhưng xuất sắc không có nghĩa là am hiểu tình yêu, hẹn hò tuyệt vời đâu nhé.   Người này có nề nếp, trật tự, đời sống dường như chỉ xoay quanh việc đi làm đi học chứ không mấy thấu hiểu về phong tình. Hẹn bạn gái quanh đi quẩn lại chỉ có ăn cơm, xem phim, đi công viên, lãng mạn mấy cũng biến thành tẻ nhạt. Đừng hi vọng họ có thể mang tới những niềm vui bất ngờ hay những món quà sáng tạo. Thật là muốn người ta tức chết đây mà.  

Hạng 3: Bạch Dương


Diem danh 4 chom sao nam dang ghet la sat thu hen ho hinh anh 2
 
Nhiệt tình là ưu điểm lớn nhất của đàn ông cung Bạch Dương nhưng có lúc nhiệt tình quá mức sẽ gây phản ứng ngược. Thời điểm hứng phấn, họ không biết giữ mồm giữ miệng, kích động không che giấu mà bỏ quên mất tâm trạng, suy nghĩ, cảm nhận của bạn gái. Rất nhiều lúc sắc mặt đối phương đã cực kì khó coi rồi mà cừu trắng còn một mình một thế giới, người xung quanh đều phát hiện ra chỉ riêng chòm sao nam đáng ghét này thì hoàn toàn chẳng biết gì.   Thường là sau khi hẹn hò với Bạch Dương, các cô gái sẽ lập thời thề sắt son có chết cũng chẳng bao giờ chọn đối tượng thuộc cung Bạch Dương nữa. Thực ra cũng hơi oan cho chàng trai ấy mà, chỉ vô tình thôi, tuyệt đối là vô tình, không cố ý đâu. Họ không được tỉ mỉ và săn sóc lắm, hãy thường xuyên nhắc nhở để họ cải thiện nhé.  

Hạng 2: Kim Ngưu

  Ồ, chòm sao nam chung tình lại tốt tính như Kim Ngưu sao lại có trong danh sách này nhỉ? Ấy là vì họ chẳng có một tế bào lãng mạn nào cả, khiến người khác phải bó tay. Chàng trai này chân thật và thực tế, luôn nghĩ rằng mua cho bạn gái bó hoa thà tặng một con gà nướng còn thiết thực hơn; đi ăn ở nhà hàng Tây đắt đỏ hưởng không khí nhân tạo thà rằng thưởng thức bữa ăn ở vùng làng quê tự nhiên còn hơn.   Tất nhiên quan điểm của kim Ngưu không sai, ai cũng có ý kiến riêng nhưng trong mắt con gái thì thật chẳng hay ho chút nào. Tình yêu không cân đo đong đếm bằng tiền nhưng các nàng ấy sẽ nghĩ, vì mình mà không dám tiêu chút tiền như thế thì đâu cần thiết phải hẹn hò thêm nữa. Sau những trải nghiệm không mấy thoải mái, họ sẽ tự động cho Kim Ngưu vào danh sách đen, xếp vào hàng những chàng trai không nên hẹn hò.  

Hạng 1: Sư Tử

  “Sát thủ hẹn hò” bậc nhất trong 12 cung hoàng đạo lộ diện đây rồi. Theo đuổi chủ nghĩa đại nam tử, mười phần thô bạo, chín phần cục cằn, ít cô gái nào cho rằng hẹn hò với Sư Tử là một chuyện hạnh phúc. Thực tế, chòm sao nam đáng ghét này luôn coi mình là trung tâm, trong quá trình yêu đương phải lấy họ làm chủ đạo, người yêu chỉ có một việc là nhất nhất nghe lời.  Khi bắt đầu các cô gái hoàn toàn có thể chấp nhận nhưng sau một thời gian cứ kéo dài như vậy, nguyện vọng chẳng bao giờ được lắng nghe, như con chim nhỏ bị nhốt trong lồng son thì ai có thể chịu đựng được. Nếu Sư Tử không thay đổi phương pháp đối xử với bạn gái thì sẽ làm tổn thương người đó và không ai muốn ở bên cạnh bạn đâu.
5 chòm sao nam có máu Hoạn Thư không kém gì phụ nữ Xếp hạng độ vị tha của 12 chòm sao nam khi nửa kia ngoại tình Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét

Những vật phẩm phong thủy mang lại công danh và hạnh phúc cho gia chủ

Trưng bày vật phẩm phong thủy trong nhà không những có ý nghĩa về thẩm mỹ mà còn là biểu tượng giúp chủ nhân có thêm năng lượng trong cuộc sống.
Những vật phẩm phong thủy mang lại công danh và hạnh phúc cho gia chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hoa mẫu đơn - Biểu tượng cho sự sang trọng, quý phái và hấp dẫn

Mẫu đơn là loài hoa mang dáng vẻ vương giả, sang trọng, là biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng và sắc đẹp. Trong các dịp lễ khai trương, bạn bè đối tác thường tặng tượng mẫu đơn để chúc nhau làm ăn ngày càng phú quý, phát đạt… Ngoài ra, với sức quyến rũ, sự may mắn vốn có thì khi đặt hoa mẫu đơn tại cung tình duyên trong phòng ngủ (hướng Tây Nam) sẽ giúp bạn tăng cường hạnh phúc hôn nhân, tốt cho đường con cái…

Theo Ngũ hành, mẫu đơn thuộc Hỏa, tranh hoa mẫu đơn nên treo ở vị trí tương sinh tương trợ là hướng Nam, hướng Tây Nam, hướng Đông Bắc của ngôi nhà. Không nên treo ở vịtrí tương khắc, hao tổn là hướng Đông, hướng Đông Nam, hướng Tây Bắc và hướng Tây. Ngoài ra, cũng có thể treo ở vị trí trung tính là hướng Bắc.

2. Vương trượng - Biểu trưng cho uy quyền

Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc - Lộc - Thọ thì ông Lộc trong tay cũng cầm Vương trượng. Đa phần, Vương trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc, đồng, sứ…

Vương trượng là vật đại diện cho quyền lực mà ngày xưa các vị vua chúa, quan lại luôn sở hữu. Nó là vật khí rất quan trọng trong phong thủy chuyên dùng để củng cố địa vị và quyền lực, chống lại kẻ tiểu nhân; tăng thêm công danh, uy quyền, sự tôn nghiêm cho người sở hữu.

Vương trượng được mạ vàng, kèm thêm những viên ngọc nên cát khí của nó rất lớn, không những hoá giải được hung khí của sao Ngũ hoàng, Nhị hắc vốn gây tai họa mà còn đem lại uy quyền và công danh tài lộc.

Vương trượng rất thích hợp dùng cho người mệnh cao, giữ trọng trách lớn. Đặt trên bàn làm việc, trong phòng khách, văn phòng.

3. Tháp văn xương đem lại may mắn trong học tập và công việc

Tháp văn xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía nam Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao tầm 36 - 45m, gồm 7 tầng với mái hiên bằng gạch chồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ. Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.

Ngoài ra, họ còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí văn xương trong nhà. Bởi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử.

Tháp văn xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma và được sử dụng trong việc loại trừ ma quỷ. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi cử quan trọng hoặc những người muốn tăng tiến về trí tuệ và công danh.

Nếu dạo qua các cửa hàng chuyên bán đồ phong thủy, có thể dễ dàng nhận ra những mô hình tháp văn xương được chế tác từ thạch anh, ngọc lục bảo, pha lê hoặc đồng… bày bán khắp nơi. Trong trường hợp gia đình có con, cháu sắp phải tham dự kỳ thi lớn như tốt nghiệp, đại học… tốt nhất nên đặt tháp văn xương trên bàn học của cháu, đúng huyệt văn xương trong nhà để cầu may mắn. (Huyệt văn xương ứng với năm sinh của mỗi người khác nhau sẽ khác nhau).

4. Quả cầu phong thuỷ giúp trí tuệ minh mẫn, cải thiện trì trệ

Quả cầu thủy tinh là biểu tượng của trí tuệ và sự may mắn. Người ta cho rằng, quả cầu giúp tăng trí thông minh, công danh và tài lộc, đỗ đạt khoa bảng, cải thiện sự trì trệ và bế tắc trong công việc.

Quả cầu thuỷ tinh mang cát khí của Thổ. Vì thế quả cầu thuỷ tinh là vật khí có năng lượng vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành.

Mặt khác, người ta còn quan niệm quả cầu mang nguyên khí của trái đất, tức Thổ. Chất làm quả cầu pha lê cũng là nguyên khí của Thổ đem lại Dương khí. Trong phong thuỷ thì đây là pháp khí rất quan trọng để bổ sung Dương khí. Dùng nơi Âm khí quá vượng, tối tăm, thiếu ánh sáng để chống Âm khí gây hoạ như bệnh tật, tán tài, thị phi, tiểu nhân…

Bạn nên bày quả cầu trên bàn học, bàn làm việc hoặc tủ sách, giá sách. hoặc nơi các cát tinh Thiên y, Diên niên, nơi Âm khí vượng. Tránh bày trong bếp, nhà vệ sinh, nơi Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ chiếm đóng.

Cầu thuỷ tinh mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt, chôi chảy và mở mang mối quan hệ, giao tiếp cho bạn. Tất cả các doanh nghiệp thành đạt, những người giàu có, học vấn cao, luật sư, chính trị gia, đều đặt cầu thuỷ tinh trên bàn làm việc.

Cầu thuỷ tinh cũng đem lại sự tôn trọng, tự tin, may mắn đến cho bạn. Đặc biệt với các doanh nhân, cầu thuỷ tinh đảm bảo công việc kinh doanh trôi chảy, phát đạt. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều logo của các công ty làm ăn phát đạt có hình quả cầu.

Theo Xây dựng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy mang lại công danh và hạnh phúc cho gia chủ

Chọn tên đẹp và may mắn thuộc vần M

Mã: Có tài năng, số xuất ngoại. Tuy trung niên vất vả nhưng thành công, hưng vượng.
Chọn tên đẹp và may mắn thuộc vần M

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mã: Có tài năng, số xuất ngoại. Tuy trung niên vất vả nhưng thành công, hưng vượng.

Chữ Mai là người tài năng, thông minh

Mạch: Là nguời hay ưu tư, phiền não trong tình cảm, tuy số vất vả nhưng cuối đời hưởng phúc từ con cái.

Mai: Có tài năng, thông minh nhưng phải bôn ba vất vả. Trung niên vì trọng tình mà gặp nhiều điều không may, cuối đời cát tường.

Mại: Thuở nhỏ khó khăn, trung niên vất vả, cuối đời thịnh vượng. Ra ngoài gặp quý nhân phù trợ, có số làm quan hoặc xuất ngoại.

Mẫn: Là người ôn hòa, số tài hoa, thanh nhàn, phú quý, tuy nhiên hay sầu muộn. Nếu xuất ngoại sẽ được thành công.

Mạnh: Thuở nhỏ vất vả, trung niên dễ gặp tai ương, cuối đời cát tường.

Mao: Là người tài trí, cuộc đời thanh nhàn, bình dị, phú quý. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời may mắn.

Mão: Tính khí ôn hòa, trọng tình nghĩa, số khắc bạn đời, hiếm muộn con cái. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời phát tài, phát lộc.

Mạt: Là người đa sầu, đa cảm, số kỵ xe cộ, kỵ nước. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời gặp nhiều may mắn.

Mẫu: Thuở nhỏ vất vả, trung niên thành công, phát tài, phát lộc, cuối đời ưu tư, vất vả. Số khắc cha mẹ.

Mậu: Tính cách quyết đoán, cuộc đời thanh nhàn. Trung niên gặp trắc trở trong chuyện tình duyên, cuối đời cát tường.

Mâu: Tính cách quyết đoán, trung niên bôn ba vất vả, cuối đời hưởng phúc.

Mâu: Tính tình cương trực, mau miệng, cẩn thận gặp họa tù lao.

Mễ: Bản tính thông minh, đa tài, nếu xuất ngoại sẽ đại cát. Trung niên sống bình dị, cuối đời phát tài, phát lộc.

Mi: Ôn hòa, hiền hậu, có số thanh nhàn, tuy nhiên cẩn thận gặp họa trong tình ái. Trung niên thành công,  hưng vượng.

Miên: Đa tài, nhanh trí, ôn hòa, hiền hậu. Trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.

Minh: Là người tài năng, nhanh nhẹn, có số thanh nhàn. Trung niên có thể gặp trắc trở trong tình cảm nhưng cuối đời được hưởng phúc.

Mỗ: Nếu là nam giới thì số phú quý, trung niên thành công, hưng vượng, có 2 con thì cát tường. Nếu là phụ nữ thì bất hạnh, tái giá.

Mô: Là người tài, đức vẹn toàn. Trung niên thành công, có số xuất ngoại.

Mộc: Cuộc đời thanh nhàn, bình dị, gia cảnh tốt, số 2 vợ. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc.

Môn: Số lận đận, vất vả. Trung niên có thể gặp lắm trắc trở, cuối đời cát tường.

Mục: Số lận đận, tuy thành công nhưng rất vất vả. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời cát tường.

Muội: Tuy đa tài nhưng vất vả, cuối đời mới được hưởng phúc. Là người  trọng tín nghĩa nhưng dễ gặp rắc rối trong tình cảm.

Mưu: Thông minh, lanh lợi nhưng không gặp thời hoặc gặp lắm tai ương. Cuối đời an nhàn hưởng phúc.

Mỹ: Thanh tú, có tài, tính tình hiền hậu. Trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.

Na: Thanh tú, nhanh nhẹn, kết hôn muộn sẽ cát tường, cẩn thận họa trong tình cảm, cuối đời hưng vượng.

(Theo Tên hay thời vận tốt)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tên đẹp và may mắn thuộc vần M

Những lưu ý phong thủy nhà ở rất cần phải biết

Phong thủy nhà ở giúp chủ nhân gặp nhiều thuận lợi, may mắn, tránh họa, xua rủi. Vì thế, những lưu ý phong thủy nhà ở dưới đây nên biết, ghi nhớ và áp dụng.
Những lưu ý phong thủy nhà ở rất cần phải biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà ở không chỉ giúp chủ nhân gặp nhiều thuận lợi, may mắn hơn mà còn tránh họa, xua rủi. Vì thế, những lưu ý phong thủy nhà ở dưới đây nên biết, ghi nhớ và áp dụng một cách chu đáo.


Nhung luu y phong thuy nha o rat can phai biet hinh anh
 
Lưu ý phong thủy nhà ở bao gồm kiến trúc, thế nhà và cảnh quan xung quanh ngôi nhà. Tất cả những yếu tố này đều ảnh hưởng rất lớn tới phong thủy ngôi nhà, trực tiếp tác động tới những người sống trong đó.   1. Không xây nhà ở lưng núi hoặc cửa thung lũng, không chỉ không thu được phúc phận mà còn dễ gặp hoạn nạn, bệnh tật.   2. Không xây nhà ở vùng đường giao nhau chữ T, ở góc vuông giữa 2 con đường, sẽ gặp tai họa.   3. Không nên xây nhà ở ngõ cụt, nhà đối diện với ngõ hẻm, dễ phát sinh họa tiểu nhân hoặc quan tai, thị phi, dính tới pháp lý.   4. Ở phía Tây nhà có đường lớn là đại cát nhưng không nên mở cửa hướng Tây để giữ tính riêng tư cho ngôi nhà.   5. Trước cửa nhà, đối diện cửa lớn không nên có cây to sẽ cản trở dương khí, âm khí trong nhà không thoát đi được.   6. Trước cửa nhà không nên có cây khô, bất kể cây to hay cây nhỏ, nếu cây đã chết héo thì nên bỏ đi ngay.   7. Ở hướng Tây Bắc có cây to là đại cát, nếu chặt đi sẽ tuyệt tử tuyệt tôn.  
Nhung luu y phong thuy nha o rat can phai biet hinh anh
 
8. Không nên xây nhà qua cao so với các kiến trúc bên cạnh, tạo thế “hạc giữa bầy gà”, tứ cố vô thân. Không giữ được tiền tài, không giữ được tính riêng tư, rất bất lợi.   9. Nhà con cái không thể lấp bóng nhà cha mẹ, nếu không cả hai nhà đều suy sụp.   10. Trong nhà có phụ nữ mang thai không thể xây nhà, sửa chữa nhỏ cũng không nên, sẽ ảnh hưởng tới thai nhi.   11. Nơi ở trước thấp sau cao thì đại cát, ngược lại trước cao sau thấp là đại hung.   12. Nhà khuyết góc Tây Bắc sẽ tổn hại quý khí, ảnh hưởng tới sức khỏe của con trẻ.   13. Nhà khuyết góc Đông Nam bất lợi đối với con gái nhưng không quá tổn hại.   14. Nhà khuyết góc Tây Nam, ảnh hưởng tới dạ dày và đại tràng nhưng hữu ích với đường quan lại, chức vị.   15. Nhà thiếu góc Đông Bắc, dù không đại hại nhưng hệ tiêu hóa không tốt.   16. Nhà phải dài trái ngắn thì con trẻ sinh ra không nghèo cũng mồ côi.   17. Nhà trước rộng sau hẹp, hình thành thì tiền tài khó bảo toàn.   18. Nhà ở khu vực có địa thế trước hẹp sau rộng thì không chỉ phú quý mà còn oanh liệt, có địa vị xã hội.   19. Nhà ở khu vực có địa thế hình tam giác, trước nhọn sau rộng thì tổn hại tài lộc, nữ mệnh trong nhà gieo tai vạ, người nhà mắc bệnh nan y.
► Mời các bạn xem Lịch nghỉ Tết dương lịch 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com

Nhà nghịch âm dương: Tìm hiểu và hóa giải Kiến thức phong thuỷ quan trọng cho nhà chung cư 7 điều kiện tiên quyết để có trạch vận đại cát
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý phong thủy nhà ở rất cần phải biết

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd