Quan hệ vợ chồng với giấc mơ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ kheo:
Này các Tỷ kheo, có bốn hạng người này hiện hữu, có mặt ở đời. Thế nào là bốn ? Có tội, nhiều tội, ít tội và không có tội.
Thế nào là hạng người có tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có tội. Như vậy là hạng người có tội.
Và thế nào là hạng người nhiều tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có nhiều tội. Như vậy là hạng người có nhiều tội.
Thế nào là hạng người có ít tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội nhiều, chỉ có ít tội. Như vậy là hạng người có ít tội.
Và thế nào là hạng người không có tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội. Như vậy là hạng người không có tội.
Có bốn hạng người này, này các Tỷ kheo, hiện hữu, có mặt ở đời.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 4, phẩm Loài người, phần Có tội [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.72)
Tội lỗi là một trong những thuộc tính cơ bản của chúng sanh. Con người có mặt ở trên đời thì tội lỗi có mặt. Thậm chí từ trong quá khứ, trước khi được sinh ra, tội lỗi hay nghiệp đã đóng vai trò chi phối, là tác nhân chính để hình thành nên hình dáng, tính cách, hoàn cảnh của mỗi cá nhân trong hiện tại. Vì thế, con người là sự kế thừa tội lỗi, nghiệp lực của chính mình và do vậy, người sống trên đời có tội cũng là chuyện bình thường.
Khi chưa trở thành các bậc Thánh, ai cũng giống nhau ở chỗ là đều có tội cả. Có khác chăng là mức độ gây nghiệp, tạo tội nhiều hay ít, về phương diện này hay phương diện kia mà thôi. Tội lỗi, theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những hành vi tạo tác bất thiện được tạo ra nơi việc làm, lời nói và suy nghĩ của con người.
Tuy chúng ta chấp nhận có tội vì hiện ba nghiệp chưa thanh tịnh nhưng tội phải ít và nhỏ thôi và điều cần thiết nhất là tự thân phải rõ biết điều đó. Khi còn trong thân phận chúng sanh, biết rõ những hạn chế, thói hư tật xấu của chính mình để phấn đấu, vươn lên, loại trừ điều ác, đạt đến sự hoàn thiện là tối cần. Con người sở dĩ ngày càng tạo nhiều tội lỗi, một phần do không nhận chân được điều xấu ác hoặc xem những điều xấu ác hiện tồn tại với số đông là bình thường, thậm chí không ít người còn tự mãn với những thành tựu dựa trên nền tảng tham sân si.
Hơn ai hết, người con Phật cần phải trở về với chính mình, biết rõ mọi hành vi của tự thân nhằm kiểm soát, từng bước làm chủ, chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác. Đạt đến sự hoàn thiện, không tội lỗi là một lộ trình dài. Nền tảng cơ bản của lộ trình đó là tuệ tri, biết rõ tự thân có tội nên trước hết phải cố gắng để không tạo thêm nhiều tội lỗi đồng thời phát huy thiền quán để thấy mọi tội lỗi đều xuất phát từ tâm, tâm thanh tịnh tức ba nghiệp thanh tịnh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau mang tới những điềm báo hung cát không giống nhau. Nhưng nếu sở hữu những nốt ruồi dưới đây, bạn hoàn toàn yên tâm vui sống, đón nhận phúc lộc trời ban.
Trước tiên bạn phải biết tài khí vị (hay còn gọi là Phương vị tàng phong tụ khí) sau khi xác định được vị trí tài khí thì cần có những động thái tích cực để cải thiện vị trí đấy giúp cho tài chính và sự nghiệp của chủ nhân tốt hơn.
Xác định Tài khí vị cho căn phòng như thế nào? Phong thủy căn cứ vào hướng khí đi vào căn phòng cũng chính là hướng của cửa chính để xác định Tài khí vị, nó chính là góc đối của hướng khí đi vào.
Cửa bên trái, vị trí tụ tài khí là góc đối xứng nằm phía bên phải
Cửa bên phải thì vị trí tụ tài khí là bên trái
Cửa ở giữa thì vị trí tụ tài khí là ở 2 bên
Đặc biệt nếu vị trí tài vận có cửa sổ sẽ bị tán tài vì tài vận sẽ bị gió thổi không nên mở cửa sổ.
Một vấn đề tiếp theo là sau khi xác định được vị trí tài vận thì sẽ làm gì với nó.
Có thể đặt cây hoặc bể cá ở đó. Đặt cây có thể tăng sinh khí cho căn phòng, làm tinh thần chủ nhân phấn chấn, đồng thời nếu là bể cá thì làm giảm khí xấu, tăng vượng khí cho căn phòng.
Theo phong thủy ứng dụng, còn một vấn đề lưu ý khác là tại vị trí tài vận không nên đặt những vật quá lớn, nó sẽ ép vận khí làm cho khí không tụ được tại đó, không có lợi cho phong thủy.
(Theo Phong thủy gia đình)
Cặp thứ ba trong Lục sát tinh là Hỏa-Linh (Hỏa tinh và Linh tinh). Lối an sao khiến cho tuổi nào cũng có thể gặp Linh Hỏa (cũng có tuổi không gặp). Có khi Linh-Hỏa đủ bộ, có khi Linh-Hỏa không đủ bộ và chỉ cần có một Linh hay một Hỏa tại Mạng hoặc tại cung Đại Vận. Những Linh và Hỏa cùng mạnh đến độ chỉ gặp một Linh hay một Hỏa cũng đã đủ ảnh hưởng.
Những tuổi gặp Hỏa Linh
Hai sao Hỏa và Linh thuộc Hỏa, rất kị các tuổi Canh, Tân (hàng Can) và Thân (hàng Chi), và những người Mệnh Kim.
Gặp Linh, hoặc gặp Hỏa (1 trong 2 sao) tại Mệnh hay tại Đại-Vận, thì những người tuổi Canh, Tân, Thân hay mạng Kim, là phải coi chừng.
Gặp tại Đại Vận, hay gặp những rắc rối, những khó khăn.
Gặp tại cung Mệnh, cuộc đời khó khăn, vất vả, phải cố gắng rất nhiều mới thành đạt, hoặc có khi khá lên mà rồi lại hỏng.
Sao nào mới trị được Hỏa Linh
Tuy nhiên, Hỏa Linh không phải hoàn toàn xấu. Chúng là một sức mạnh, để tự nhiên không người hướng dẫn thì sức mạnh đó tác hại, nhưng nếu có sự hướng dẫn thì sức mạnh đó lại hướng vào những cái tốt đẹp, phù giúp cho đương số. Điều này cũng y như cặp Không-Kiếp phải được gặp Phá Quân mới tốt, và cặp Kình-Đà phải được gặp Thất Sát.
Các sát tinh đó cũng như những đạo quân hùng mạnh, những đạo quân đó phải có chỉ huy giỏi và mạnh thì mới được việc hay. Nếu không có chỉ huy mạnh và sáng suốt, sức hung hãn của các đạo quân sẽ đáng sợ.
Hỏa và Linh phải gặp Tham Lang mới tốt.
Tham Lang mới vận dụng được sức lực, mới cai trị và chỉ huy được Hỏa và Linh.
Nhưng nên chú ý ở chỗ Tham Lang gặp Hỏa hay gặp Linh, mỗi đàng có một nét riêng biệt.
Tham Lang gặp Hỏa, thì được phú hơn là quý. Ví dụ : Ở Mệnh có Tham Lang và Hỏa-tinh là tốt, đương số được giàu có (hơn là được công danh). Mệnh có Tham Lang gặp Linh- tinh, thì đương số có chức phận lớn, có công danh (hơn là được giầu có, tức là phần tiền bạc bị kém)
Như trên đã nói, Hỏa-Linh tại Mệnh hay Hỏa Linh tại Đại Vận đều có ảnh hưởng lớn (cho bốc lên hay phá tán). Tuổi Canh, Tân, tuổi Thân, hay người Mệnh Kim gặp Linh, Hỏa thì bị nặng như đã nói . Ngoài ra, người có Mệnh Cơ-Lương, gặp Linh-Hỏa cũng bị nặng.
Phải Sát, Phá, Tham mới chỉ huy được Linh-Hỏa. Như thế, Linh-Hỏa ở Đại Vận gặp Sát, Phá, Tham thì tốt, mà người Mệnh Sát, Phá, Tham đến cung Đại Vận có Hỏa, Linh cung không sao.
Mệnh Tử Phủ, gặp Hỏa-Linh (tại Mạng hay tại Đại Vận), cũng bị ngăn trở đụng thêm Không Kiếp, càng hỏng.
Mệnh Vũ-Khúc, Thiên Lương gặp Hỏa-Linh thì không sao.
Thiên Tướng không sợ Hỏa, Linh, Không, Kiếp. Như thế, Mệnh Thiên Tướng gặp các sao đó chẳng sao. Người ở Mệnh có Thiên Tướng, đến Đại Vận gặp 4 sao xấu đó, không sao. Thiên Tướng chỉ sợ có Hình, Kình, Đà (nên nhớ là Đà La ở Thìn Thuất, vì ở Thìn Tuất, Đà La mới có ảnh hưởng là lưới trời ngăn cản công việc, công danh, tiền tài … của đương số).
Đạo quân
Theo lời cụ Thiên Lương:
-Không Kiếp như đạo quân nhảy dù
– Kình, Đà như đạo quân của Thủy Quân Lục Chiến
– Linh Hỏa như một đạo quân riêng biệt.
Ở một mình, không có chỉ huy mạnh và giỏi (hãm địa), chúng có sức tác hại mạnh mẽ, sai lạc. Nhưng gặp được chỉ huy giỏi có đất dụng võ hay, chúng lại có sức mạnh lớn, giúp ích cho đương số rất nhiều.
– Không Kiếp phải được Phá Quân
– Kình Đà phải được Thất Sát
– Linh Hỏa phải được Tham Lang
Có Tướng hay thì quân phải giỏi, phải giúp cho đương số lên mạnh.
trích KHHB
1. Đôi môi hồng hào, hàm răng trắng đều
Đa phần những cô nàng có nét tướng cách này đều được cánh mày râu săn đuổi nhiệt tình. Vì sao ư, vì tính cách họ dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe.
Hơn thế, người này có ưu điểm rất lớn chính là tính cách dung hòa, điềm tĩnh, lại rất chu đáo, sau này sẽ là người vợ hiền, mẹ đảm, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tốt đẹp. Đây chính là một trong những đặc điểm của tướng phụ nữ được phúc khí bao bọc.
1/ Ở thôn quê không khí thông thoáng phép lập trạch phải thu cả sơn lẩn thủy thì mới được tốt, Nơi thành thị khí tụ, tuy không có nước để thu mà có nhà lân cận lồi lõm thấp cao, đường xá quanh co rộng hẹp, thấp lõm uốn khúc rộng là thủy, lồi cao thẳng hẹp là sơn .
2/ Ai tinh, âm dương trạch ai tinh không khác, lấy nguyên vận thụ khí làm chủ, sơn hướng phi tinh với khách tinh gia lâm làm dụng, âm trạch trọng thủy, dương trạch trọng môn hướng, nhưng môn hướng sở dỉ nạp khí, như ngoài cửa có nước óng ánh, thì tốt hơn đường lộ, suy vượng do thủy, cân nhắc do lý của sao, cũng là không khác vậy).
4/ Hoàn cảnh đường cục, phàm xem dương trạch, trước xem hình thế khí mạch của núi sông có hợp cục không, sau xem lộ đi và chu vi của ngoài 6 việc, nóc nhọn nhà lân cận cột cờ mồ mã chùa chiền cây cối các vật tọa lạc ở tinh cung nào, phân biện suy vượng để đoán cát hung.
5/ Cửa cái mở xê bên ----, phàm dương trạch lấy đầu hướng cửa cái nạp khí mà đoán cát hung, cửa cái mở xê một bên, tức phải dùng hướng cửa và hướng nhà, hợp hai bàn mà xem, ngoại cát nội hung, khó tránh nầy nọ, nội cát ngoại hung, chỉ được khá giả.
6/ Nhà lớn cửa nhỏ, phàm nhà với cửa lớn nhỏ phải tương xứng với nhau, nếu nhà lớn cửa nhỏ sẽ không tốt, nhưng hướng nhà hướng cửa sinh vượng thì không sao.
7/ Thừa vượng khai môn,--- phàm nhà cũ muốn mở cửa vượng, phải lấy thời gian từ ngày xây cất, phi tinh của vận đó mà suy luận, như vận nhất bạch lập nhâm sơn bính hướng, vượng tinh đáo tọa, không phải nhà tốt, đến vận tam bích mở cửa tại giáp, thì mới hấp thu được vượng khí, vì lúc xây cất hướng thượng phi tinh tam bích đáo chấn, giao vận tam thừa thời đắc lệnh, không phải là chấn tam của địa bàn, nếu khai môn tại Mão cũng phải kiêm giáp, mới được khí đồng nguyên của sơn hướng vậy,8/ Tân khai vượng môn, -- phàm nhà cũ mở vượng môn sau, phép đoán dùng hướng cửa khỏi dùng hướng nhà, đặt bếp lập phòng cũng dùng hướng cửa mà định vị, tức theo đó trước, là chỉ đại khai vượng môn, nếu như cửa cái bị che lấp, hoặc đóng kín, thì xét phương hướng âm dương thuận nghịch, mà thừa thời lập hướng, như mở cửa nhỏ để thông vượng khí, phải dùng đồng nguyên nhất khí, vẩn theo lúc khởi tạo lập cục hướng nhà mà luận đoán thì được .
9/ Vượng Môn bế tắc,--- phàm sở khai vượng môn, trước mặt có nhà bế tắc, không thể trực đáo, thì mở thêm 1 cửa nhỏ kế bên để thông với vượng môn, tức cửa nhỏ kể như khí con đường thông qua vậy, khỏi cần đặt la bàn xem,
10/ Vượng môn nền cao,--- ngoài cửa vượng môn có nước, vốn là đại cát, nhung nền cửa lại cao hơn nền nhà, tuy có vượng thủy nhưng không thu được, nền cửa cao hơn nội minh đường cũng vậy, như ngoài cửa lộ cao, thì luận cách khác.
Học Phong Thủy
Phong thủy đối với người Á Đông luôn hữu ích với mọi không gian sinh hoạt và làm việc. Một số nguyên tắc phong thủy sau sẽ giúp bạn tạo cơ sở tốt nhất cho sự phát triển của mình cũng như công ty. Nên dựa vào người có quyền hành cao nhất để tính toán phong thủy cho văn phòng.
Bên cạnh phòng của sếp không nên có vòi nước nhằm tránh “dột tiền tài”. Tương tự, nền nhà hay tường công sở bị thấm nước, rạn nứt cũng tượng trưng cho sự "rơi lọt tiền tài". Cần có biện pháp khắc phục ngay.
Phong thủy tốt giúp công ty làm ăn phát đạt |
Vị trí tài lộc chính là góc chéo đối diện ngay cửa đi vào trong phòng. Vị trí này cần sáng và sạch sẽ; kiêng đặt hoa và cây cảnh giả.
Cổng văn phòng tối kỵ đối diện cột điện, ống khói hoặc gốc cây to. Cũng không đặt nhà vệ sinh ngay cạnh cổng bởi toilet sẽ chặn luồng không khí mới vào văn phòng, ảnh hưởng xấu đến vận may và sự nghiệp.
Nền nhà văn phòng kỵ quá thấp vì sẽ không đem lại may mắn trong làm ăn, đồng thời ảnh hưởng đến việc thông gió.
Cầu thang tránh đối diện cổng vì như vậy luồng khí đến và đi sẽ xung đột, không tốt cho vận may và sức khỏe.
Văn phòng không có cửa sổ là điều đặc biệt xấu vì khí không thể lưu thông.
Tránh ánh sáng tối tăm. Ánh sáng trong văn phòng phải chan hòa, ánh sáng tự nhiên tốt hơn là đèn điện. Vì thời gian làm việc rất dài, cường độ ánh sáng mạnh yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị lực.
Trong văn phòng ngoài bày tủ sách, máy tính, ghế ngồi cũng nên trang trí thêm các đồ thủ công mỹ nghệ, cây cảnh tạo không gian tươi sáng, trang nhã.
(Tổng hợp)
1. Cách giải họa qua các sao:
a. Chính tinh:
Vũ Khúc: là sao giải họa mạnh nhất. Nếu Vũ Khúc miếu, vượng và đắc địa gặp Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh thì không đáng lo ngại trong khi Tử Vi chỉ chế được Hỏa, Linh. Nếu Vũ Khúc đồng cung với Thiên Tướng thì khả năng chống đỡ với sát tinh càng mạnh thêm, cho dù sát tinh đó đắc địa hay hãm địa.
Thiên Tướng: khắc chế được sát tinh. Có võ tinh khác đi kèm, Tướng được thêm uy, thêm quân. Được Vũ Khúc đồng cung, hiệu lực của Thiên Tướng càng được tăng cường: tiêu trừ hay giảm thiểu tai họa, bệnh tật một cách đáng kể. Thiên Tướng chỉ e ngại Kình Dương, Thiên Hình và hai sao Tuần, Triệt. Với Kình Dương, hung nguy dễ gặp. Với Tuần Triệt và Thiên Hình, Thiên Tướng không những mất uy lực cứu giải mà còn báo hiệu bệnh, tật, họa nặng nề hơn nữa.
Tử Vi: là cách giải họa gián tiếp vì (i) Tử Vi che chở con người chống lại bệnh tật và họa nhưng Tử Vi chỉ ban phúc chứ không giải họa mạnh như Vũ Khúc hay Thiên Tướng. Đối chọi với sát tinh, Tử Vi chỉ khắc được Hỏa, Linh mà thôi. Gặp sát tinh khác như Kình, Đà, Không, Kiếp, Tử Vi ví như bị vây hãm một cách hiểm nghèo: tuy không chết nhưng gặp hung họa dẫy đầy, đấu tranh chật vật; (ii) Tử Vi mang lại tiền bạc, của cải giúp con người tránh được cảnh nghèo, đồng thời giúp con người tạo phúc cho mình bằng tiền bạc; (iii) Tử Vi ban cho công danh, quyền thế trong xã hội, không bị đè nén bởi sự cạnh tranh giai cấp.
Thiên Phủ: cũng có đặc tính như Tử Vi nhưng hiệu lực kém hơn. Tuy nhiên, Phủ mạnh hơn Tử trong việc đối chọi với sát tinh: có tác dụng khắc phục được cả Kình Đà nhưng hiệu lực này chỉ có đối với từng sao riêng lẻ hoặc nhiều lắm là hai hoặc ba sao phối hợp. Lẽ dĩ nhiên, Phủ chưa phải là địch thủ của Địa Không, Địa Kiếp và Phủ còn chịu thua Thiên Không nữa. Mặt khác, gặp Tuần Không và Triệt Không, Phủ bị giảm hẳn khả năng cứu giải.
Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung: chế hòa được Kình, Đà, Hỏa, Linh phối hợp nhưng đây là cuộc đọ sức giữa các địch thủ hạng nặng, hẳn sẽ gây biến động lớn cho cuộc đời. Bản Mệnh chỉ vững chãi nếu được đắc cách Mệnh Cục tương sinh, Âm Dương thuận lý cùng với Tử Phủ đắc địa đồng cung. Bằng không, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, hiểm tai nghiêm trọng. Phối cách này cũng tạm thời cầm chân được từng sao Địa Không, Địa Kiếp.
Tử, Phủ, Vũ, Tướng cách: cách hay nhất vì giải họa thập toàn nhất.
Thiên Lương: nếu đóng ở cung Phúc thì đức của ông bà di truyền được cho mình, nếu đóng ở Mệnh, Thân thì tự mình tu nhân, tích đức, gây được hậu thuẫn cho người đời. Nhưng Thiên Lương chỉ kìm chế được hung tinh mà thôi.
Thiên Đồng: ý nghĩa tương tự như Thiên Lương nhưng hiệu lực cứu giải kém hơn. Gặp hung tinh, Thiên Đồng ắt phải lận đận nhiều và chỉ kìm chế được nếu có thêm giải tinh trợ lực. Đối với bệnh tật, Thiên Đồng ắt phải lận đận nhiều và chỉ bệnh về bộ máy tiêu hóa vì Thiên Đồng giải bệnh tương đồng kém.
Thái Dương, Thái Âm sáng sủa: chỉ sự thông minh quán thế, khả năng nhận thức thời cuộc, sự am hiểu lẽ trời, tình người từ đó Nhật Nguyệt giúp con người thích nghi dễ dàng với nghịch cảnh với nhiều may mắn. Tuy nhiên, đối với bệnh tật, Nhật Nguyệt không mấy hiệu lực: chỉ bệnh căng thẳng tinh thần, bệnh thần kinh, bệnh tâm trí và nhất là bệnh mắt. Nhật Nguyệt có hiệu lực như Thiên Phủ đối với Kình, Đà, Hỏa, Linh nhưng bị Không, Kiếp lấn át. Nếu Nhật Nguyệt đồng cung ở Sửu Mùi có Tuần Triệt án ngữ, thêm Hóa Kỵ càng tốt, khả năng giải họa tất phải mạnh hơn, chống được hung và sát tinh đơn lẻ. Giá trị của Nhật Nguyệt trong trường hợp này tương đương với Tử Phủ đồng cung hay ít ra cũng bằng Đồng Lương hội tụ.
b. Phụ tinh:
+ Những giải tinh bắt nguồn từ linh thiêng: được cụ thể hóa qua: những hên may đặc biệt giúp cho con người thoát hay giảm được bệnh tật, tai họa; những vận hội tốt đẹp của thời thế, của hoàn cảnh, những diễn biến bất ngờ có lợi đặc biệt cho riêng mình. Gồm các sao: Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc
+ Những giải tinh bắt nguồn từ sự giúp đỡ của người đời: Tả Phù, Hữu Bật khi đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và có kèm theo nhiều cát tinh khác. Tả Hữu tượng trưng cho sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, thượng cấp, hạ cấp nhưng chỉ cứu họa chứ không giải bệnh. Tả Hữu còn có nghĩa là chính mình hay giúp đỡ kẻ khác nhờ đó được sự hỗ tương. Có hai sao này ở Mệnh, đương số dễ dàng thành đạt nhưng cần đi chung với chính tinh đắc địa.
+ Những giải tinh bắt nguồn ở chính năng đức con người:
Tam Hóa (Khoa, Quyền, Lộc): càng mạnh nghĩa hơn nữa. ý nghĩa đó càng mạnh nếu cả ba hội chiếu hoặc liên châu (Mệnh, Thân ở giữa có một Hóa, hai Hóa kia tiếp giáp hai bên). Thủ Mệnh hay Thân, Tam Hóa có hiệu lực mạnh hơn thế liên châu, nhất là không bị sát tinh xâm phạm. Tam Hóa sẽ tăng hiệu lực nếu đóng ở cung ban ngày và cung dương. Tam Hóa giải họa nhiều hơn giải bệnh,tật. Nếu bị sát tinh đi kèm, Hóa nào bị thì nguồn cứu giải của Hóa đó bị giảm sút hoặc bị họa về mặt đó. Cụ thể, Quyền gặp Không Kiếp thì quý cách bị giảm, Lộc gặp Không Kiếp thì hao tán tiền bạc, Khoa gặp Không Kiếp thì khoa bảng lận đận.
Tứ Đức (Long Đức, Nguyệt Đức, Thiên Đức và Phúc Đức): chỉ phẩm cách tốt, sự nhân hậu, khoan hòa của cá nhân, nết hạnh đó báo hiệu sự vô tai họa hay ít tai họa. Hiệu lực giải bệnh của Tứ Đức không có gì đáng kể.
Thiếu Âm, Thiếu Dương: ý nghĩa giống như Tứ Đức nhưng hiệu lực kém hơn và không có nghĩa giải bệnh.
+ Những giải tinh khác:
Thiên La, Địa Võng: có tác dụng làm cho sao xấu thành tốt lên ít nhiều, do đó góp phần giảm họa riêng trong các hạn nhỏ.
Đại Hao, Tiểu Hao: nếu đóng ở cung Tật, Đại Tiểu Hao có hiệu lực giải họa đáng kể, cụ thể như làm họa, bệnh tiêu tán mau kiểu như bệnh chóng lành, người bị họa mau khôi phục thế quân bình. Vì la sao hao nên kỵ đóng ở cung Tài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Ông Bính - một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18.
Nội dung: Để chuẩn bị cho lễ hội, từ trong chức sắc của 9 làng phải tổ chức họp bàn với nhau. Làng Mộ Đạo có chính đền, thuộc tích nhất, phải chuẩn bị những lễ vật để tế thần tại đền Đậu như: Lễ Tam sinh (lợn, dê, ngỗng trắng), lợn tượng (lợn tạ) và các loại rượu, bánh trái, hoa quả đặc sản của địa phương (rượu Hoàng tửu, bánh đường, chè kho, chè lam, kẹo lạc…). Những làng còn lại, mỗi làng phải lo một lợn tượng để tế thần. Sáng ngày 16 tháng 3, tất cả 9 làng đều phải rước kiệu thần từ đình làng mình đến tập trung tại đền Đậu để tế lễ và mở hội. Đoàn rước kiệu của các làng, vai cờ kiệu là “giai trần” (trai tráng cởi trần, đóng khố), đầy đủ cờ kiệu, tàn lọng, siêu đao, bát bửu, trống chiêng và còn phải có đội “quân cờ”. Đội quân cờ có tướng cờ và quân cờ, mặc trang phục màu đỏ, tướng cờ có lọng che và đội quân cờ này là tượng trưng cho nghĩa binh của thần khi đánh giặc. Khi các đoàn rước của các làng tập trung đông đủ tại đền Đậu, theo thứ tự kiệu của các làng được rước vào đền trong, đền ngoài các quan viên tế của các làng cùng tế. Trong khi tế lễ có hát ca trù để thờ thần. Làng Mộ Đạo là một trong cái nôi của hát ca trù, các nghệ nhân không những tham gia hát thờ, mà còn tham gia hát hội. Lễ hội đền Đậu kéo dài đến ngày 20, sau khi tế “rã đám” thì kiệu thần của làng nào lại được rước về làng ấy.
Trong những ngày lễ hội đền Đậu, sau phần lễ là phần hội với nhiều tục trò dân gian vui chơi, giải trí như: Tuồng, chèo, ca trù, đu cây, thi vật, thi dệt vải, nhảy phỗng, bắt vịt, bắt trạch… thu hút hàng ngàn người đến lễ hội.
Những chiếc lọ thủy tinh sẽ trở nên lung linh trên bàn nước phòng khách nếu được chăm chút.
Bạn có thể tạo nên nét đẹp cho chúng bằng cách trang trí thêm hoa tươi, nến, hạt thủy tinh...
Chỉ cần những ngọn nến, vài nhánh hoa đặt trong đèn thủy tinh kiểu cổ bày trên bàn nước
là bạn đã tạo được cảm giác nhẹ nhàng, lãng mạn cho phòng khách
Tạo phong cách gần gũi với thiên nhiên cho phòng khách với một chậu hỏa nhỏ trên bàn
nước, những vật dụng làm từ chất liệu tự nhiên như đồ mây tre đan, thảm dệt...
Phòng khách có thêm sức sống với một chậu cây xanh nhỏ làm điểm nhấn trên bàn nước
Phòng khách trở nên thanh lịch, cổ điển với một chiếc cốc thủy tinh đựng nến đặt trên bàn nước
Với những phòng khách nhỏ, ít bàn ghế hãy dùng một chiếc bàn gỗ cùng với hoa, giỏ mây, đĩa
đựng hoa quả phù hợp trên bàn nước sẽ giúp phòng khách nhìn phong cách hơn
Bàn nước này trở nên vô cùng phá cách với một khúc gỗ dài đặt những ngọn nến nhỏ bên trên
Phòng khách gợi cảm hứng đại dương nhờ những giỏ mây
đựng đầy vỏ ốc, đá cuội...trên bàn nước
Nến sáng lung linh và những chậu cây nhỏ xinh trên bàn nước
giúp không gian phòng khách trở nên vô cùng lãng mạn
Những hướng dẫn dưới đây sẽ giúp bạn bắt tay vào dọn đẹp sự bừa bộn trong ngôi nhà thành công và tiến hành công việc này trong khoảng thời gian đủ để thật sự nhìn thấy kết quả.
Nên:
– Bắt đầu ngay và tự cam kết bỏ ra 5-10 phút mỗi ngày để tiến hành dọn dẹp.
– Tạo ra một “vùng không bừa bộn”, nơi bạn có thể thư giãn và thoát khỏi tình trạng bừa bộn khi dọn dẹp các khu vực còn lại trong nhà.
– Mỗi lần dọn, tập trung vào một căn phòng (phòng tắm, phòng bếp, phòng ngủ) hay một dạng bừa bộn quần áo, sách vở, tranh ảnh, giấy tờ. Hãy coi mỗi căn phòng bừa bộn là một phòng riêng biệt. Hãy nhớ rằng các bậc cầu thang nhỏ là tốt. Nếu bạn có nhiều năng lượng và động lực, và muốn dọn dẹp cả ngày, đó là điều tuyệt vời. Vào những ngày bạn không cảm thấy như thế (và có thể có nhiều bậc cầu thang) nên làm mỗi lúc 1 ít.
– Hãy luôn tự hỏi: “Ai có thể dùng thứ này không?” và “Thứ này có tái chế được không?” trước khi vứt bỏ bất cứ vật gì.
– Đảm bảo rằng bạn đã dọn dẹp kỹ lưỡng trước khi mua thêm hộp đựng đồ. Nếu làm tốt công việc dọn dẹp các vật bừa bộn, bạn sẽ không cần đến chúng.
– Thừa nhận là xử lý các vật bừa bộn trong nhà có thể làm này sinh các vấn đề xúc cảm. Ví dụ, dọn dẹp phòng bếp có thể buộc bạn phải đương đầu với các vấn đề về thức ăn. Xem xét đồ đạc của người mẹ đẵ khuất có thể mang lại cảm giác mất mát và thương tiếc.
– Loại bỏ quần áo có thể phải chấp nhận thực tế là bạn sẽ không bao giờ có được dáng hình thon thả nữa. Nếu những xúc cảm khó khăn xuất hiện trong khi bạn dọn dẹp các vật bừa bộn, hãy để điều đó xảy ra cho dù tâm trạng không thoải mái. Khi đã để lộ những xúc cảm đó, việc loại bỏ vật bừa bộn có thề trờ nên dễ dàng hơn nhiều.
Không nên:
Cảm thấy có lỗi vì để xảy ra tình trạng bừa bộn hay vì chưa dọn dẹp xong, bừa bộn là việc bình thường và dù nó có tồi tệ đến mức nào, vẫn có nơi còn bừa bộn hơn nhiều so với nhà bạn.
Tạm gác việc dọn dẹp cho đến khi bạn có đủ thời gian và sức lực cần thiết cùng động lục mạnh mẽ để dọn sạch các vật bừa bộn trong nhà . Hãy nhớ ràng điều này sẽ không bao giờ xảy ra.
Những vật đó sẽ tạo nên một đống hỗn độn. Hãy tin rằng nếu mười năm sau bạn thật sự cần ba chục vỏ chai, bạn sẽ có được nhiều hơn thế.
Cảm thấy có lỗi vì bỏ đi hay đem báu vật gì đó có giá trị mà người khác đã tặng bạn. Hãy giữ lại tình cảm yêu mến gắn liền với món quà đó (tình cảm này không hề chiếm một khoáng không nào ngoại trừ khoảng không trong trái tim bạn), và quyết định loại bỏ vật gây bừa bộn này.
Cho rằng mang bán hay rao trên mạng hàng chục (hay hàng trăm) mặt hàng là những cách tốt nhất để loại bỏ đồ vật. Chắc chắn bạn có thể kiếm được một ít tiền, nhưng có đáng thời gian và công sức không? Bán hàng ngoài trời là cách tuyệt vời nếu bạn thật sự muốn có tiền; nếu bạn chỉ muốn có cám giác thu được một chút giá trị từ đống đồ đó, hãy tặng chúng cho hội từ thiện.
Cuối cùng, nếu bạn cần giúp đỡ để xử lý các vật bừa bộn trong nhà, hãy thuê một tổ chức chuyên nghiệp hay khai thác nhiều nguồn giúp dọn dẹp có sẵn trên Internet.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Họ có thể phát huy được hết khả năng của mình ở những công việc như: học giả, nhà soạn nhạc, nhà phê bình, nhà nghiên cứu, diễn viên, kinh doanh, kế toán…
Người tuổi Tý nếu được làm việc độc lập thì công việc sẽ luôn thuận lợi. Nếu phải phối hợp làm việc với một người khác thì dễ khiến họ mất hứng thú, hiệu quả công việc sẽ không cao. Chính vì vậy mà họ cần học cách hợp tác với mọi người và điều chỉnh mình trong mọi mối quan hệ.
Những người này có trực giác nhạy bén, có thể nắm bắt rất tốt các sự việc, luôn biết lắng nghe và phân biệt phải trái. Do vậy, họ cũng rất phù hợp với các công việc mang tính chất cải biến và đòi hỏi tính sáng tạo, tỷ mỉ. Một số công việc như quản lý, kỹ thuật, gia công, quay phim, chụp ảnh nghệ thuật cũng giúp họ phát huy được hết khả năng của mình và dễ đạt được thành tích cao.
Bên cạnh những ưu điểm đó, người tuổi Tý còn có khả năng quan sát và diễn thuyết tốt nên cũng rất phù hợp với công việc mang tính tuyên truyền.
Tuy rất dễ nổi bật trong mắt mọi người nhưng họ lại không phù hợp để làm các công việc đòi hỏi sự cương nghị, nghiêm khắc như cảnh sát, quân đội hay bất kỳ công việc nào có liên quan đến chính trị.
Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời
Muốn tính năm âm lịch có tháng nhuận hay không, ta lấy năm dương lịch chia cho 19, nếu chia hết hoặc cho các số dư 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm đó sẽ có tháng nhuận.
Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).
Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.
Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.
Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận chỉ việc lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.
Ví dụ:Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.
Chúng tôi đương sọan bài tóm tắt lại các kinh nghiệm tử vi đã được nêu lên trong năm ngóai trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.
I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
III- Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
IV- Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời).
V- Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
VI. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
X- Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
XI- Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
XIII- TỔNG LUẬN
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái "áo bí" của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu./.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
1. Giới thiệu về năm bản mệnh
Trong cuộc đời khi một người gặp phải một năm có địa chi giống như năm mà người đó sinh ra, thì năm đó gọi là năm bản mệnh hay năm tuổi.
2. Năm 2015 là năm bản mệnh của những người nào?
Mỗi năm sẽ có những người bước vào năm bản mệnh, bị các sao Hung chiếu, khiến cho cuộc sống lận đận, không thể yên ổn. Năm nay những người sinh năm 1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003 sẽ bước vào năm bản mệnh.
Năm nay là năm bản mệnh của những người cầm tinh con Dê.
3. Năm bản mệnh có ảnh hưởng như thế nào?
Năm bản mệnh cũng giống như một chiếc ghế có hai người cùng ngồi, một bát cơm có hai người cùng ăn, hoặc đi đường, làm việc phải cõng thêm một người nữa. Năm bản mệnh có cái tốt cũng có cái xấu. Điều tốt là tiền tài sẽ tăng lên nhanh chóng, sự nghiệp lên như diều gặp gió; điều xấu là điều xui xẻo liên tiếp kéo tới.
Tóm lại, những người trong năm bản mệnh sẽ không thể có một năm yên lành. Trong năm 2015, năm bản mệnh là thiên can Ất Mộc khắc chế Vị Thổ, khiến cho những người tuổi Dê chịu nhiều ràng buộc, khó có thể tiêu dao tự tại.
4. Vận thế của những người năm bản mệnh 2015
Những người tuổi Dê một khi bước vào năm Dê Ất Vị, sẽ bị các sao hung Kiếm Phong, Thái Tuế, Trạng Thi chiếu. Khi đó dễ có hiện tượng sức khỏe bị tổn hại, công việc sự nghiệp có biến động lớn, hoặc là nhảy việc, từ chức, thất nghiệp, đương nhiên cũng có cả thăng chức, điều động,...- không nhất định là chỉ có những ảnh hưởng xấu. Về tài vận, nhất là những người kinh doanh, khi đầu tư khoản tiền lớn thì cần vạch kế hoạch kĩ càng, kể cả phương án khống chế rủi ro để tránh lâm vào bước đường cùng, đói quá hóa liều.
Những người năm bản mệnh có áp lực tâm lý lớn, thường rơi vào trong mâu thuẫn, khó có thể thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, cần tự điều chỉnh, gặp gỡ giao lưu với nhiều người và tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể.
Những người thuộc năm bản mạng cần vạch rõ kế hoạch khi kinh doanh để tránh rủi ro.
5. Vận thế của từng năm bản mạng cụ thể thế nào?
Những người sinh năm 1931: tránh ngã bị thương.
Những người sinh năm 1943: chú ý các bệnh về tim, ngực, huyết quản.
Những người sinh năm 1955: chú ý bệnh về gan, thận.
Những người sinh năm 1967: tài vận không ổn định, đầu tư cần thận trọng.
Những người sinh năm 1979: dễ chiêu đào hoa, cần giữ mình thanh khiết.
Những người sinh năm 1991: công việc dễ gặp nhiều biến động.
Những người sinh năm 2003: học tập dễ phân tâm, không thể tập trung tinh thần.
Trên đây chỉ là những vấn đề nổi trội của từng năm chứ không có nghĩa là những người trong năm đó chỉ có hung mà không có cát.
6. Cấm kỵ trong năm bản mạng
- Những người năm bản mạng kỵ nhất là bị thương, chảy máu, phẫu thuật - nhất là những người tuổi đã cao hoặc những người hoạt động ngoài trời càng cần chú ý.
- Không được đặt đồ ví dụ như bàn làm việc, đầu giường …. ở hướng sao Thái Tuế cũng không được đặt ở hướng tương phản với Thái Tuế, tức hướng Tuế Phá. Nếu như đặt đồ vào hai hướng ấy sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra. Đồng thời vị trí Thái Tuế cần được giữ gìn sạch sẽ, có thể trồng cây phong thủy để tăng thêm may mắn, không nên động thổ, tu sửa ở hướng này. Năm nay hướng sao Thái Tuế là hướng Tây Nam, hướng Tuế Phá là Đông Bắc.
7. Cách hóa giải cho những người năm bản mạng
- Dùng vải đỏ: trên những cây cổ thụ gần đền chùa thường treo rất nhiều mảnh vải đỏ. Nhiều người không biết những mảnh vải này dùng để làm gì, thật ra là dùng để hóa giải tai kiếp. Mua 1/3m vải đỏ, dùng bút viết tên và thời gian sinh của mình, và cả ước nguyện, sau khi viết xong buộc ở eo hoặc đặt dưới gối. Ba ngày sau, chọn giờ lành đem buộc lên cây cổ thụ. Trước khi buộc lên cây cổ thụ cần đi quanh cây bên trái 3 vòng, bên phải 3 vòng, vừa đi vừa lẩm nhẩm ước nguyện của mình.
Vì sao như vậy lại có thể hóa bỏ tai ương và bảo vệ cho bạn? Là bởi vì những cây cổ thụ có tuổi thọ cao, sức sống mãnh liệt, khả năng chịu đựng và chống chọi với tự nhiên khắc liệt lớn, trải quả hàng trăm năm mưa gió bão bùng còn không bị đổ, huống chi là gánh vác chút khó khăn của bạn.
- Phóng sinh: 3 ngày trước khi phóng sinh, mua 3 đến 5 còn rùa, mỗi con khoảng nửa cân, trên lưng rùa khắc tên của mình. Nuôi những con rùa này trong phòng ngủ của mình 3 ngày. 3 ngày sau chọn giờ lành đem thả ở ao, sông hoặc hồ.
Nếu như có thể kiên trì phóng sinh trong nhiều năm, thì không những sức khỏe dồi đào, mà sự nghiệp, tình duyên cũng thuận lợi. Thời gian thích hợp nhất để phóng sinh, thường là những ngày cuối cùng của một năm hoặc những ngày đầu tiên của một năm, lấy Âm lịch làm chuẩn.
Phóng sinh rùa là một cách hóa giải vận hạn năm bản mạng.
- Đi chùa: Nếu như có điều kiện, đầu năm những người năm bản mạng nên đến chùa, miếu bái Thái Tuế hoặc đốt hương cầu phúc.
Đốt hương cầu Phúc là việc không thể thiếu trong những ngày Tết để hóa giải vận hạn.
- Dùng bùa: Cách này tương đối phức tạp, còn dựa vào từng người cụ thể, tốt nhất nên hỏi ý kiến của những người có chuyên môn.
1. Phụ nữ mang thai không nên đi tảo mộ
Nơi tảo mộ có âm khí nặng, sẽ ảnh hưởng không tốt tới phụ nữ mang thai. Bên cạnh đó, việc đi tảo mộ thường rất đông đúc, khó tránh tình trạng va chạm nhẹ, vì an toàn của thai phụ và thai nhi, tốt hơn hết nên tránh việc đi tảo mộ.
Theo thần thoại của Đạo giáo Trung Hoa, người thầy đầu tiên, cũng là người có pháp lực, đạo hạnh cao nhất trong các thần tiên là Hồng quân lão tổ. Hồng quân lão tổ do khí hồng mông hoang sơ sinh ra, từ khi chưa có vũ trụ, chưa có thế giới vật chất, ý thức tinh thần. Hồng quân lão tổ dạy ba người học trò ưu tú.
Người đầu tiên đó là Lão tử, Tổ sư của đạo giáo, ông là một vị thần vào bậc lãnh tụ tối cao. Công việc của ông là chưởng quan nhân giáo, đảm đương những công việc về đạo đức, lễ nghĩa, tu luyện, bào chế linh đơn để kéo dài tuổi thọ. Tên hiệu đầy đủ là Thái thanh, - Đạo đức Thiên tôn, Thái thượng Lão quân. Ông có bảo bối là một chiếc vòng kim cương, một lò bào chế rất nhiều linh đơn, cưỡi một con trâu màu xanh.
Học trò thứ hai của Hồng quân lão tổ là Nguyên Thủy Thiên tôn. Người được sinh ra từ khí gốc đầu tiên của vũ trụ, là thái cực khí nguyên gốc trước khi phân chia thành lưỡng nghi âm dương. Ông là lãnh tụ của Xiển giáo. Nguyên lý của Xiển giáo quy tắc rất nghiêm ngặt. Thường chọn lọc đệ tử rất kỹ lưỡng, phải là người có phẩm chất trong sáng, căn nguyên đạo hạnh thì mới thu nạp và dạy dỗ.
Học trò của Nguyên Thủy Thiên Tôn gồm có 13 người tất cả
1. Quảng Thành Tử ở động Đào Nguyên núi Cửu Hoa
2. Hoàng Long chân nhân ở động Ma Cô núi Nhị Tiên
3. Thái Ất chân nhân ở động Kim Quang núi Càn Nguyên
4. Văn Thù Quảng Pháp thiên tôn ở động Vân Tiêu núi Ngũ Long
5. Từ Hàng đạo nhân ở động Lạc Già núi Phổ Đà
6. Đạo Hành thiên tôn ở động Ngọc Ốc núi Kim Đình
7. Xích Tinh Tử ở động Vân Tiêu núi Thái Hoa
8. Cù Lưu Tôn ở động Phi Vân núi Giáp Long
9. Linh Bảo đại pháp sư ở động Nguyên Dương núi Không Động
10. Phổ Hiền đạo nhân ở động Bạch Hạc núi Cửu Cung
11. Ngọc Đỉnh chân nhân ở động Kim Hà núi Ngọc Tuyền
12. Thanh Hư Đạo Đức chân nhân ở động Tử Dương núi Thanh Phong
13. Khương Tử Nha
( Khương Tử Nha học trò thứ 13 của Nguyên Thủy Thiên Tôn tay cầm cơ tiết, tay cầm roi đả thần tiên )
Trong số những đệ tử này có một số người sau đó lĩnh hội cả Phật giáo và trở thành bồ tát: Văn Thù bồ tát, Phổ Hiền bồ tát, Cù Lưu Tôn và Từ Hàng đạo nhân (Quan Thế âm bồ tát).
Người học trò thứ 13 của ông không đắc đạo thành tiên mà phong thần, cai quản sao Thiên Cơ, thần của mưu lược, tính toán, trí tuệ, giúp đỡ và học thức.
Tôn hiệu của ngài là Ngọc Thanh, Thánh Cảnh, Đai La - Nguyên Thủy Thiên tôn. Ông tụ luyện ở cung Ngọc Hư.
Sư đệ của Nguyên Thủy Thiên tôn là Thông Thiên giáo chủ. Tôn hiệu của ngài là Thượng Thanh Linh Bảo Thiên tôn. Ông đứng đầu Triệt giáo. Tu đạo ở cung Bích Du
Linh Bảo Thiên tôn coi vạn vật chúng sinh đều bình đẳng như nhau, và ai cũng có quyền tiếp cận với đạo, nghiên cứu, học tập và tu luyện. Bởi vậy, ngài thu nạp chấp nhận truyền thụ cho tất cả mọi loài, không phân thiện ác, chẳng lựa hiền ngu. Học trò của ông chiếm một số lượng rất đông, hầu hết là các loài vật, cây cối, chim muông, ngọc đá, nhờ hút linh khí âm dương mà tu luyện thành hình người, khi được truyền đạo có thêm phép thuật.
Mặc dù chiếm một lượng lớn, nhưng về chất thì không có. Nhóm đệ tử của ông cũng chưa hẳn là đã mất hết dã tính, rất dễ gây thị phi ồn ào. Trong các phim hay truyện tiểu thuyết thần tiên còn gọi một từ đó là “yêu quái”.
Vì quan điểm về vũ trụ, đạo lý, nhân sinh và cách truyền tải đạo lý, giáo dục khác nhau nên tạo ra mâu thuẫn với Xiển giáo. Đến thời kỳ Thượng cổ, khi chính quyền Nhà Ân do Trụ vương lãnh đạo quá thối nát đến lúc sụp đổ theo quy luật tự nhiên. Nhận thấy trong trời đất tam giới còn thiếu nhiều thần linh cai quản. Ba vị Tam thanh giáo chủ cùng ngồi họp bàn lập nên bảng phong thần để giáng một số tiên chưa đủ đạo hạnh, pháp lực xuống làm thần. Thu nạp các trung thần nghĩa sỹ hi sinh vì cuộc sinh lửa loạn lạc để phong thần. Còn lại, những người phẩm hạnh cực kém thì đầy làm quỷ sứ.
Cuộc chiến tranh mà Chu Vũ Vương phát động nhằm lật đổ chính quyền Trụ Vương, là một cuộc cách mạng nhằm xóa bỏ chế độ cũ. Nhưng thực ra nó cũng là sự sắp đặt của các đấng tối cao có uy lực bao trùm vũ trụ, hay là một cuộc đọ sức thi tài giữa hai bên Xiển giáo và Triệt giáo. Kết thúc bằng thắng lợi của bên Xiển giáo, Chu Vũ Vương và Khương Tử Nha. Nhưng trong thực tế, Triệt giáo đóng góp rất nhiều học trò đệ tử cho vũ trụ, như Nhị thập bát tú, Thiên binh thiên tướng, và rất nhiều các vị thần linh khác.
Xem lá số tử vi trọn đời để biết 28 ngôi sao trong Nhị thập bát tú ảnh hưởng như thế nào đến vận mệnh của bạn.
Như vậy Tam thanh là ba vị thần tối cao được thời trong Đạo giáo gồm có Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn.
Xem những truyền thuyết về các vị thần này và tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa của Hứa Trọng Lâm, ta thấy được trí tưởng tượng phong phú và rực rỡ màu sắc của người Trung Hoa thời thượng cổ.
Về mặt đạo lý, triết học, nhân sinh quan thì nói lên một quy luật hết sức phổ biến trong cuộc sống, đó là hai mặt âm dương, sáng tối, trong đục, các cặp phạm trù, các mặt đối lập, mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, tất cả các vấn đề này luôn luôn đi liền với nhau và không thể tách rời, tạo thành một thể thống nhất và nó chính là động lực thúc đẩy sự tiến bộ đi lên của cuộc sống, của xã hội.
Nghiên cứu về đạo, hay suy ngẫm về thời đại Phong thần, không phải để ta mơ những giấc mơ về quá khứ, hay tâm hồn bay đến một chốn bồng lai tiên cảnh của các vị thần tiên trong miêu tả, mà nó giúp con người có được nhân sinh quan thực tiễn, luôn chấp nhận các mặt đối lập trong cuộc sống, nâng cao kỹ năng giải quyết mâu thuẫn khiến cuộc sống mỗi cá nhân nói riêng và toàn xã hội nói chung đạt tới mức độ phát triển ngày càng cao hơn, văn minh, nhân ái hơn, hướng đến chân, thiện, mỹ.
Lưu Triều và Mẫn Nghi |
Vợ chồng anh chị Khải - Hải và 2 con |
Hai chú tiểu có khả năng nhớ được tiền kiếp của mình |
► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
=> Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
Người tuổi Tý thường mềm yếu, nhu nhược, tuy nhiệt tình nhưng nhiều khi lại cố chấp. Nhiều khi họ không kiểm soát được lý trí của mình, điều này có thể mang đến những bất lợi cho sự nghiệp của họ.
Đôi khi người tuổi này bị chi phối bởi tư tưởng cầu may, họ có thể đem cả sự nghiệp của mình ra để đặt cược vào canh bạc cuối cùng nên nhiều khi bị thất bại nặng nề.
Một đặc điểm khác của người tuổi Tý là sống có mục tiêu, lí tưởng. Khi đã đặt ra đích phấn đấu thì họ sẽ quyết tâm, tìm mọi cách để thực hiện bằng được. Họ thường đề ra mục tiêu phải kiếm thật nhiều tiền và cố gắng đạt được điều đó, chính điều này mà rất nhiều người trong số họ họ trở nên giàu có.
Bên cạnh những mặt mạnh thì người tuổi này lại có một điểm yếu là tính cả tin. Tuy đã rất cẩn trọng trong khi xử lý các vấn đề liên quan đến tiền bạc nhưng họ vẫn hay bị người khác lừa gạt, lợi dụng. Khi bị tổn thất lớn về tiền bạc sẽ ảnh hưởng nhiều tới sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà những người Tuổi Tý nên thận trọng trong các mối quan hệ, sử dụng "ngân quỹ" của mình thật đúng chỗ.
Những bài viết sau cùng chủ đề người tuổi Tý, có thể bạn quan tâm:
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)
Mão thì phải tránh hướng Đông). Có thể thấy, để bố trí được phòng vệ sinh thế nào cho hợp lý quả là một việc rất khó khăn.
Hiện nay, trong các nhà bình thường phòng vệ sinh thường ở hướng Bắc. Nếu phòng vệ sinh ở hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì phải chuyển nó sang hướng khác. Nói đến chuyện thay đổi hoặc chuyển vị trí phòng vệ sinh rất nhiều người chắc chắn không khỏi ái ngại, cho rằng trong nhà mình “sẽ không có chỗ nào, thực sự rất khó làm được”. Thực tế thì phòng vệ sinh chiếm một không gian rất nhó, chỉ cần quyết tâm cải tạo hoặc di chuyển thì nhất định làm được. Chỉ cần lệch so với trung tâm hướng bắc 15° (phạm vi Tý) là được. Nếu là đang ở hướng Đông Bắc (phạm vi Thìn) thì cũng chuyển lệch đi 15° (phạm vi Sửu) là được. Nếu phòng vệ sinh hướng Bắc hoặc Đông Bắc do điều kiện không thể khắc phục được thì có thể dịch chuyển hướng bệ vệ sinh lệch đi so với hướng Bắc hoặc Đông Bắc 15°. Nếu bệ vệ sinh đã ở hướng Bắc và Đông Bắc thì chỉ cần xử lý chuyển nó mà không cần phải cải tạo lại phòng.
Nếu vách tường ngăn phòng vệ sinh chính là vách tường bếp hay tường phòng chứa đồ là tốt. Do điều kiện kiến trúc khác nhau, có nhà không thể chuyển được phòng vệ sinh, bấy giờ có thể dịch chuyển vị trí cúa bệ vệ sinh như đã nói trên.
Khi di chuyến bệ vệ sinh có thể mở một cửa sổ trong phòng vệ sinh, mỗi ngày đặt lên đó một đĩa nhỏ muối ăn, đặt thêm một chậu cây xanh nữa, dùng năng lượng màu xanh của cây và muôi để hoá giải vận xấu.
Ngoài hướng Bắc và hướng Đồng Bắc ra, hướng Tây Nam cho phòng vệ sinh cũng là hướng xấu. Nếu phải di chuyển thì chỉ có thể chuyển sang hướng Tây hoặc Tây Bắc. Hướng Nam là hướng lấy ánh sáng, phòng vệ sinh ở hướng này sẽ ảnh hướng xấu dến vận khí trong nhà.
Khi chuyển phòng vệ sinh tuyệt đối tránh gần với khu vực bàn thờ. Thực ra, liên quan nhiều đến vận xấu của phòng vệ sinh trong nhà là người vợ, người chồng và người cao tuổi. Vi vậy, ngoài hướng Bắc và Đông Bắc ra chí cần kiểm tra vị trí phòng vệ sinh thông qua 12 chi của nhừng người này, sau đó mới tiến hành cải tạo.