Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những nguyên tắc đầu tiên để giải đoán lá số tử vi

Một bài viết của tác giả Anh Việt chia sẻ những nguyên tắc giải đoán tử vi. Mời mọi người cùng đọc tham khảo.
Những nguyên tắc đầu tiên để giải đoán lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Anh Việt

Những người giỏi Tử Vi thường nhìn qua lá số là thấy ngay độ tốt xấu, đó là vì họ xét qua một số những yếu tố chính và cũng vì kinh nghiệm của mỗi người. Kinh nghiệm là do sự so sánh giữa lời đoán của mình và các biến cố xảy ra trong đời, rồi tùy theo đó mà biết mình đoán đúng trật ở chỗ nào.

Một lá số toàn mỹ

Một lá số toàn mỹ thường gặp những yếu tố chính như sau:

  1. Năm, tháng, ngày, giờ sanh thuận nhau về Âm-Dương.
  2. Năm, tháng, ngày, giờ sanh thuận nhau về Ngũ Hành.
  3. Tương sinh giữa Cục và Mệnh
  4. Cung Mệnh thuận về Âm, Dương với năm sanh
  5. Chính tinh thủ Mệnh vừa ở nơi đất tốt (miếu địa, đắc địa), vừa có Hành sinh cho Mệnh.
  6. Đại cương Mệnh và Thân tốt
  7. Cung Phúc Đức tốt
  8. Các chính tinh dàn ra trên lá số, ở những đất tốt và có ảnh hưởng ích lợi.
  9. Bộ sao Tứ Hóa ở vị trí tốt, ích lợi.
  10. Một số những hung tinh ở đất tốt, có ích lợi hoặc không phá các cách tốt.
  11. Vận hành của các đại vận được tốt.

Tuy kể ra như vậy và rồi giải thích thì sẽ thấy nhiều việc phải làm, nhưng những người quen chỉ cẩn thận xét sơ qua trong dăm phút là thấy ngay. Sự khó khăn lớn nhất là xét xem những cách tốt có bị những cách xấu nào phá đi không.

Những lá số kém

Nhưng dễ gì có được lá số toàn mỹ. Ngay 4, 5 điểm đầu, có người có điểm này lại hỏng những điểm khác. Được hai ba cái trúng, cũng đã vào hàng thượng cách, nếu những nét sau được tốt. Mỗi cái sai lệch là một cái “kém”, cứ tùy vậy mà xuống.

Nhiều người không coi hai điểm đầu, hoặc không chú ý, vì không chắc gì gặp được lá số toàn bích, một lá số đế vương, mà lại được ở ngôi lâu dài cho đến lúc chết vẫn giữ nguyên vinh dự.

Trên đời này có những trường hợp như vậy. Như những người được cách thật tốt, làm tới bậc nguyên thủ quốc gia, thế mà có người chỉ nổi danh mấy năm rồi lu mờ; có người không vợ, không con, chấm dứt cuộc đời bằng một cái chết thảm. Có những người lên thật cao, nhưng lại không có Phúc Đức tốt làm nền, thành ra lên cao mà không được bền, hay là trèo cao mà té thật đau, khi xuống dốc là gặp những trường hợp buồn thảm.
Xem đại cương đời sướng khổ cũng phải xem cả 12 cung, là vì con người sướng khổ chẳng phải chỉ vì công danh (Quan-Lộc) hay vì tiền bạc (Tài Bạch) mà thôi. Có người được công danh và tiền bạc tốt, nhưng lại kém về đường vợ con, bạn bè, và khả năng giải tai ách. Ngược lại, có người công danh kém, ít tiền, nhưng được vợ con tốt, bạn bè giúp đỡ, sống không tai nạn, như vậy cũng có khi được kể là vào hàng hạnh phúc, cái đó là tùy quan niệm.

Bởi thế, tuy gọi là số thượng cách, trung cách hay hạ cách, mà không thể biết rõ đường hạnh phúc như thế nào. Đúng là hạnh phúc còn tùy cả 12 cung số mà cũng tùy ở quan niệm mỗi người.

(Để rút tỉa những kinh nghiệm, rồi đây chúng tôi sẽ xin trình bày với quý bạn đọc những lá số tiêu biểu của các hạng người khác nhau: Thượng cách, Trung cách và Hạ cách. Thượng cách, Trung cách hay Hạ cách là chỉ về đường công danh và nếp sống ở đời, chứ không phải chỉ về hạnh phúc, như đã nói, người Thượng cách có thể bỗng nhiên gặp tai nạn mà chết hoặc là hỏng về đường vợ con, còn người Hạ cách có thể lại được đường vợ con tốt mà sung sướng).

Sau đây, xin trình bày về những điểm mà ai cũng có thể cân nhắc không cần giở sách (hai điểm đầu khó đoán, là vì còn phải có sách, như sách Tinh Mệnh Vạn Niên Lịch, mới biết được ngày sinh thuộc về ngày gì, Hành nào.

Yếu tố tương sinh giữa Cục-Mệnh

Xin nhắc lại: Ngũ Hành tương sinh: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Ngũ Hành tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

Trên lá số, đã có ghi Mệnh gì và Cục gì, theo Ngũ Hành. Thí dụ: Thiên thượng Hỏa, và Thủy nhị Cục. Như vậy tức là Mệnh Hỏa và Cục Thủy. Thủy khắc Hỏa, tức là Cục khắc Mệnh, đó là một yếu tố giảm kém.

Mệnh sinh Cục: tốt. Thí dụ: Mệnh Kim sinh Thủy Cục.

Cục sinh Mệnh: tốt vừa. Thí dụ: Cục Kim sinh Mệnh Thủy.

Cục khắc Mệnh: xấu, yếu tố giảm.
Mệnh khắc Cục: xấu nhiều, yếu tố giảm.

Lá số dù thật tốt mà bị Mệnh Cục tương khắc là có sự giảm kém đi một phần.

Yếu tố về cung an Mệnh có thuận về Âm, Dương với năm sanh

Mỗi cung trên lá số là cung Dương hay là cung Âm (đã có ghi). Các cung Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là cung Dương, các cung Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là cung Âm.

Mỗi người lại sẵn có mạng Âm hay Dương. Sinh các năm Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là mạng Dương. Sinh các năm Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là mạng Âm.

Mạng Dương, cung Mạng đóng ở cung Dương là tốt. Mạng Âm, cung Mạng đóng ở cung Âm là tốt. Thí dụ: người tuổi Kỷ Mùi, mạng Âm, cung Mạng tại Sửu là cung Âm, là tốt.

Trái lại, mạng Dương mà cung Mạng đóng tại Âm, hoặc mạng Âm mà cung Mạng đóng tại Dương, là yếu tố bị giảm kém.

Yếu tố về các chính tinh thủ Mệnh.

Trừ những số Mệnh vô chính diệu (tức là cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ), còn lá số nào cũng có 1 hoặc 2 chính tinh thủ Mệnh.
Chính tinh thủ Mệnh phải là chính tinh tốt, nghĩa là đạt hai yếu tố:

1- Vừa là chính tinh ở đất tốt (miếu địa, đắc địa). Không phải là ở hãm địa. Có ở miếu địa hay đắc địa thì mới có tất cả ảnh hưởng tốt. Chính tinh bị hãm địa thì lại có những tính chất xấu. Còn chính tinh cũng có thể ở đất không ảnh hưởng, thì chẳng có ảnh hưởng gì, chẳng tốt cũng chẳng xấu, y như ông Cò về hưu trí (theo ngôn từ của cụ Hoàng Hạc).

2- Vừa là chính tinh hợp với Mệnh, tức là sinh được Mệnh chứ không phải là khắc Mệnh. Nên hiểu rằng mỗi chính tinh mang một tánh chất theo Hành (sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Hành của sao phải sinh Hành của Mệnh là tốt. Nếu Hành của sao khắc Hành của Mệnh, là xấu.

Nếu Hành của Mệnh, ngược lại sinh Hành của chính tinh, là Mệnh bị tiết chế, đã chẳng những không được hưởng gì của chính tinh, còn bị xấu.

Phải có đủ tánh chất của các chính tinh rồi tùy theo các cách trên mà xét, rồi “chấm son” vào các chính tinh đó. Chấm son thì phải chấm cho thật đúng, sự giải đoán mới có thể đúng. Trong kỳ sau, chúng tôi sẽ lập thành một bảng các chính tinh với tất cả tánh chất và với miếu địa, hãm địa để các bạn sử dụng.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nguyên tắc đầu tiên để giải đoán lá số tử vi

Tướng phụ nữ vượng phu –

Từ nhiều đời nay, khi chọn bạn đời, phái mạnh thường đề cao tiêu chuẩn 'vượng phu ích tử' ở người phụ nữ. Càng giàu có, quý ông càng chú trọng điều này. Vậy, như thế nào mới đạt đủ tiêu chuẩn của người đàn bà "vượng phu ích tử"? Ngoài những đặc điểm
Tướng phụ nữ vượng phu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ vượng phu –

Đức Phật nói rằng có 4 hạng người trong cõi đời này

Trên cõi đời này Đức Phật dạy rằng có 4 hạng người mà cuộc sống của họ có hạnh phúc và thánh thiện hay không là do hành động và nghiệp tạo thành
Đức Phật nói rằng có 4 hạng người trong cõi đời này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật Tổ dạy rằng trong cõi đời này có 4 hạng người: Thứ nhất, hạng người từ bóng tối đi vào bóng tối; thứ hai, hạng người từ bóng tối đi ra ánh sáng; thứ ba, hạng người từ ánh sáng đi vào bóng tối; thứ tư, hạng người từ ánh sáng đi vào ánh sáng.

Con đường hướng thượng là con đường tu tập chuyển hóa những nghiệp nhân bất thiện, hướng đến sự đoạn tận khổ đau, đạt đến quả vị giải thoát. Con đường hướng thượng ấy, mỗi người là chủ nhân của chính mình và phải tự mình cất bước.

Qua lời giảng dạy của Đức Thế Tôn, chúng ta phải ý thức được rằng, đời sống của mỗi người có hạnh phúc và thánh thiện hay không, không nằm ở sự nguyện cầu van xin, hay dựa dẫm vào một thế lực thần linh nào khác, hay ước vọng một sự che chở nào của thế lực bên ngoài, mà ở chính sự tu tập của chính mỗi người, nếu mỗi người biết tu tập chuyển hóa những nghiệp ác thành nghiệp thiện.

Con người sinh ra trên cuộc đời này, có người được sống an vui hạnh phúc, có người lại chịu nhiều khổ đau bất hạnh, thiết nghĩ tất cả sự đau khổ hay hạnh phúc đều có sự tác động mật thiết của ý nghĩ, lời nói và việc làm của mỗi người. Nếu ai biết thực hành những thiện pháp thì sẽ hưởng được đời sống an lành hạnh phúc, còn trái lại nếu thực hành những pháp bất thiện thì sẽ tự chuốc lấy khổ đau.

Như vậy, cuộc sống hạnh phúc hay đau khổ là do chính mình quyết định, chứ không phải một ai khác can thiệp vào. Điều này được minh chứng qua lời dạy minh triết của Bậc Giác ngộ cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm, lời dạy ấy được ghi lại trong kinh Tạp A Hàm thông qua cuộc đối thoại giữa Đức Thế Tôn và vua Ba Tư Nặc.

Kinh ghi chép rằng, một ngày nọ khi Đức Thế Tôn trú tại Kỳ viên Tịnh Xá, vua Ba Tư Nặc đến đảnh lễ bậc thầy tôn kính và thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Những vị Bà-la-môn sau khi chết sẽ tái sanh trở lại dòng họ Bà la môn hay tái sanh vào nhà Sát lợi, Tỳ xá, Thủ đà la?

Để trả lời cho vấn đề này, Đức Phật đã nêu ra bốn hạng người ở đời: Thứ nhất, hạng người từ bóng tối đi vào bóng tối; thứ hai, hạng người từ bóng tối đi ra ánh sáng; thứ ba, hạng người từ ánh sáng đi vào bóng tối; thứ tư, hạng người từ ánh sáng đi vào ánh sáng.

4 hạng người này được giải thích như sau

Thứ nhất: Hạng người từ bóng tối đi vào bóng tối

Có những người sanh vào nhà thuộc dòng họ thấp hèn, như sanh vào nhà Chiên-đà-la, nhà người săn bắn, bắt cá, làm đồ tre, nhà người kéo xe và những nhà làm nghề nghiệp thủ công hạ tiện khác; bần cùng, đoản mạng, hình thể tiều tụy mà lại sống theo hạnh nghiệp thấp kém, cũng lại bị người hạ tiện sai khiến. Đó gọi là sanh ra trong bóng tối. Ở nơi bóng tối này, người ấy thân lại làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Vì những lý do này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào ác xứ đọa lạc, rơi vào trong địa ngục. Giống như người từ bóng tối đi vào bóng tối, từ nhà xí đi vào nhà xí, lấy máu rửa máu, bỏ ác lấy ác. Người từ bóng tối đi vào bóng tối cũng lại như vậy, cho nên gọi là từ bóng tối đi vào bóng tối.

Thứ hai: Hạng người từ bóng tối đi ra ánh sáng

Những người sanh vào gia đình thấp hèn cho đến bị người sai làm những điều hèn hạ. Như vậy gọi là sanh ra trong bóng tối. Nhưng người sống nơi bóng tối này, thân luôn làm việc lành, miệng thường nói lời lành, ý nghĩ đến điều lành; vì những lý do này, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được tái sanh vào đường lành, được hóa sanh cõi trời. Ví như người từ đi kiệu lên cưỡi ngựa, từ cưỡi ngựa tiến lên cưỡi voi; người từ bóng tối đi ra ánh sáng cũng lại như vậy. Đó gọi là hạng người từ bóng tối đi ra ánh sáng.

Thứ ba: Hạng người từ ánh sáng đi vào bóng

Có người hiện đời sanh vào những gia đình giàu sang khoái lạc thuộc dòng họ Sát-đế-lợi, dòng họ Bà-la-môn, dòng họ Trưởng giả, cũng như sanh vào những gia đình giàu có khoái lạc khác, có nhiều tiền bạc, của cải, nô tỳ, người sai khiến, thường nhóm họp quyến thuộc, thân tướng đoan chánh, thông minh trí tuệ. Đó gọi là sinh ra từ ánh sáng. Nhưng từ nơi ánh sáng này, thân người ấy lại luôn làm điều ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Vì lý do này, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào đường ác, rơi vào trong địa ngục. Giống như có người từ lầu cao, xuống cưỡi voi lớn, từ voi lớn xuống cưỡi ngựa, từ cưỡi ngựa xuống đi xe, từ xe xuống ngồi giường, từ giường bước xuống đất, từ đất rơi xuống hầm hố. Người từ ánh sáng đi vào bóng tối lại cũng như vậy.

Thứ tư: Hạng người từ ánh sáng đi vào ánh sáng

Có người sanh vào nhà giàu sang vui vẻ,… cho đến hình tướng đoan nghiêm. Đây gọi là sanh ra từ ánh sáng. Từ nơi ánh sáng này, người ấy thân luôn làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành. Vì lý do này, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sanh vào đường lành, được hóa thân vào cõi trời. Giống như có người từ lầu quán đến lầu quán;… cho đến từ giường đến giường; hạng người từ ánh sáng đi vào ánh sáng cũng lại như vậy. Đó gọi là từ ánh sáng đi vào ánh sáng.

Mạn đàm

Từ dẫn chứng của kinh văn, chúng ta có thể nhận biết nơi an trú của chính mình. Nghĩa là, chúng ta tự biết rõ nhất về hành nghiệp của chính mình, mình đang đi trong bóng đêm, hay đi trong ánh sáng. Bên cạnh đó, mỗi người cũng tự biết rằng, đời sống của chúng ta ở hiện tại cũng như vị lai là do chính mình quyết định. Hay nói cách khác, đời sống thanh cao hay hạ liệt của mỗi người đều do nghiệp của chính họ tạo tác ra, thông qua sự huân tập hằng ngày của ý thức, lời nói và việc làm. “Các loài hữu tình vừa là chủ nhân của nghiệp (kamma), vừa là kế thừa nghiệp, nghiệp là thai tạng từ đó họ sinh ra, họ là quyến thuộc của nghiệp, vừa là cư trú trong nghiệp của mình. Nghiệp phân chia các loài hữu tình thành các hạng hạ liệt và ưu thắng”. (Thích Minh Châu, Trung Bộ kinh tập III-481, VNCPHVN –2001). Nhưng trong Phật giáo ý thức luôn là chi phần đầu có tác dụng đưa đẩy làm sinh khởi hành động và lời nói. Chính vì thế, chúng ta cần thanh lọc và chuyển hóa những tâm thức bất thiện, luôn tưới tẩm hạt giống thiện, để hạnh phúc có mặt trong ta, quanh ta ngay trong đời sống này.

Ngoài ra, qua lời giảng dạy của Đức Thế Tôn, chúng ta phải ý thức được rằng, đời sống của mỗi người có hạnh phúc và thánh thiện hay không, không nằm ở sự nguyện cầu van xin, hay dựa dẫm vào một thế lực thần linh nào khác, hay ước vọng một sự che chở nào của thế lực bên ngoài, mà ở chính sự tu tập của chính mỗi người, nếu mỗi người biết tu tập chuyển hóa những nghiệp ác thành nghiệp thiện. Vì, nghiệp quyết định vận mệnh hiện tại của mỗi người và nghiệp cũng làm thay đổi vận mệnh hiện tại của con người và quyết định vận mệnh tương lai của người ấy, và nên ghi nhớ rằng: Không phải do sinh trưởng mà một người trở nên cao quý hay hạ tiện, mà do nghiệp hay hành động có tác ý khiến người ấy trở nên cao quý hay hạ tiện.

Quan điểm này của Đức Phật cho thấy cái nhìn mới mẻ của Ngài về con người và giá trị của con người, hơn hết là giá trị về một con đường hướng thượng. Như vậy, con đường hướng thượng, là con đường tu tập chuyển hóa những nghiệp nhân bất thiện, hướng đến sự đoạn tận khổ đau, đạt đến quả vị giải thoát. Con đường hướng thượng ấy, mỗi người là chủ nhân của chính mình và phải tự mình cất bước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đức Phật nói rằng có 4 hạng người trong cõi đời này

Sưu tập các bài viết của tác giả Hà Uyên

Một bài sưu tầm các chia sẻ của cụ Hà Uyên trên các diễn đàn. Mời các bạn quan tâm cùng đọc.
Sưu tập các bài viết của tác giả Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên trên các diễn đàn lý số

Mạn đàm về TV ĐS Phi Tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm

Sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn thường viết "tại đẩu chủ về... tại số chủ về..."

Ví dụ như sao Vũ khúc, sách viết: "Vũ khúc thuộc Kim, tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài"

Như vậy, Gloria nên tìm hiểu hàm nghĩa của:

- Tên sách có chữ Phi tinh được hiểu như thế nào? Thứ tự phối Phi tinh và Chính tinh là có khác nhau?

- Tại Đẩu có nghĩa là gì? Tại Số có nghĩa là gì?

Phải chăng câu "tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài" có thể được hiểu là "tại Thiên chủ về Thọ, tại Địa chủ về Tài"

Khi xét tới Thiên bàn và Địa bàn của một lá số, thì có thể vẫn xảy ra trường hợp, Vũ khúc tại Địa bàn cư cung Dần, ngộ Liêm Trinh tại Thiên bàn cư cung Dần ==> Vũ Khúc và Liêm Trinh đều gặp nhau tại cung Dần

===================

Xác định Địa bàn đối với lá số có giờ sinh là Tý - Ngọ thì như thế nào? (Thân Mệnh đồng cung)

Theo tìm hiểu của Tôi, hiện có hai trường phái dùng cách thức khác nhau:

- Trường phái thứ nhất lấy cung Phu thê để lập Cục

- Trường phái thứ hai thì lấy cung Phúc đức để lập Cục

Thực tế kiểm nghiệm của cá nhân Tôi, theo cách thức như sau:

- Dương nam Âm nữ thì lấy cung Phúc đức để lập Cục,

- Âm nam Dương nữ thì lấy cung Phu thê để lập Cục

Gloria sinh giờ Tý, số có Thân Mệnh đồng cung, nên kiểm thêm độ tin cậy của thông tin như thế nào, khi lập Địa bàn cho lá số của bản thân. (trường hợp năm tháng ngày giờ sinh của Gloria có thể gọi là đặc biệt)

....

Sách Phi tinh viết:

Tử vi thuộc thổ, là tôn quân ở trên trời, chủ về nắm giữ những điều quan trọng của tạo hóa. Cai quản ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Mệnh con người lấy Tử vi để định số, an các vòng sao.

Tử vi thủ Mệnh là trung đài, trước một vị là thượng đài, sau một vị là hạ đài, cần phải xem cả tam đài có miếu vượng hay không?

Sách viết như vậy, ta nên hiểu "Tam đài" như thế nào?

==============

Thứ tự Phi tinh phối Chính diệu: (theo sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn)

NAM ĐẨU

- Thiên phủ là sao thứ nhất

- Thiên lương là sao thứ hai

- Thiên cơ là sao thứ ba

- Thiên đồng là sao thứ tư

- Thiên tướng là sao thứ năm

- Thất sát là sao thứ sáu

BẮC ĐẨU

- Tham lang là sao thứ nhất

- Cự môn là sao thứ hai

- Lộc tồn là sao thứ ba

- Vũ khúc là sao thứ tư

- Liêm trinh là sao thứ năm

- Vũ khúc là sao thứ sáu

- Phá quân là sao thứ bảy

Không thấy nói gì đến thứ tự của sao Tử vi khi phối với Phi tinh, vì sao lại như vậy? con số 13 chính diệu phối Phi tinh được hiểu như thế nào?

....

Gloria, on 16/10/2012 - 14:05, said:

Thưa cụ, có phải cháu hiểu, đó là xem vị trí xuất thân, biến động của gia đình anh em đương sự, có đúng không ạ?

Nên xét tới đối cungxung cung, hàm nghĩa của Sao có khác nhau,

Ví như Mệnh cư Hợi, thì "đối cung" là Tham lang đối cung với Thiên tướng + Liêm trinh, còn "xung cung" là Cự môn xung cung với Thái dương (Cục định sinh Nhật nghịch bố tử, đối cung Thiên phủ thuận lưu hành. Vi hữu Dần Thân đồng nhất vị, kỳ dư Sửu Mão hỗ an tinh)

....

Gloria, on 16/10/2012 - 19:09, said:

Cháu cần có thêm chút thời gian để suy nghĩ về cội nguồn của Đẩu và Số

Điều này là cần thiết, Tôi nghĩ nên như vậy!

Tiêu chí topic nói "phi tinh" và "tứ hóa" (Mạn đàm về TV ĐS phi tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm), mối quan hệ giữa Cửu cung phi tinh và Tử vi, ta nên khảo cứu sau.

Cổ nhân nói "Vô vận bất năng tự tạo", con người ta sinh ra có vận, vận có thuận nghịch, khởi điểm tính thuận nghịch được xét bắt đầu từ cung Mệnh, nên từ cung Mệnh để xét tới đối cung hay để xét tới xung cung. Giả như Mệnh lập tại Hợi, là cung Tứ sinh, cung Phụ mẫu đối cung Huynh đệ, ví dụ ở đây có thể xét tới tình trạng dưỡng dục (tuổi Tân thì Hợi lập Mộc cục, dưỡng cư Tuất, Mộc dục cư Tý = dưỡng dục - dục của Mộc sẽ khác với Thổ dục, Kim dục, Thủy dục, Hỏa dục)

Tỵ Hợi được cho là Thiên môn và Địa môn, khi Cự môn nhập Thiên môn (cung Hợi) được cho là chỗ cung vượng (theo Thiệu Khang Tiết), tuổi Tân nên Thanh long động tại cung Hợi, được cho là Mệnh hợp cách thăng quan phát tài. Năm Quý thì Cự môn ngộ Đà la, là năm mà Cự môn hóa thành "ám" được gọi là "cửa đóng" (kiểm thêm ngày Quý?), lại thêm năm Quý xét tới xung cung Nô và Huynh chứa Phục bình + Tướng quân, được gọi là "phá đối hạ cục"... khi ta trọng năm Quý cưỡng không hóa "ám" cho Cự, vì Cự hóa Quyền năm Quý, tới năm Giáp lại gặp ngay phải cách "Mão đầu đới tiễn", thì sẽ xảy ra tình trạng được cho là phá cục, ... đại khái như vậy, ta nên tập trung vào mệnh bàn 12 cung trước, đối với Cửu cung phi tinh phối Tử vi nên khảo cứu sau (vì đó là mối quan hệ giữa Tử vi liên quan tới Kỳ môn và Phong thủy)

Giloria là cách Thân Mệnh đồng cung, còn Ngô Bảo Châu thì Thân cư Phúc đức, tuổi Nhâm có Lộc tồn ngộ Cự môn, thường biến cách nhân sư, nhưng Gloria được cách Trường sinh ngộ Thanh long còn Ngô Bảo Châu thì không được như vậy. (Theo "Tử vi Đẩu số - Thiệu Khang Tiết" thì Trường sinh ngộ Thanh long gọi là cách đặc biệt)

....

Gloria, on 20/10/2012 - 19:05, said:

Câu hỏi cho mọi người: Lý thuyết trục trong Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh và trục trong Đông A có trùng nhau hay không?

Có liên hệ gì giữa các trục này và ba trục thiên địa nhân sát trong tử vi nam phái?

Gloria có tự đặt ra câu hỏi: "Tại sao Quân tử luôn luôn được ở trong, Tiểu nhân luôn phải ở ngoài không? Phải có thời của Tiểu nhân đoạt ngôi, mà Quân tử bị thất thế phải đi ra ngoài!"

Nguyên tắc "Thiên chính Địa thường" định lệ = ghi năm bắt đầu từ Tý, ghi tháng bắt đầu từ Dần

Để trả lời câu hỏi mà Gloria, thì có thể thiết lập lá số Tử vi theo nguyên tắc ngược lại, có nghĩa là ghi năm bắt đầu từ Ngọ, ghi tháng bắt đầu từ Thân.

Định lệ Kê - Mã - Trư - Long - Ngưu - Hổ, nay đổi lại thành Thố - Thử - Xà - Cẩu - Dương - Hầu (Mão - Tý - Tị - Tuất - Mùi - Thân)

Định cục theo chiều ngược kim đồng hồ, tất cả vẫn giữ nguyên, ví dụ tuổi Tân mệnh cư Hợi, thì Ngọ Mùi là Thổ cục, Tị Thìn là Tam cục, Dần Mão là Nhị cục, Tý Sửu là Kim cục, Tuất Hợi là Hỏa cục... sau đó an sao Tử vi, Mệnh cư Hợi thuộc Hỏa cục, ngày 23 thì Tử vi cư Thìn, có Thiên đồng nhập cung Mệnh,...

Giả như ta nói, Bắc bán cầu là Cự môn, Nam bán cầu là Thiên đồng có được không? Trục Tị Hợi có phải là trục phân âm dương không? Nếu không phải thì gọi trục Tị Hợi là trục gì?...

Tiêu chí của topic là Mạn đàm... nên tôi đề xuất thêm một hướng, để truy tìm câu trả lời

Gloria có thể làm thử xem sao, rồi chúng ta đưa ra câu trả lời mà Gloria đã hỏi

....

Gloria, on 22/10/2012 - 04:17, said:

Cháu đang sợ rằng cách cháu tính Cục là sai, vì nếu mệnh an tại Dần và Mão thì sẽ không ra kết quả khớp với cụ. Có thể là có gõ nhầm.

Đúng là Tôi gõ sai, (khởi từ Mùi 5, Ngọ 5, Tị 3, Thìn 3, Mão 2, Dần 2, Sửu 4 Tý 4, Hợi 6, Tuất 6, Dậu 3 Thân 3).

Người ở Bắc bán cầu và người ở Nam bán cầu, cùng năm tháng ngày giờ, cùng giới tính, chắc là phải khác nhau từ lập số cho đến luận giải số, nhận định này Tôi cũng sai,.... thôi, cho qua và không bàn tới nội dung này nữa.

Nhưng, Tôi vẫn nghĩ nhiều tới nguyên tắc: Trời có âm dương - Đất có cương nhu - Người có nhân nghĩa. Ví dụ như nói về Mệnh thuộc Kim

- Trời = Giáp Tý Ất Sửu >< Giáp Ngọ Ất Mùi = Một âm một dương, một thủy một thổ, thủy thổ tương khắc

- Đất = Nhâm Dần Quý Mão >< Nhâm Thân Quý Dậu = Một cương một nhu, dần mão thuộc mộc, thân dậu thuộc kim, Kim Mộc tương khắc

- Người = Canh Thìn Tân Tị >< Canh Tuất Tân Hợi = thìn tị trong bát quái ứng với Tốn, tuất hợi ứng với Càn, hình thể và mầu sắc của cả 2 có sự khác nhau.

Lại thêm dụ ý:

Thiên địa khai minh

Thủy Thân Mộc Hợi

Sơn Trạch thông khí

Mộc Dần Kim Dậu

....

Gloria, on 22/10/2012 - 14:38, said:

Kính thưa cụ.

Cho cháu hỏi, cụ có quan tâm tới lý thuyết Phiêu Phiêu, còn gọi là Kỵ Truy Kỵ, Lộc Truy Kỵ, chuyển Kỵ không ạ?

Cháu đang cùng một số cộng sự work một chút về Phiêu Phiêu, nhưng vẫn thực sự chưa nắm được tinh túy của nó. Cụ có đánh giá gì về lý thuyết này không ạ?

Tôi muốn biết trước thông tin về Lộc

- Thiên lộc năm Nhâm 2012 nhập Mệnh

- Địa lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Đinh Thái âm hóa Lộc, ứng cung Thê cư Dậu, Địa lộc can Đinh tại Ách

- Nhân lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Bính Thiên đồng hóa Lộc, ứng cung Quan cư Mão, Nhân lộc can Bính tại Di

Trong tam Lộc của thiên - địa - nhân cho tới thời điểm này đã ứng chưa? Nếu chưa ứng, thì là Thiên lộc Nhâm chưa ứng? hay Địa lộc Đinh chưa ứng? hay Nhân lộc Bính chưa ứng?

Tôi hỏi như vậy là muốn kiểm lại công thức này, trước khi chúng ta bước sang lĩnh vực thuyết Phiêu Phiêu,

Nếu Gloria thấy phiền về thông tin này thì thôi

....

Nam Đẩu hội tụ với Đế thiên tại phương Khôn, được gọi là "Đới Thiên phúc Địa", người sinh ra vào đêm, cần xác định rõ phương vị của mặt Trăng mọc, nay mặt Trăng ở nơi hữu triền, được gọi là "hướng minh". Gọi là "hướng minh", có nghĩa là ở nơi sáng vẫn hướng tới nơi chỗ sáng hơn, cũng như ở nơi tối mà hướng tới nơi sáng vậy, chẳng thể ở nơi sáng mà nhìn vào nơi u tối,...

Mệnh được định cách "Đới Thiên Phúc Địa", cho nên khi điều kiện cho phép, nên quan tâm tới Địa mệnh!

Lại nói:

Người Sinh sau Hạ chí tới trước Đông chí, mặt Trời được tính bắt đầu ở 1 độ chòm sao Tỉnh, còn đối với người sinh sau Đông chi cho tới trước Hạ chí, mặt Trời được tính ở 6 độ chòm sao Cơ,...

Vậy, hỏi rằng, Tại sao "Xuất Dần nhập Thân" thì được gọi là Quân tử thời đang thịnh trị? Xuất Thái nhập Bĩ sao?

Nay,

Gặp người ở thời "Thủ vỹ hoành thiên" (trục Thìn Tuất), Mệnh cư Hợi được định cách "Đới thiên Phúc địa",... và như vậy cung Thân (mệnh) được xác định theo phương vị của Địa hộ,... Mệnh cư Hợi, nơi giao giới âm dương, có thể nên bắt đầu từ "Xuất Khôn nhập Càn" vậy!

==========

Bài tập: nên tìm tư liệu đọc trước, tìm hiểu về chữ "Bích" khi nói tới "Nguyệt bích", đó là mối quan hệ giữa 12 tháng với sao Bích, được gọi là Nguyệt Bích, cung Hợi nằm ở trên Thiên môn, định lệ hàm chứa hai tú: Thất và Bích

....

Mr.Anh, on 23/10/2012 - 09:51, said:

Thưa cụ, tính Địa Và Nhân có phải tính theo ngũ hổ độn: Bính - Tân (tuổi Tân), Đinh Nhâm (Nhâm), Bính lộc tại Di, Đinh Lộc tại Ách?

Mong cụ chỉ dạy.

Cảm ơn cụ

- Cách đọc sách Thứ nhất nhận thấy: Trong sách "Tử vi Đẩu số", tập 1-2-3, 03 tập đầu này do Bắc phái trấn thủ, tập 4-5-6-7 do Nam phái trấn thủ, tại 03 tập đầu quyển 2 có nói tới phép "tam tam", có nghĩa là căn cứ vào ngày sinh, phối hợp với Cục số, kết hợp với Hóa Lộc "gốc" của Thiên mệnh, để tính Địa lộc.

- Cách đọc sách thứ hai nhận thấy: Trong sách Quả Lão tinh tông - Quyển thượng, có trình bày về nguyên tắc tính Thiên nguyên lộc, Địa nguyên lộc, Nhân nguyên lộc

Cả hai cách thức này, khi trải qua thực nghiệm với một số người sống gần 12 ~ 15 năm, lao động ở môi trường nghề nghiệp khác nhau,... đúc kết thống kê lại, để làm rõ mối quan hệ của Thiên mệnh Hóa Lộc "gốc" với cung Thân (mệnh), xác định Địa lộc một cách chính xác.

Khi Tôi hỏi Gloria, là để kiểm lại cả hai cách thức mà sách đã viết, là đúc kết cá nhân, không có giá trị phổ biến.

Mr.Anh nên theo những gì sách Tử vi đã được phổ cập sử dụng trong nhiều năm qua, khi nào sách biên dịch in ra phổ biến về Địa lộc và Nhân lộc, thì chiêm nghiêm sau, nên như vậy.

....

@ Gloria:

Nguyên tắc tính thiên can cho Tiểu hạn Gloria đã biết cách tính chưa?

- Đại Hạn khởi đầu là Kỷ Hợi

- Tiểu hạn khởi đầu là Quý Sửu

- Thái tuế là Tân Dậu

....

Năm 1981 - Tân Dậu (xác định Địa thường chính nguyệt - cách thứ nhất)

- Tháng Tám - Dậu = hào Thượng quẻ Ly + hào Sơ quẻ Đoài

- Tháng Chín - Tuất = hào Nhị quẻ Đoài + hào Tam quẻ Đoài

- Tháng Mười - Hợi = hào Tứ quẻ Đoài + hào Ngũ quẻ Đoài

===============

- Ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch năm Tân Dậu (28/10/1981) => hào Thượng quẻ Khôn

...,...,...,

- Ngày 23 tháng 10 âm lịch (19/11 DL) => hào Tứ quẻ Phệ hạp - hào Tứ nạp can Kỷ

- Năm Tân, can Kỷ nhập cung Mệnh - Địa mệnh đắc chính.

....

Một người có Mệnh cư Ngọ, thiên can nhập cung Mệnh là can Canh, đương số tuổi Sửu nên thiên can Tiểu hạn là can Ất. Khi thiên can của Đại hạn và Tiểu hạn Ất Canh tương hợp, sách viết: "Đại vô bất chu, Tiểu vô bất cụ, Ngũ tinh tòng Nhật lãnh tụ chi thần cách"

Khi thiên can của Đại hạn và thiên can của Tiểu hạn tương hợp, Cổ nhân cho rằng cũng là một trong những căn cứ để xếp vào loại Mệnh tốt (đại quý)

Đây là một ví dụ, năm 1995 đương số đã được gọi bằng "Ông" mà không phải gọi là "thằng" (cấp Tá), đó là "ông Tướng" (Thiếu tướng), 17/11/1949 DL, 8h00

....

saobienden:

Em thấy anh Gloria quan tâm nhiều đến Thất chính Tứ dư, em xin tài liệu này từ chú Công là Phó khoa Hồi sức cấp cứu - BvTW - 108 (học trò Cụ), anh đọc xem có giúp được gì không anh nhé

- Giáp Kỷ tác Hỏa

- Tứ sinh = Bính Dần - Ất Tị - Bính Thân - Ất Hợi => Bính + Ất

- Tứ vượng = Mậu Tý - Đinh Mão - Mậu Ngọ - Đinh Dậu => Mậu + Đinh

- Tứ mộ = Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Kỷ Mùi - Giáp Tuất => Giáp + Kỷ

- Ất Canh tác Kim

- Tứ sinh = Nhâm Dần - Tân Tị - Nhâm Thân - Tân Hợi => Nhâm + Tân

- Tứ vượng = Giáp Tý - Giáp Ngọ - Quý Mão - Quý Dậu => Giáp + Quý

- Tứ mộ = Ất Sửu - Canh Thìn - Ất Mùi - Canh Tuất => Ất + Canh

- Bính Tân tác Thổ

- Tứ sinh = Mậu Dần - Đinh Tị - Mậu Thân - Đinh Hợi => Mậu + Đinh

- Tứ vượng = Canh Tý - Kỷ Mão - Canh Ngọ - Kỷ Dậu => Canh + Kỷ

- Tứ mộ = Tân Sửu - Bính Thìn - Tân Mùi - Bính Tuất = Tân + Bính

- Đinh Nhâm tác Thủy

- Tứ sinh = Giáp Dần - Quý Tị - Giáp Thân - Quý Hợi => Giáp + Quý

- Tứ vượng = Bính Tý - Ất Mão - Bính Ngọ - Ất Dậu => Bính + Ất

- Tứ mộ = Đinh Sửu - Nhâm Thìn - Đinh Mùi - Nhâm Tuất =. Đinh + Nhâm

- Mậu Quý tác Mộc

- Tứ sinh = Canh Dần - Kỷ Tị - Canh Thân - Kỷ Hợi => Canh + Kỷ

- Tứ vượng = Nhâm Tý - Tân Mão - Nhâm Ngọ - Tân Dậu => Nhâm + Tân

- Tứ mộ = Quý Sửu - Mậu Thìn - Quý Sửu - Mậu Tuất => Quý + Mậu

....

Khi phán đoán mệnh người,

Trước hết xem phát truyền.

Khí vượng khi phát dụng,

Sẽ lợi việc cầu Quan

Khí tướng khi phát dụng,

Sẽ lợi việc cầu tài

Khí hưu khi phát dụng,

Thường bệnh tật liên miên.

Khí tù khi phát dụng

Bệnh tật chẳng bỏ qua.

Vương tướng khi phát dụng,

Sự việc thường ứng nghiệm

Một truyền hưu tử tới

Việc mờ mịt chẳng thông

Cục ý nghĩa tiến lùi

Khí đặc thù vượng tuyệt

Suy mộ coi như thoái

Thai sinh tiến chẳng lo

Thoái khí việc càng hung

Tiến khí an càng an

Nguồn: Cụ giảng về Ngân Thăng thuật

(Nguồn: sưu tầm)

NHẤT DIỆP TRI THU PHÁI - ĐĂNG HẠ THUẬT- PHAN TỬ NGƯ

lethanhnhi, on 07/09/2012 - 06:37, said:

SAO ĐỂ BIẾT ĐẦU BẠN MỌC SỪNG:

- Mệnh Cự môn thìn tuất, nam mệnh, chỉ cần vợ kiếm tiền, bất kể là tiền gì, mọc sừng cũng........không sao

- vũ khúc thất sát lộc tồn tả hữu cư phu thê

- Phu thê cung hóa kị nhập tử tức cung

- Phu thê hóa kị nhập quan cung

- phu thê tử phá sửu mùi, cả vợ chồng đều thích đi ăn vụng

- điền kị nhập bệnh

Ví dụ câu:

+ Phu thê hóa kị nhập quan cung

- Lá số lưu theo can Năm, thấy cung Phu thê gặp can Đinh, mà can Đinh có Cự Môn ngộ hóa Kị,

- Sau đó nhìn tới cung Quan thấy có sao Cự Môn cư Quan

- Phái Nhất Diệp Tri Thu cho rằng: can cung Phu thê hóa Kị nhập cung Quan, và đưa ra nhận định cho rằng: tình cảm vợ chồng sao nhãng, cả vợ và chồng đều thích đi ăn vụng

Trường phái này công bố nguyên tắc xem về Cung rất đáng quan tâm

...

@ Lethanhnhi: Khi tìm hiểu về trường phái Nhất Diệp Tri Thu, thì LethanhNhi lưu ý:

- Nam đẩu được cho là: chủ về hướng nội, chủ nhu - Ngoại nhu Nội cương.

- Bắc đẩu được cho là: chủ về hướng ngoại, chủ cương - Ngoại cương Nội nhu

Hàm nghĩa tinh yếu này, quyết định chi phối nguyên tắc lập tượng ==> lấy cơ sở của nguyên tắc này làm phương pháp luận xem xét sự vượng nhược của Cung, và xác định những Cung nào bị Sát tinh xung phá để đưa ra lời đoán định.

Có thể xem đây là Nguyên tắc thứ nhất của trường phái Nhất Diệp Tri Thu vậy!

...

lethanhnhi, on 08/09/2012 - 10:29, said:

em nhận ra người quen rồi, em đang dùng quẻ :13

@ LeThanhNhi:

Về quẻ này, thì Trung Châu pháiTri Thu phái có điểm giống nhau và có điểm khác nhau khi lập thuyết cho Môn phái

- Giống nhau là hai Môn phái đều phối Tử vi với can KỷThiên phủ với can Mậu

- Khác nhau đó là, Trung Châu phái thì phối can Nhâm với Thiên Đồng, Tri Thu phái thì phối can Nhâm với Thiên tướng

Khi nào LeThanhNhi hứng thú đi sâu nghiên cứu thêm, để làm chủ bản thân và tự giải hạn cho mình, thì nên lưu ý!

...

Trích Lời tựa sách Tử Vi Đẩu số - Thuật Đăng Hạ, tập 2 <đã xuất bản ở Việt Nam - nxb Hồng Đức>

".... Vì vậy, khi bậc tiên sư truyền lại cho tác giả có nhắc nhở; " Nhà ngươi về sau thay người đoán mệnh, một là tiền công không được lấy cao (tác giả đoán mệnh cho người đã 5 năm nay mà chỉ lấy có 500 đồng, từ ngày 1 tháng 4 năm Dân Quốc 74 mới thu lên 600 đồng, mà những người đoán mệnh khác đều thu tới 1000 đến 2000 đồng). Hai là dặn dò người xem hàng năm nên đến xem lại lưu niên, để kiểm chứng sự việc dự đoán lần trước có chính xác hay không". Nỗi khổ tâm của tiên sư khiến tác giả vô cùng cảm phục!

Thuật Đăng hạ trình bày nhiều luận điểm mà các thư tịch khác không dễ gì tìm thấy, chẳng hạn như:

1. Người có sao Thái Dương và Thái Âm ở cung Thiên Di thì nên phát triển ở các phương hướng Đông, Bắc, Nam, bất lợi ở hướng Tây..

2. Người có sao Văn Xương ở cung Ngọ thì kỵ đi về hướng Nam.

3. Ngoài ra còn có màu sắc y phục (nhưng điều này quá phức tạp, lại không chuẩn xác)

4. Đi sâu vào phân tích tính cách, chẳng hạn như:

- Người có sao Thiên Hỷ tọa mệnh rất đáng yêu, được mọi người yêu thương.

- Say mê một số sở thích như câu cá, đánh cờ, uống rượu, âm nhạc, thích mua sắm quần áo...

Thuật đăng hạ nhấn mạnh âm đức. Nếu chúng ta đoán mệnh không chuẩn là vì các nguyên nhân sau:

1. Bát tự giờ sinh không đúng.

2. Ông bà cha mẹ, bản thân người đó có làm những việc tổn tới âm đức hay không? Cho nên khuyên chúng ta nên làm nên làm nhiều việc thiện, để phúc ấm lại cho con cháu.

3. Cũng nhấn mạnh các vấn đề như quỷ, luân hồi, báo ứng,...., cho nên nếu bạn không tin có quỷ thần thì không nên tìm hiểu thuật số.

4. Việc tiên cơ khó đoán.

Thuật Tử vi Đẩu số trong cổ thư không những khó đọc mà ý nghĩa khó hiểu, phải dựa vào sự kiểm chứng của chúng ta để đạt được sự tham ngộ.

Tham ngộ là tự mình nghiên cứu tham khảo từ nhiều nơi rồi ngộ được những điều uyên áo, huyền diệu trong đó.

Cuộc đời tác giả cảm thấy hổ thẹn vì không có cống hiến gì cho quốc gia xã tắc, nay giữa đêm khuya, khơi bấc đèn, mài mực chấp bút, tỏ bày tất cả để mọi người cùng nghiên cứu tham khảo, hy vọng giúp mọi người " phao chuyên dẫn ngọc", cùng mọi người tranh luận, đạt được những tri kiến, phần là mong mỏi các bậc cao nhân thạc đức điểm chỉ những hạn chế của bản thân.

CUỐI XUÂN, NĂM ẤT SỬU

PHAN TỬ NGƯ KÍNH BÚT!

Ưu Nhược điểm chính tinh

Chủ đề An Khoa muốn bàn đến "ưu - nhược" của chính diệu, đây là vấn đề phải chăng, luôn được điều chỉnh theo "thời" đối với xã hội học

Tôi vẫn chưa bước ra khỏi tầm ảnh hưởng tư tưởng của Đạo giáo trong học thuyết của Tử vi, cho nên dụ ý mà Tôi muốn nói tới, đó là mối quan hệ giữa Thiên bàn và Địa bàn, khi chúng ta xem xét được cả Thiên (bàn) và Địa (bàn), thì có thể Ta không dùng khái niệm "ưu - nhược" để miêu tả, ví dụ như Ta nói:

- Khi Thiên bàn sinh trợ cho Địa bàn, thì được gọi là "Đạo khí", có nghĩa là đương số thường hành động mang Phúc của mình đem cho người khác, ám chỉ sự giúp đỡ là bổn phận.

- Khi Địa bàn sinh trợ cho Thiên bàn, thì gọi là "trợ khí", có nghĩa là đương số tự hưởng lấy Phúc phận của mình

- Khi Thiên bàn khắc Địa bàn thì gọi là "thuận", trên khắc dưới, thì đương số bẩm khí có thiên uy, có thể tự biết phải làm như thế nào để lãnh đạo người khác

- Khi mà Địa bàn khắc Thiên bàn thì gọi là "nghịch", dưới khắc trên, thì phần nhiều cuộc đời đương số thường trì trệ, khó để trở nên hiển quý, khi ở vào nơi Tử Tuyệt thì càng tồi tệ, ở vào nơi Sinh Vương mà có đủ tài lực để phát, thì cũng không thể nhanh

An Khoa tham khảo thêm một hướng nhìn cho vui

...

Khi đêm đến, bằng mắt thường, nhìn lên bầu trời, có tới ngàn vạn ngôi Sao, cái mà hướng Ta tập trung nhìn tới, đó là những ngôi Sao sáng nhất, nổi bật sáng tỏ đối với những sao ở xung quanh. Đây cũng có thể là một cách suy nghiệm.

...

AnKhoa, on 22/10/2012 - 17:05, said:

Thưa cụ, đây có thể là nỗ lực của ngành tâm lý học tích cực mà nhiều học giả phương Tây đang gắng sức tìm hiểu. Nhưng trải qua một thời gian nghiên cứu, rồi đi vào nghiên cứu Tử Vi, AnKhoa lại thấy rằng:

Để nhìn được bằng mắt thường, để có thể hướng cái Ta tập trung nhìn tới thật khó lắm. Đôi mắt của mỗi người có thể không khác nhau nhiều về tính chất sinh học, nhưng nó lại được "che phủ" bởi một lăng kính, mà lăng kính đó lại được định hình bởi một số sao tại Mệnh, Thân hay Vận trong hiện tại?

Chúng ta hướng vào nội dung chủ đề topic, đó là Ưu - Nhược của cái "chính", An Khoa có thể nói sơ qua về Thất sát được không?

Nếu có thể phân loại, chúng ta tìm hiểu thêm

- Những loại Mệnh nào, có ngũ hành của Mệnh không "dụng" được Thất sát, mặc dù là Thất sát thủ mệnh?

- Những loại tuổi nào theo can chi Năm phối ngũ hành Cục vô hiệu hóa Thất sát không phát huy được tác dụng, mặc dù Thất sát thủ Mệnh?

- Mối quan hệ của cái "chính" khi nhập cung? Ví dụ như Cự môn nhập cung Nô thì... Cự môn nhập cung Di thì... Cự môn nhập cung Tử tức thì... hay Thất sát cư Phu thê thì... Thất sát cư Tật ách thì...

...

Durobi có tìm hiểu tại sao ngày Thượng huyền và ngày Hạ huyền (ngày 8 và 23) sao Tử vi không an tại Sửu Mùi?

Bất kể là tuổi gì? bất kể là sinh vào tháng nào? cũng như Mệnh cục là Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục, thì người sinh ngày 8 và ngày 23 không bao giờ sao Tử vi an tại Sửu Mùi. Chắc phải có nguyên nhân và lý do của nó!

Và tại sao Thất chính Tứ dư lại căn cứ vào Ngày sinh để xác định cung Thân? khác với Tử vi "Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi,... nghịch hồi an Mệnh thuận an Thân"

...

QuachNgocBoi, on 23/10/2012 - 18:50, said:

Thưa cụ Hà Uyên,

Cháu tính lại thấy với ngày 23 (Hạ Huyền) thì đúng như vậy.

Nhưng với Hỏa Cục thì ngày mồng 8 (Thượng Huyền) thì Tử Vi đến tại cung Mùi.

Với môn Thất Chính Tứ Dư thì Thân an theo Nguyệt (có ẩn Nhật), một tuần trăng 30 ngày thì trung bình sẽ mất 2,5 ngày trên 1 cung (18 canh giờ / 1cung) để đi hết được 1 vòng 12 cung.

Hà Uyên, on 20/10/2012 - 19:56, said:

... lại nói đối với 5 cục thì không bao giờ ngày 23 có Tử vi đóng tại Mùi,

Cảm ơn anh QuachNgocBoi

Viết bài trả lời anh Vuivui ngày 20/10, thì Tôi chỉ nói tới ngày 23, nhưng ba ngày sau, tức ngày 23/10, Tôi lại viết thêm ngày mồng 8 tương thích với năm Mậu Quý, nói thêm vào như vậy là vì "chính nguyệt" đối với năm Mậu Quý (Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi...) có thể phải xem xét kỹ hơn khi gặp "nhuận", Tôi đưa thêm ngày mồng 8 vẫn còn mang thêm một số hàm ý khác

Nhưng thôi, Ta bàn lại sau, trở lại với tính Ưu - Nhược của cái "chính" trong topic này.

...

AnKhoa, on 23/10/2012 - 17:19, said:

Thưa cụ, Thất Sát vốn là một Tướng tinh,

Tôi muốn hiểu thêm, trên nguyên tắc nào và nguyên nhân nào, sao Thất sát được cho là "Thất sát vốn là một Tướng tinh"!

Đối với Phi tinh thì ngài Trần Đoàn xếp theo thứ tự đứng thứ 6 của Nam đẩu (1 Phủ, 2 Lương, 3 Cơ, 4 Đồng, 5 Tướng, 6 Sát). Đối với Đẩu số, khi phối thiên can, sao Thất sát phối với can Canh theo thứ tự của thiên can là số 7,... ví như những nguyên tắc này, có thể đủ để kết luận sao Thất sát là Tướng tinh!!! hay vẫn có nguyên nhân nào khác, mà chúng ta chưa đề cập đến

...

banghuynh, on 24/10/2012 - 10:48, said:

@Cụ Hà Uyên: cháu xin được nêu suy nghĩ về các mệnh có thể "dụng" được Thất Sát là: Kim, Thủy

Kính Cụ!

Có thể sau này, banghuynh sẽ tự mình định hình cho mình một "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của cái "chính". Tôi nói vậy là vì, trong mỗi người như chúng ta, cùng đọc một quyển sách về Tử vi, nhưng chọn "ngữ" để chuyển hóa thành "thần ngôn" là có khác nhau

Ví dụ với tiêu chí của Topic, khi Tôi đọc sách, thì tự định hình "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của Thất sát như sau:

- Tính "hữu trợ" và "vô trợ" của sao Thất sát (thông qua cung Huynh để xác định)

- Tính "nhanh" hay "chậm", "sớm" hay "muộn" của sao Thất sát (xác định "tính" này thông qua cung Phu thê)

- Tính "mạnh" hay "yếu" của sao Thất sát (thông qua cung Tật ách)

- Tính thích nghi với hoàn cảnh "đột biến" hay không có khả năng thích nghi (cung Di)

- Tính trật tự và bất trật tự, tính có kế hoạch theo thứ tự hay không theo thứ tự của sao Thất sát (thông qua cung Nô)

- Tính xu hướng phát triển theo trường phái cánh tả hay trường phái cánh hữu của sao Thất sát (Hư - Thực của cung Quan)

- Tính sở trưởng và sở đoản của sao Thất sát (cung Phúc đức)

- Là "tính" hay là "tình", là "tình" hay là "lý" của sao Thất sát (cung Phụ mẫu)

Đại khái như vậy, khi nói về cái Ưu hay cái Nhược của cái "chính", banghuynh đọc thêm cho vui

...

AlexPhong:

Trong dòng lịch sử phát triển của tử vi, nền tảng đã bị thất truyền không biết do cố ý hay vô tình. Tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, sự thất truyền cũng vậy, mặt tốt là người nghiên cứu người sử dụng không ngừng tìm tòi kiểm nghiệm với mục đích tìm lại nền tảng cũng như hiện đại hóa cho tử vi bắt kịp với nhịp sống hiện đại. Từ đó tử vi phát triển không ngừng, hoa nở rồi sàng sẩy rồi gieo trồng rồi hoa lại nở.

Thì, trong số các tác giả Việt Nam có một tội đồ đã được vinh danh, đó là tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm Thần Khê Định Số. Nôm na là cách dùng tướng pháp bổ khuyết cho tử vi. Tác phẩm này gián tiếp thừa nhận sự bất lực của ông trong nghiên cứu tử vi. Ông đã đầu hàng, giương cờ trắng trước khi tìm hiểu cặn kẽ quân thù. Và ông tìm một cứu cánh đó là tướng pháp. Theo phương pháp này thì tử vi thui chột từ đây, thôi chấm dứt, thôi thế là hết, thôi không còn gì nghiên cứu, tử vi không chính xác khi không kết hợp với tướng pháp vì chính xác thì Thần Khê Định Số đã không ra đời.

Nói về tướng pháp, đã là cao thủ xem tướng thì khỏi cần lá số tử vi. Mang tướng pháp kết hợp vào tử vi để cải tiến tử vi khác gì lắp động cơ đốt trong cho xe bò, còn con bò dùng để làm gì. Mà tử vi cũng chẳng phải xe bò, thậm chí còn là hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hành trình. Lê Quý Đôn đã từng nỗ lực giết chết tử vi, nhưng may mắn sao cuốn sách không phổ biến. Có người than: eo ôi tiếc thế, sách yêu thế mà lại không phổ biến. Nhưng theo tôi đó là điểm may cho giới học thuật nước nhà. Và nếu ai có cuốn sách trong tay, làm ơn đốt đi giùm, xin cảm ơn sau.

Đôi khi và nhiều khi chúng ta đao to búa lớn, Đạo nọ Đức kia. Nhưng những điểm đơn giản như sự phân bố lệch của sao Tử Vi lên địa bàn, điểm Thìn và điểm Tý, vì sao Thổ cục khởi thân thì chúng ta không nhìn ra. Cái gì điều chỉnh lại sự lệch lạc này? Chúng ta học học học và học những đống kiến thức hào nhoáng vô dụng vào người mà bỏ mất các suy luận cơ bản. Tích trữ bom nguyên tử trong khi khẩu súng lục cũng không biết dùng. Tử vi nó phải thế này cơ, sao đơn giản thế được, nó phải xoắn quẩy cơ, sao thẳng đơ thế được. Uke, do what you want.

Về đâu, về đâu hỡi các Thần Khê? Về đâu đạo đức cho Không Kiếp, bomb cho Ưu Nhược?

Tôi làm việc trong một thời gian tương đối dài, chức năng chủ yếu là vô hiệu hóa đối tượng, ngăn chặn sự phá hoại mang tính hủy diệt,... không hề biết mặt đối tượng, thân thế, thân nhân,... dữ liệu ban đầu chỉ có khoảng khoảng sinh năm... sau đó biết đến tháng,... sau đó biết được ngày sinh nhật thông qua ĐT (đặc tình) là "bạn gái",... những dữ liệu này đã mang lại nhiều hiệu quả ngoài mong muốn,... đỡ mất tiêu phí lực lượng, thời gian,... cho nên, anh AlexPhong đưa ra nhận định, nhằm hướng tới sự nghiên cứu chuyên nghiệp và chuyên sâu về Tử vi. Một nhận định mang tính chiến lược.

Nhất Diệp Tri Thu Phái

Hai chữ tri thu cũng ví như lưỡng nghi Cha Mẹ, cùng một mục đích sinh Con, mà kết quả khác nhau, hoặc là con trai, hoặc là con gái. NhuThăngThái dần quy tụ lại trong ngoài (chủ khách) = Nội cục - Ngoại cục - Nội cách - Ngoại cách, thì nhìn nhận ngày càng rõ hơn.

Khi cục đã không chính, thì nghĩa cũng biến hóa theo (紫 微 正 義 = Tử vi chính nghĩa), ngài Trần Đoàn nói với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn như vậy.

Chính cục được hiểu như thế nào? Đó là căn cứ vào ngày sinh để biết ngôi vị của Đế tinh, theo đó kỳ số cục là một nguyên tắc chính yếu

...

Khi ta khảo cứu, sách nói rằng: "60 giờ tương ứng nhất cục" (5 ngày), theo đó

- Từ ngày mồng 1 hàng tháng tới ngày mồng 10 là 1 tuần ứng với Nhị cục, kỳ số Nhị cục từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 10

- Từ ngày mồng 1 tới ngày 15 đủ số, ứng với Tam cục, kỳ số Tam cục từ ngày 11 tới ngày 15

- Từ ngày mồng 1 tới ngày 20 đủ số, ứng với Tứ cục, kỳ số Tứ cục từ ngày 16 đến ngày 20

- Từ ngày mồng 1 tới ngày 25 đủ số, ứng với Ngũ cục, kỳ số Ngũ cục từ ngày 21 tới ngày 25

- Từ ngày mồng 1 tới ngày cuối tháng ( 29 - 30) đủ số, ứng với Lục cục, kỳ số Lục cục từ ngày 26 tới ngày 29 tháng thiếu, hoặc ngày 30 tháng đủ. (riêng tháng Hai là 28 ngày)

...

@An Khoa:

- Chính cục được căn cứ vào Can năm + cung mệnh + ngày sinh

Ví dụ:

- Người tuổi can Mậu Quý, sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh lập tại Dậu, ứng tam Cục, nhưng sinh ngày 21 thì kỳ số Cục là Ngũ cục, nên chưa được gọi là chính Cục, theo đó thì Tử vi cư Thân

- Khi ta gặp người tuổi can Đinh Nhâm, vẫn sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh cư Dậu, ứng ngũ Cục, trường hợp này được gọi là chính Cục, vì căn cứ vào ngày sinh, sinh ngày 21 thỏa được điều kiện kỳ số ngũ Cục, theo đó thì Tử vi cư Tuất.

Không chính cục luôn hướng tới chính cục, mệnh cư Dậu không chính cục có Thái âm, luôn hướng tới mệnh chính cục có Cự Cơ tọa thủ.

...

NhuThangThai, on 25/02/2012 - 20:16, said:

Thưa cụ Hà Uyên, Nội cục và Ngoại cục ở đây chắc là ngũ hành nạp âm của tháng mà cung mệnh và cung Thiên Di rơi vào để thể hiện chủ khách, còn Kỳ Cục Số là khái niệm khác?

Nội cục là chính cục của Mệnh

Ngoại cục căn cứ vào giờ sinh xác định Thân, người Thân cư Phu Thê + Thân cư Phúc thì không có Ngoại cục, chỉ có những người Thân cư Tài Di Quan thì mới tồn tại Ngoại cục. Đây là nguyên lý tham lưỡng (3 và 2) của Dịch.

...

NhuThangThai, on 25/02/2012 - 23:18, said:

Kính thưa cụ Hà Uyên

Vậy thì có nghĩa rằng có điều kiện tương thích thì sẽ được gọi là kỳ số cục. Nhưng có cái cháu chưa hiểu, đó là điều kiện kỳ số cục này dựa vào so sánh độ lớn của cục hay dựa vào tương quan của hai cái ngũ hành cục? Bởi vì tương quan của ngũ hành cục và kỳ số cục đưa đến khá nhièu điều thú vị, và địa vị cháu là tác giả thì sẽ phát triển lý thuyết dựa trên điều này, nhưng có vẻ như cái này khác với ý của cụ.

Tiếp theo, cháu muốn hiểu, dựa vào Kỳ Số Cục để an thêm 1 sao Tử Vi nữa, vậy thì từ đó ta có thể nói về vị trí của sao Tử Vi mới này?

Còn cái ngoại cục, chắc cũng gần giống như với trường phái sử dụng tứ hóa của cung Thân, nhưng ở đây là áp dụng với ngũ hành nạp âm để đưa tới các vòng trường sinh. Có một điều cần để ý, theo quan điểm của cháu, phải sử dụng cung Thiên Di để nghiên cứu tương tác, chứ không thể sử dụng cung Thân chỉ trong trường hợp cung thân đóng ở phía bên kia của cung mệnh bởi ranh giới Điền-Tử, vì khó có thể nói ngoại cục mà sử dụng cung Thân mà bỏ qua cái quan trọng nhất là cung Thiên Di.

Kính cụ.

NhuThangThai cần một số thời gian để trả lời câu hỏi: tại sao năm Ất Canh thì trị số Cục tuân thủ theo thứ tự và trật tự 6 - 5 - 4 - 3 - 2

Ngài Trần Đoàn đã khải mở mối quan hệ của Ngày từ Nhất cục

...

Thái úy Lý Thường Kiệt tâu Vua: “Thần xin đề cử 2 quan A và B, sau khi hạ thần xem xét về Mệnh số, quan A giữ chức Cục trưởng cục đối ngoại, quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần”

Vua nói: “Để trẫm cho người chuyển Mệnh số của hai người này đến mật viện, cho các quan Tuyên úy trong mật viện cho ý kiến, sau đó Trẫm sẽ phê chuẩn”

Sáu cha Tuyên úy trong mật viện, thì 4 cha Tuyên úy phê đồng ý, 2 cha Tuyên úy phê không đồng ý.

Nhận xét của sáu cha Tuyên úy được chuyển đến Vua, đọc xong Vua đồng ý phê chuẩn theo đề nghị của Thái úy Lý Thường Kiệt.

Một trong hai cha Tuyên úy phê không đồng ý hỏi Vua: “Quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần, xét cục số không có khả năng đối ngoại đã đành, vì Thân cư Thê, nhưng thế Chủ Khách bị phạm Cô Hư, xin Bệ hạ xem xét”.

Vua nói: “Chiến trường cũng như thị trường, Trẫm cần chính cục chuyên nhất, đạt mục đích có đầu thì có cuối, quân lương được chu đáo, hai người này vận số không có hóa Quyền, nhưng quan trọng hơn cả là đắc chính cục”

Cha Tuyên úy đã hiểu được ý Vua.

...

AnKhoa, on 26/02/2012 - 11:27, said:

Gửi cụ HaUyen,

"Thế Chủ Khách phạm Cô Hư" nghĩa là sao ạ?

Trả lời An Khoa một vài bài viết cũng không đủ, Tôi nhớ trước đây, chỉ riêng nhóm 4 sao căn cứ vào địa chi Cô Quả Khốc Hư này, đã phải học 90 tiết, sau đó thực tập 60 tiết, phối nghĩa với cục, sau đó phối nghĩa với cách, tiếp theo là tổ hợp Nội cục + Ngoại cách hay Ngoại cục với Nội cách, sau đó viết tiểu luật về 4 sao này theo hàm nghĩa THƯ HÙNG, khi mình ở cương vị chủ hoặc khi mình ở cương vị Khách,.v.v... để được gọi là đào tạo chuyên nghiệp, rồi tới tào tạo chuyên sâu, cũng tốn nhiều tiền của vậy.

Thanh thản thấy vui, thì viết bài tham gia mà An Khoa!

...

NhuThangThai, on 27/02/2012 - 08:45, said:

Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.

Nói về kỳ số cục, thì dựa vào sách viết: số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch, câu này được hiểu như thế nào?

Đó là nói về mối quan hệ của Ngày trong Tháng - Ngày quyết định vị trí sao Tử vi. Ví như nói ngày 15 giờ Mão, xét tới ngày 14 thì số đủ, giờ Mão là nói số chưa đủ của ngày 15, hiểu đơn giản như thông lệ Tháng thuận Giờ nghịch.

Theo sách viết: "Số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch", thuyết này đã thừa nhận nguyên lý tự nhiên, đó là Giờ chuyển tiết khí trong ngày theo Lịch pháp.

Kỳ số cục, ngoài vấn đề cho ta biết trị số tương ứng với cục, để biết Mệnh số có đắc chính cục hay không, thì còn cho ta biết 5 can tương ứng với 5 ngày kỳ số cục, điều này làm căn cứ để xét Tứ hóa trong 10 can, xác định mức độ ứng cho mỗi vận nhân.

    ...

    NhuThangThai, on 27/02/2012 - 19:53, said:

    Kính thưa cụ Hà Uyên

    Thấy bác lên trên này, cháu mừng quá. Nhân tiện, cháu có một số câu hỏi mong bác giải đáp.

    1-có người nào sử dụng phương pháp luận mệnh dựa trên bát tự trụ năm hay không? Bác VDTT nói rằng có cuốn Trung Hoa Dự Trắc Học, tại sao bây giờ nó không còn phát triển nữa? Bởi vì môn này tồn tại từ thời Lạc Lộc Tử, tại sao đến thời Từ Tử Bình lại bị thất truyền? PHải chăng là vì lúc đó truyền nhân môn phái đó gặp trục trặc gì đó?

    2-Cháu suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu tuổi Ất-Canh thì cục số giảm từ 6-5-4-3-2. Mong bác có thêm gợi ý. Cháu nghĩ suốt 2 tiếng đồng hồ, giờ đã chịu hẳn.

    3-Trong các nghiên cứu của bác về nguồn gốc tinh đẩu thì bao nhiêu thực sự đến từ Thiên Văn, và bao nhiêu đến từ các quẻ dịch?

    4-Có lần bác từng nói rằng Cự Môn thực ra là hành thổ ẩn tàng Kim. Theo NDTTP thì nó là hành thủy, Vượng tại Hợi (khác với tử vi Việt). Tương tự, họ cho rằng Thiên Lương thuộc Thổ, cũng khác với tử vi Việt.

    Vậy theo bác, cái gì đúng, cái gì sai

    Trong 4 vấn đề mà Nhuthangthai nêu ra, đều là những vấn đề có nội dung rộng, trả lời súc tích cô đọng, hay trả lời cho xong, cũng không thể ngày một ngày hai để rõ được hàm nghĩa.

    Lịch sử đã cho ta biết, người đứng đầu một "Ấp" với 300 hộ dân (theo Dịch), tối thiểu cũng phải biết đọc từ 2700 => 3000 chữ, thì mới biết mà hiểu được "chiếu chỉ" từ quan huyện, quan tỉnh, hay cao hơn nữa là Vua, lại thêm theo thời gian chữ viết cũng được thay đổi (7 lần), kèm theo đó là Lịch pháp được vua phê chuẩn theo từng "thời". Nhưng, cái nôi văn minh vẫn là Đại lục, theo đó ta có thể nhận thấy, sự phát triển xã hội của Đài Loan so với Trung tâm văn minh Đại lục, tùy theo mỗi người mà đưa ra nhận xét của mình. Cá nhân tôi cho rằng, khả năng phát triển của phái Nhất Diệp Tri Thu, khó mà đi trước học thuyết của ngài Trần Đoàn viết sớ tâu Vua. Đây không phải là việc mà chúng ta phải đi xác minh độ tin cậy này làm gì, điều quan trọng mà Ta có thể nhận thấy, mối quan hệ giữa Thiên can và Địa chi đối với 30 ngày trong 1 tháng, để tìm hiểu về Mệnh lý thông qua Mệnh số, nền móng xây dựng học thuyết này, là từ ngài Trần Đoàn.

    Sách viết, cũng như những trang mạng có nội dung về Huyền Học, vẫn chỉ đưa ra cách mà không nói cục đi kèm theo, những tinh túy được đúc kết từ thực tiễn, thông qua những câu Phú, cũng không chỉ rõ cục này thì phối với cách nào,... mà thường nói hai chữ chung chung là cách cục vậy. Hay khái niệm Tứ chính thì được hiểu như thế nào? Biện lý đến khi nào thì phải dùng đến số để khẳng định độ chính xác, sau đó lại dùng Lý suy Mệnh, rồi lại phải dùng đến khả năng của Số để dẫn giải..., nên vấn đề cụcsố hình như chúng ta đang trong tình trạng còn nhiều hạn chế.

    Nói ví như, Cục đường bộ và Cục đường biển thì những Cách nào đáp ứng đạt tới mục đích cuối cùng có hiệu quả và kết quả, hay Cục văn hóa dân gian và Cục trinh sát, hoặc như Cục y tế dự phòng và Cục tình báo,.v.v... vậy nên, khi nói cách cục thông qua thực tiễn cụ thể đối với từng con người trong mối quan hệ xã hội, đó là một phần giá trị Nhân học của Tử vi, mà không thể coi Tử vi như đi mua một cái gương soi, phương pháp sử dụng là soi mệt nghỉ xem Ta là ai,... mà quên mất rằng Ta đang tồn tại trong mối quan hệ tổng hòa đó. Hoặc như khi ta coi Lộc tồn tượng là "cầu", còn Hóa Lộc tượng là "kích", kích cầu cũng không thể xa rời quy luật 1/3, mở rộng kích cầu là điểm tựa chiến lược cho sự phát triển vận mệnh của mỗi người, cũng như của một TP hay một đất nước. Tiềm năng lớn nhất của mở rộng kích cầu là ở thành thị mà không phải ở nơi chưa được đô thị hóa, đây cũng chỉ là một quan niệm về lộc khi chúng ta đang tồn tại theo cơ chế thị trường vậy

    ...

    NgoaLong, on 28/02/2012 - 10:18, said:

    Có vẽ như bác HaUyen mắc sai lầm cơ bản từ đầu khi nhận định như trên chăng, để rồi phát kiến thêm cái gọi là Cục nữa để cho phù hợp???

    Cảm ơn Ngoalong về kết kuận của bạn

    Tôi đang cùng Nhuthangthai nói về Thủy cục và Thổ cục gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, sự chia sẻ này của Tôi đã sai.

    Mong Nhuthangthai thông cảm vì Tôi đã sai cơ bản, cục đường bộ và cục đường biển tuy cùng thuộc một Bộ (cung Thân -trường sinh), nhưng đã quan niệm rằng chức năng và nhiệm vụ của đường biển và đường bộ là giống nhau.

    ...

    Durobi chia sẻ bài dịch:

    Phan Tử Ngư - Làm Sao Biết Lấy Được Chồng Tốt?

    Hạnh phúc cả một đời của người phụ nữ quan hệ ở ở ông chồng, vì ông chồng hiền lành tốt tính thì gia đình tất mỹ mãn hạnh phúc.

    Những sao dười đây biểu thị nữ mệnh sẽ lấy chồng tốt. (Phan Tử Ngư: Qua khảo chứng của tôi, điểm quan trọng nhất là vào năm mà tiểu hạn có Hồng Loan mà quen người yêu và sau đó cưới thì khá hạnh phúc, Hồng Loan củng chiếu cũng vậy. Nhưng Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tuất, Hợi thì cát, lạc hãm thì hung.)

    Nữ mệnh :

    1. Thái Dương đóng nơi miếu vượng, như Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.

    2. Cung Phúc đức có Thái Dương tọa thủ + Xương, Khúc.

    3. Cung Phu thê có Tử Vi tọa thủ + Xương, Khúc.

    4. Cung Phu thê Tử Vi hoặc Tử Vi Thiên Phủ.

    5. Cung Phu thê Thiên Đồng + Xương, Khúc.

    6. Cung Phu thê Thiên Phủ tọa thủ.

    7. Cung Phu thê Thái Âm miếu vượng.

    8. Cung Phu thê Thiên Tướng.

    9. Cung Phu thê Thiên Lương hoặc Thiên Cơ + Thiên Lương.

    10. Cung Phu thê Văn Xương hoặc Văn Khúc (Chỉ cần 1, nếu Xương Khúc đồng cung thì có Đào Hoa).

    11. Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tuất, Hợi hoặc tọa thủ tại Mệnh.

    12. Thiên Cơ miếu vượng tọa Mệnh.

    13. Thiên Phủ thủ Mệnh, Thân.

    14. Thái Âm miếu vượng thủ Mệnh.

    15. Thiên Tướng miếu vượng thủ Mệnh.

    16. Thiên Lương miếu vượng thủ Mệnh.

    17. Tả Phụ hoặc Hữu Bật đóng ở Mệnh.

    18. Phá Quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ.

    19. Khôi, Việt đóng ở mệnh hoặc Thân.

    20. Lộc Tồn đóng ở Mệnh + tam phương có sao tốt chiếu.

    21. Hóa Khoa, Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền đóng ở Mệnh.

    22. Thiên Đồng + Thiên Lương đóng ở cung Phu thê.

    Phan Tử Ngư - Làm Sao Phối Hợp Suy Đoán Đại Tiểu Hạn

    Cổ thư nói: "Tham lang Văn Xương đồng cung, chính sự điên đảo", lại nói: " Tham Lang Văn Xương tại Sửu Mùi, tai nạn sông nước". Thế thì chúng ta sẽ gặp trường hợp trên mấy lần ở tiểu hạn, thế thì sẽ xảy ra năm nào? Chủ yếu phải phối hợp đại hạn thì mới ứng! Tóm lại, đại hạn và tiểu hạn kết hợp lại để suy đoán là điểm độc đáo của Tử Vi.

    - Đại hạn có Địa Kiếp hoặc Địa Không, tiểu hạn lại gặp Địa Không hoặc Địa Kiếp, năm ấy phải chú ý những việc sau:

    (1) Không được đầu tư lớn, sẽ lỗ vốn.

    (2) Không được di chuyển bằng đường hàng không.

    (3) Không đến những nơi lầu cao hoặc núi cao.

    - Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn cũng có một trong tứ sát, năm ấy sẽ bất lợi nhiều chuyện.

    - Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn có Tham Lang + Văn Xương, phải chú ý những chuyện sau:

    (1) Sẽ có tai nạn xe cộ hoặc gãy xương.

    (2) Người đang đi làm (kể cả nhà nước và tư nhân), phải đề phòng những sai sót về hành chính, dễ bị phạm lỗi, giáng chức, thậm chí mất việc.

    (3) Không nên đi bơi đi chơi ở biển, thuyền viên thì không nên khởi hành ra biển.

    - Trước cung đại hạn 3 cung, tức cung Phu thê lâm thời (hoạt bàn), có Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Quân, Cự Môn, Linh Tinh, Không Kiếp v.v..., vợ chồng sẽ xảy ra chuyện sinh ly tử biệt.

    - Đại hạn vào cung Phu thê, tiểu hạn có Hồng Loan, Thiên Riêu, có chuyện Đào hoa sẽ xảy ra.

    - Tiểu hạn vào cung có Tả Phụ Hữu Bật giáp, rất cát lợi, có thể mua bất động sản, hoặc phát tài.

    - Tiểu hạn đi đến cung có Lộc Tồn, tam phương tứ chính có Thiên Khốc Thiên Hư, sẽ nổi danh.

    - Tiểu hạn gặp Thái Duơng hóa Lộc, sẽ nổi tiếng.

    - Đại hạn hoặc tiểu hạn có Liêm Trinh Thất Sát + sát tinh, lại gặp năm Bính Liêm trinh hóa Kỵ, có tai nạn giao thông.

    - Tham Lang đồng cung Hỏa hoặc Linh, gặp năm Mậu Tham Lang hóa Lộc, bột phát ào ạt, hoặc phát tài lớn.

    - Cung Tài bạch có Thiên Riêu, vào năm Quí, nếu đánh bạc tất thua, hoặc vì mất tiền vì gái.

    - Năm sinh là năm Canh, đại hạn hoặc tiểu hạn lại gặp năm Canh tứ hóa sẽ gặp trục trặc mọi chuyện.

    - Lưu Xuơng nhập cung Mệnh, Thân, hoặc đại tiểu hạn, thi cử sẽ đậu, quan chức thì có tin thăng chức. Phụ nữ thì sẽ có con.

    - Lưu Mã đồng cung với Lộc Tồn tại tiểu hạn hoặc Mệnh thì sẽ xuất ngoại, di chuyển, du lịch, quan chức thì lên chức, người làm ăn thì trúng quả.

    - Thiên Cơ cung Thiên Di của năm sinh hoặc cung Thiên Di hoạt bàn, gặp năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ bị chuyện đi lạc, nếu có hung tinh đồng cung thì bị tai nạn giao thông.

    - Lưu niên gặp Văn Xuơng hóa Kỵ, đi thi là rớt.

    - Tài bạch cung có Thiên Cơ, đại tiểu hạn và lưu nguyệt lưu nhật gặp Thiên Luơng hóa Lộc, đánh bạc tất thắng lớn.

    - Lưu niên Đại hao nhập cung Điền, sẽ bị ăn trộm đến viếng, gặp thêm sát tinh thì mất sạch sành sanh.

    - Đại tiểu hạn có Hồng Loan gặp Đại Hao, hoặc tại cung Tài bạch, sẽ bị chuyện mất tiền.

    - Đại tiểu hạn Liêm Trinh gặp Tả Phụ hoặc Hữu Bật, coi chừng điềm đi tù.

    - Tham Lang đóng cung Quan lộc tại hãm địa + sát tinh, đại tiểu hạn gặp phải thì do tham ô nên bị bắt.

    - Cung Phúc đức hoặc cung Tài bạch của năm sinh hoặc hoạt bàn có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ, sẽ bị mất tiền do đầu cơ hay đánh bạc.

    - Năm sinh hoặc lưu niên Văn Xương hoặc Văn Khúc hóa Kỵ nhớ đừng làm (giúp) gì cho ai.

    - Tham Lang tại Mệnh, Thân hoặc Tật ách, gặp Bệnh Phù đồng cung, lại gặp thêm Tham Lang hóa Kỵ, do chơi bời mà bị mắc bệnh hoa liễu.

    - Tham Lang đóng cung Tài bạch hãm địa, gặp năm Quí Tham Lang hóa Kỵ, công việc làm ăn gặp sóng gió, hoặc cơ duyên không may mắn.

    - Hoa Cái đồng cung với Cô Thần hoặc Quả Tú, đại tiểu hạn lại gặp, điềm bất lợi hoặc tử vong cho người phối ngẫu.

    (Trích Tử Vi Tinh Áo - Phan Tử Ngư, trang 167 - 169)

    Mối quan hệ Tử Vi và Tử Bình

    Xin chào anh chị em trên diễn đàn. Thuật Tử vi được cấu tạo làm 12 cung, mỗi một cung là 30 độ (360/12 = 30), được thể hiện trên hình tròn, mà ngày nay được thiết lập lá số là hình chữ nhật hay hình vuông. Thuật Tử bình được căn cứ theo 4 chi của năm - tháng - ngày - giờ, mỗi một chi trong thuật Tử bình tương đương với 369 / 4 = 90 độ Khi chúng ta giả thiết rằng, 4 chi của Tử bình có mối quan hệ với 12 cung trong Tử vi, thì điều này dẫn tới khả năng, 4 cung trong 12 cung của Tử vi tiến tới giới hạn 30 độ => 45 độ. (90/2 âm dương) Chúng ta lại đặt một giả thiết nữa: một lá số có Mệnh lập tại cung Tuất gặp Tử Tướng, nhưng số Tử bình lại không có chi Tuất, nên cung Mệnh không còn giá trị góc 30 độ nữa, mà có thể giảm tới chỉ còn 15 độ chẳng hạn. Còn khi lá số có cung Mệnh lập tại Tuất gặp Tử Tướng, mà số Tử bình trong 4 chi có chi Tuất, thì cung Mệnh có giá trị góc 30 độ => 45 độ. Hà Uyên qua trải nghiệm thấy thú vị, nhưng còn rất nhiều lúng túng. Mong muốn cùng Anh/chi/em trên diễn đàn bình giải. Hà Uyên.

    ...

    Chủ đề này, Hà Uyên căn cứ vào vị trí Địa lý của đất nước VN, nằm tại khu vực được gọi là Nhiệt đới gió mùa. Quá trình lao đông sản xuất của người Việt cổ là lúa nước, còn bên Đại lục là lúa mỳ.

    Căn cứ theo chữ Nhiệt, mỗi cá thể đều có giới hạn trừ 2 và cộng 5. Có nghĩa là nhiệt độ cơ thể mỗi người trung bình là 37 độ, khi trừ đi 2 chỉ còn 35 độ thì trụy tim mạch, hoặc khi cộng với 5 thì 37 + 5 = 42 độ, thì dẫn tới hôn mê. Trừ 2 cộng 5 đều có kết quả như nhau.

    Điều này, cho chúng ta hiểu ý nghĩa về giới hạn. Như vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra một câu hỏi: 12 cung trong Tử vi của mỗi một người, nhất thiết bắt buộc phải chia đều hay không? Mỗi cung 30 độ?

    Khi áp dụng vào thực tiễn thấy nảy sinh nhiều điều kỳ lạ. Có thể là một ngõ cụt, cũng có thể là một hướng tư duy, khi truy tìm mối quan hệ của các môn học thuật đối với một cá nhân cụ thể.

    ...

    thieukim, on Sep 9 2009, 01:35 PM, said:

    cái ngày nghe ngộ ngộ hì hì, khoa TB đâu có phải chỉ căn cứ theo 4 chi? còn thiên can thì sao? can tàng như thế nào? người đặt vấn đề có thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua chưa?

    Chào thieukim

    Hay qúa, Hà Uyên cũng chưa thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua.

    Cũng chỉ từ cái mà được gọi là định danh thôi, ví dụ như Tử bình có 4 chi là Tuất-Thân- Hợi-Tý, cũng vẫn con người đó, Tử vi mệnh lập tại Dần ngộ Tử Phủ, Hà Uyên đã để mắt tới gần 50 năm mà danh phận cũng chưa đi tới đâu.

    Lại một trường hợp cùng năm tháng ngày, chỉ khác giờ sinh, đó là sinh vào giờ Hợi mà Tử bình có chi Hợi, thấy cuộc đời khác hẳn. Kể cũng lạ

    Thắc mắc này có thể không đi đường dài được, Hà Uyên nghe theo bạn, thieukim bàn về vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua vậy.

    Cơ Sở Nào để Lập Cục Môn Tử Vi?

    Xin chào anh chị em.

    Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau:

    - Hoả Lục cục

    - Thổ ngũ cục.

    - Kim tứ cục

    - Mộc tam cục.

    - Thủy nhị cục.

    Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy?

    Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

    ...

    Gửi Minh An.

    Phàm hai quẻ Càn Khôn sinh ra sáu con, Bố Mẹ thân thoái mà 6 con thì tiến (2 lùi 6 tiến), cũng như là Âm Dương sinh ra Ngũ hành vậy. Chúng phối hợp với nhau mà thành 64 quẻ. Cũng giống như Can Chi phối hợp với nhau, mà thành Giáp Tý vậy. Nhân quẻ mà suy ra Cơ - Ngẫu, Biến - Hóa, thì cũng như Can Chi phối hợp, mà cũng suy ra Xung - Hợp - Chế - Hóa vậy.

    Thì có khác nào khi nói về Ngũ hành, Thuỷ chỉ sinh ở Canh Tân, mà không Hóa ở Bính - Tân. Hỏa chỉ sinh ở Giáp Ất, mà không Hóa ở Mậu - Quý. Thuyết Biến quái, thì cho đây, là cái gốc của Dịch. Tất cả 64 quẻ đều lấy từ đây mà ra. Như vậy, là vẫn lấy Hóa khí làm Bản khí, thì cũng trái với ý nghĩa tương sinh của Ngũ hành vậy.

    - Bỏ một dùng ba: 360 thì dùng 270

    - Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.

    - Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.

    ...

    "Thân giảm" có câu:

    Dương cực tắc kháng,

    Âm cực tắc ngưng,

    Kháng tắc hữu hối,

    Ngưng tắc hữu hung.

    Dương cực thì kháng,

    Âm cực thì ngưng,

    Kháng thì hối hận,

    Ngưng thì hung hiểm.

    Địa thế Khôn, Thổ dĩ hậu súc tải vật. Vô Thổ bất Thủy.

    Địa trung hữu Thủy, Sư: Thổ dĩ dung súc Thủy.

    Âm lấy Dương làm gốc, Dương lấy Âm làm gốc.

    Thủy sinh ở 1 lấy Hoả thành ở 6.

    ...

    Vâng, anh Thiên Sứ.

    Hà Uyên đã đọc được hơn ba lần về tác phẩm: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Cảm ơn Anh.

    Dưới đây, là một trong những cách tường giải về độ số Cục trong môn Tử vi:

    Từ Nguyên lý:

    - Bỏ một dùng ba: 360 thì chỉ dùng 270 => 1 giáng 3 thăng.

    - Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.

    - Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.

    Hành kim: Có 2 quẻ là Càn và Đoài. Càn 1, Đoài 2. Tuy nhiên, số 9 chính là 1 số chứa trong nó cả Càn lẫn Đoài nên số của hành kim là: 9+1+2 = 12/4 = 4 => Kim tứ cục. Từ Sinh, Vượng, Mộ có 3 khoảng, từ Sinh đến Vượng, từ Vượng đến Mộ và từ Mộ đến Sinh. Số của mỗi hành sẽ được chia cho 3 khoảng đó. Như vậy, tại mỗi khoảng, giá trị của hành kim là 12: 3 = 4 ( Kim tứ cục)

    Tương tự hành Thổ có Cấn và Khôn, trị số là 8+7 = 15 / 3 = 5 => là Thổ ngũ cục

    Hành Thủy quẻ Khảm có trị số là 6 / 3 = 2 => Thủy nhị cục.

    Hành Mộc là quẻ Chấn và Tốn. Trị số là 4+5 = 9 / 3 => Mộc tam cục.

    Duy chỉ có hành hỏa là Ly, 3: 3 = 1. Chẳng lẽ lại là Hỏa nhất cục.

    Bạn Minh An đã gửi thư, đặt v/đ về việc tường giải của mình.

    Cũng mong anh Thiên Sứ cùng anh chị em trên diễn đàn cho ý kiến bình giải.

    ...

    Chào Minh An.

    Khi tìm hiểu về Ngũ hành, mối quan hệ "sinh- khắc" cũng phải đủ một điều kiện, dựa vào quy luật Tứ thời của Tự nhiên. Ví như khi nói Hỏa khắc Kim, khi chúng ta xét Hoả phải ở trong trạng thái "thành" thì mới có thể khắc được Kim. Thông qua "số" mà bàn thì, Hỏa thành ở 7, thì 7 + 4 + 9 = 20 = 6 + 5 + 4 + 3 + 2 = 20. Tương tự như vậy, khi Kim khắc Mộc, thì số "thành" của Kim là 9 ta có: 9 + 3 + 8 = 20, cũng bằng 20 => điều này, cho chúng ta nhận thức được những gì?

    Người xưa lấy Mộc tinh để làm thước đo cho mỗi một cung, cũng gọi là Tuế tinh, 12 năm. Khi căn cứ vào lấy "Vượng" để dụng sự, thì lấy Mộc làm thước đo như sau:

    - Mộc có trị số Vượng là 3 của Chấn => Mộc Tam cục

    - Kim có trị số Vượng là 7 của Đoài => 7 - 3 = 4 => Kim Tứ cục

    - Hỏa có trị số Vượng là 9 của Ly => 9 - 3 = 6 => Hỏa Lục cục

    - Thủy có trị số Vượng là 1 của Khảm => 3 - 1 = 2 => Thủy Nhị cục.

    - Thổ có trị số Vượng là 8 của Cấn => 8 - 3 = 5 => Thổ Ngũ cục

    Anh chị em cùng Minh An bình giải.

    ...

    Tam hợp của Địa chi được căn cứ vào đâu để quy Ngũ hành cho Tam hợp?

    Có thể, Người xưa cũng thông qua nguyên lý: "Bỏ một dùng ba, bỏ hai dùng sáu, bỏ ba dùng chín" chăng?

    - Hợi - Mão - Mùi => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Mộc.

    - Thân - Tý - Thìn => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Thủy.

    - Tị - Dậu - Sửu => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Kim.

    - Dần - Ngọ - Tuất => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Hỏa.

    Vậy còn Thổ thì sao? Tại sao Thiên can Mậu thì lại được khởi Trường sinh từ cung Dần? Tại sao Địa chi tam hợp cục của Thổ lại được khởi Trường sinh từ cung Thân?

    (Nguồn: Sưu tầm)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Sưu tập các bài viết của tác giả Hà Uyên

    10 tác phẩm tử vi hiện đại

    Một bài viết của tác giả Võ Văn Châu trình bày giới thiệu về 10 cuốn sách Tử Vi kinh điển thời hiện đại. Bài viết rất hay, giúp bạn một cách nhìn trong việc lựa chọn sách học Tử Vi.
    10 tác phẩm tử vi hiện đại

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ VÕ VĂN CHÂU

    Khoa Tử vi xuất hiện ở VN không phải mới mẻ gì nhưng thử tính đến nay có được bao nhiêu tác phẩm xuất hiện trước công chúng? Chỉ vỏn vẹn hơn 10 cuốn.

    Với số lượng ít ỏi đó, người đang học hỏi, nghiên cứu tử vi lúc nào cũng cảm thấy không thỏa mãn, mặc dù các quyển lý số này từa tựa nhau trên căn bản lập số, đoán số nhưng cũng có những điểm đặc thù thích thú.

    Trong tinh thần học hỏi để tiến bộ, người viết sẽ lần lượt phân tích dưới nhãn quan của người hậu học 10 tác phẩm sau đây:

    1.     Tử vi chỉ nam của Song An Đỗ Văn Lưu
    2.     Tử Vi bổ túc của Nguyễn Mạnh Bảo
    3.     Tử vi Đẩu số tân biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang
    4.     Tử vi áo bí Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử
    5.     Tử vi hàm số của Nguyễn Phát Lộc
    6.     Tự tìm hiểu đời mình của Nguyễn Mạnh Long
    7.     Tử vi nghiệm lý của Thiên Lương
    8.     Tử vi Đẩu số toàn thư của Vũ Tài Lục
    9.     Tử vi phú giải của Thái Vân Trình
    10.     Tử vi dưới mắt khoa học của Vu Thiên Nguyễn Phát Lộc

    Và cũng vì khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo, người viết sẽ chỉ ghi lại những nét đại cương của từng tác phẩm với hậu ý tóm tắt toàn bộ vấn đề hầu quý độc giả thưởng lãm trong mùa xuân Ất mão 1 cách trọn vẹn.

    Đó là điều mong muốn của mọi người, ở năm này, các nhà Tử vi lẫy lừng phổ biến các bí quyết, các kinh nghiệm, các tuyệt chiêu cho dàn hậu bối thụ hưởng qua các soạn phẩm tử vi mà các vị còn ôm ấp, còn luyến tiếc, còn mơ màng thời vàng son rực rỡ.

    1. TỬ VI CHỈ NAM – SONG AN ĐỖ VĂN LƯU

    Đây là quyển sách lâu đời, ra đời năm 1934 và tái bản lần thứ 3 năm 1957, đến nay kể như tuyệt tích trên thương trường.

    Tác giả kể lại hoàn cảnh tin số mệnh, tìm hiểu số mệnh để rồi biết số mệnh và long nhiệt thành, quyển sách này mới ra đời.

    Toàn bộ Tử vi chỉ nam gồm có 3 quyển, có tất cả 236 trang. Với số trang khiêm nhượng trên, độc giả không phải thất vọng vì được tác giả hướng dẫn cách thức an sao lập số, cách đoán tử vi trên các cung số rõ ràng, đầy đủ, trọn vẹn. Và với 32 lá số mẫu, tác giả giúp cho ta thấm nhuần phương pháp giải đoán thông thường mà mỗi người học số đều phải vượt đến.

    Ở tác giả, ta thấy tác phẩm có lời văn bình dị, mộc mạc mà người đọc cũng thâu nhận dễ dàng, tuy rằng sự xếp đặt thứ tự các mục chưa được khúc chiết cho lắm, còn nhiều lẫn lộn. Điều đó không đáng kể vì người ta chỉ cần cha đẻ của đứa con tinh thần đó thật tâm truyền thụ cho đứa con xứng đáng, danh dự phô trương với đời. Có lẽ trong kinh nghiệm tìm kiếm thầy hay mà tác giả cay đắng gặp phải nên ở tác phẩm này, các tinh hoa của nền học thuật Đông phương cổ cộng với kinh nghiệm hành nghề, được cụ dốc hết tâm ý giãi bày cho hậu thế thưởng lãm. Vì vậy, sách TVCN đã tiết lộ thêm nhiều tình tiết Thái tuế từng năm (trang 170), xem số trẻ con (trang 121) nhất là bang bạc các trang của quyển thứ 3.

    Dẫu biết rằng các cách đặc thù kể trên đều được tiền nhân kê cứu sẵn nhưng thử hỏi các tác phẩm Tử vi hiện thời đã có mấy quyển “xì” các bí quyết đó ra?

    Thế cho nên, với số sách hạn chế trong Tử vi, ta sẽ còn phải đắn đo chọn lựa và chắc hẳn rằng sách xem được dung nghiên cứu được sẽ không vượt quá số đầu ngón tay.

    Một dịp nào thuận tiện, chúng ta sẽ phân tích tận tường các nguyên nhân thúc đẩy đến tình trạng nghèo nàn nhất, bi thảm nhất của làng Tử vi VN.

    2. TỬ VI BỔ TÚC – NGUYỄN MẠNH BẢO

    Tôi được biết 1 sĩ quan QLVNCH đã thuộc làu các bài thơ trong quyển Tử vi bổ túc này, mặc dù ông không biết tử vi là gì. Được hỏi lý do, ông cho biết rằng tại thể thơ hợp với sở thích, vì vậy ông đọc tới đọc lui lâu ngày nên thuộc

    Nói như vậy để độc giả thấy rằng quyển TVBT ít ra đã làm hài lòng giới hâm mộ thi phú và người học hỏi tử vi sẽ thích thú khi đọc qua tác phẩm này. Các câu phú trên do Ma Y lão tổ trước tác và cụ Lê Quý Đôn diễn giải ra quốc âm với hơn 400 cách lý đoán mà phần nhiều đề cập đến các bàng tinh.

    Nhiều lúc gặp thầy giải đoán chuyên chú, má sát vào các chính tinh, tôi đâm ra nghi ngời sự diệu dụng của khoa Đẩu số vì với 14 chính tinh vận hành trên 12 cung số dĩ nhiên sự khác biệt sẽ bị thu hẹp rất nhiều, sự trùng hợp do đó sẽ xảy ra. Tôi cùng các bạn hữu bèn quay qua quan sát các sao nhỏ, tuy gọi là không quan trọng nhưng thật ra chúng đã từng làm đảo lộn thế cờ giải đoán. Quyển sách này đã trợ giúp chúng tôi đắc lực và trong 183 trang, chúng ta được đọc qua phần Tử vi tổng luận phú, các sao đắc hãm tại 12 cung, luận Mệnh viên nam nữ….tạm gọi khá đầy đủ để bổ túc them kiến thức đẩu số toàn vẹn, nhất là bổ túc cho quyển tử vi đẩu số cùng tác giả
    Công cuộc sưu tầm của tác giả thật tỉ mỉ và quan trọng với sở nguyện khoa học hóa môn tử vi, đemmôn lý học này phổ biến cho ngoại quốc, thì với ấn bản trên làm vững niềm tin cho đám hậu học chúng ta khá nhiều, xem như là 1 tài liệu khả tín, ứng dụng chính xác vào bản số.

    Tiếc thay, trong giờ phút này, người thừa kế không tiếp tục toàn vẹn hóa khoa Tử vi như ý nguyện của tác giả mà hình như hững hờ trước việc làm của tác giả khiến cho người thích nghiên cứu phải dò dẫm trở lại từ con số 0.

    3. TỬ VI ĐẨU SỐ TÂN BIÊN – VÂN ĐẰNG THÁI THỨ LANG

    Chúng ta dành 1 phút để tưởng niệm linh hồn cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang đã tử nạn lưu thông, trước khi xem lại Tử vi của người.

    Ta thấy tác phẩm của cụ từng ghi “Tham Lang ngộ Bạch hổ: phải phòng cá thú cắn”. Đối với ngày nay, ác thú của loài người không phải cọp beo vô uy lực trong các chuồng ở vườn Bách thú mà chính là các xe cộ qua lại như mắc cửi hung hãn hơn vị hung thần.

    Thành ra những quan niệm xưa áp dụng vào thực tế ngày nay phải thay đổi theo từng thế hệ, từng thời đại trên chiều hướng tiến bộ của loài người. Khi đọc tác phẩm này, trong tinh thần mới đó, chúng ta sẽ dễ dàng thâu nhận các tinh hoa của khoa Tử vi vậy.

    Sách phân là 3 phần: Lập thành; Luận đoán tổng quát; và Luận đoán vận hạn.

    - Ở phần 1, chắc rằng mọi người đều đã rõ. Chỉ riêng đại mục lý giải ngũ hành, Can chi, biên giả cũng như hầu hết các tác giả khác ghi ra lấy lệ chứ không nói rõ công dụng của nó sinh, khắc, hòa hợp với nhau như thế nào trong tử vi. Một dịp nào đó, ta sẽ bàn chi tiết hơn vấn đề này

    - Trong phần 2, ta sẽ lưu ý đến phần hướng dẫn của tác giả khi luận đoán 1 lá số. Đây là căn bản nhập môn mà í tai chịu hướng dẫn rạch ròi, đầy đủ mà áp dụng khá chính xác. Nói về tính lý các sao, biên giả sắp xếp thật phân biệt, kỹ lưỡng và phối hợp khá đầy đủ 1 cách đơn giản (kết hợp 1 số ít sao để luận) cũng như phụ luận các cung số qua kinh nghiệm của cụ, đã rộng mở đường hiểu biết của độc giả không phải nhỏ.

    - Tại phần 3, phần quan trọng khả dĩ hướng dẫn 1 bộ óc thông minh trung bình tạm thời giải đoán khá ổn thỏa, đúng phương pháp sau 1 thời gian ngắn theo dõi tác phẩm này.

    “Tôi học ít. Sự suy xét còn nông cạn…Nhưng với tấm long thành muốn góp 1 phần nhỏ vào công việc phổ biến tử vi đẩu số, tôi mạo muội biên soạn và đưa xuất bản cuốn sách này”. Ai lại không phục lời nói khiêm cung, hòa nhã của cụ Vân Đằng? Trước 1 nhiệt tình đầy dẫy, trước 1 người hữu công đã khuất, tôi mạo muội dừng bút nơi đây mà chưa vội lạm bàn đến các khiếm khuyết của tác phẩm.

    4. TỬ VI ÁO Bí – HÀ LẠC DÃ PHU VIỆT VIÊM TỬ

    Nhìn qua quyển sách dày như quyển tự điển, với tên đề, ta thấy tử vi sẽ ảo diệu bao nhiêu, sẽ ngăn chùn bước chân chập chững vào vườn hoa lý số của bao người.

    May mắn thay, nhìn vào trang cuối, ta thấy tác giả để địa chỉ liên lạc hầu giải quyết các thắc mắc của độc giả ham tìm tòi. Tôi chưa có dịp tìm đến cụ Hà Lạc, tuy nhiên tôi cảm thấy vui sướng khi tác giả làm việc đó mà các tác giả khác, các soạn giả, biên giả khác chưa hoặc quên làm. Tôi có cảm tưởng họ buông thả đứa con tinh thần của họ, mặc sống chết ra sao, cũng chả cần biết đến hậu quả hành động của chúng hữu ích hay tác hại (?) để gánh lấy 1 phần hãnh diện hay trách nhiệm.

    Trở về nội dung của tác phẩm, ta thấy tác giả thực sự chỉ dẫn độc giả phương pháp lập thành lá số, nhưng lại dài dòng ở chương 2. Nhưng ta phải thành tâm nhận xét rằng, với chương 3, chương đặc biệt hơn tất cả, tác giả đã phân tích các quan niệm an sao của các hệ phái để cuối cùng dứt khoát nên chọn con đường nào hợp lý nhất để đi, nhất là cách an Vòng Tràng Sinh. Tại chương 8 và 9, tác phẩm giúp ta nắm vững các cách của đẩu số, vận hành và tương quan 12 cung đối với mệnh viên.

    Nhìn chung, quyển Tử vi áo bí có 1 trình độ cao hơn các quyển đồng loại khác: độc giả muốn nghiên cứu thông đạt ắt hẳn phải có 1 kiến thức dồi dào về môn lý số này vì có nhiều chủ đề (ví như Ngũ hành) tác giả quảng diễn thiếu khúc chiết, mạch lạc và chân thực, từng gây lung túng cho độc giả không ít. Sự chủ quan của cụ hà Lạc trong các cách giải thích rườm rà hẳn phát sinh trong đầu óc người xem những nghi vấn cần được giải tỏa
    Và cũng như đa số tác giả khác, những “tại sao như thế này…” không được cụ hướng dẫn kỹ càng, thành ra đọc xong, ta chấp nhận như là 1 kết quả thực tế kinh nghiệm chứng minh chứ không thể tìm đến chân lý của vấn đề.

    5. TỬ VI HÀM SỐ - NGUYỄN PHÁT LỘC

    Non 500 trang, do Khoa học Nhân Văn xuất bản năm 1972, Tử vi hàm số được sắp xếp thật khoa học, giúp cho người nghiên cứu nắm vững các vấn đề phiền toái của môn tử vi học.

    Đặc biệt, tác giả nêu ra qui tắc luận đoán 1 lá số thật cầu kỳ, tỉ mí, đầy đủ khiến cho ta cảm thấy rằng khoa lý học này rất toàn vẹn, toàn bích và đâm ra ngỡ ngàng trước kiến thức hạn hẹp của mình. Thật vậy, tôi đã từng nhìn thấy 1 nhà tử vi thiết lập lời giải đoán dài 100 trang giấy học trò, cũng chưa đủ các yếu tố cần thiết như tác giả đã trình bày. Thế mới biế, tử vi là bao la, rộng lớn đến dường nào?

    Trong phần luận thuyết về Hàm số tử vi được xem như 1 chủ đề mới mẻ, trong đó, bao giờ tác giả cũng lưu ý đến cung Phúc đức, 1 cung có giá trị tột độ ảnh hưởng mật thiết với các yếu tố khác. Đây là phần có giá trị thiết thực như 1 tài liệu tham khảo mà mọi người không thể bỏ qua được.

    Tiếc thay, đôi lúc tác giả tự mâu thuẫn với mình vì quá mê say phối hợp các hệ phái tử vi khi chứng minh rằng tử vi không thần quyền mà tại phần tính lý các sao, ông lại rơi vào các điều thần bí mà ông bài bác ở trên.

    Tiếp đến là phần ý nghĩa các chính và phụ tinh, ta thấy tác giả đã công phu sưu tầm, biên khảo với kinh nghiệm dồi dào, sắp xếp mạch lạc, giúp cho những ai muốn rạch ròi phân biệt khi nghiên cứu, học hỏi tử vi.

    Tác phẩm TVHS có 1 giá trị khá cao trong làng sách hiện hành và người muốn tham khảo môn này, ít nhất phải có quyển sách này làm căn bản tối thiểu để tiến tới, tuy rằng nó có khuyết điểm cố hữu ở sự gán ép của tác giả khiến cho ta không nắm vững vấn đề hoặc làm thừa thãi ở sự phối hợp các sao.

    Dù sao, quyển TVHS vẫn còn thiếu sót như tác giả mặc nhiên thú nhận: phải có quyển Tử vi tổng hợp (chưa xuất bản) mới định rõ giá trị thật sự của tác phẩm này được

    6. TỰ TÌM HIỂU ĐỜI MÌNH – NGUYỄN MẠNH LONG

    Sách do hương Giang ấn hành năm 1971 với giá đề 400 đồng, dày 350 trang, khổ nhỏ. Đây là quyển sách có thể gọi là tiêu chuẩn sơ cấp cho những ai mới có dịp tìm hiểu tử vi đẩu số, vì với lối hành văn giản dị, dễ hiểu, với cách an sao rút gọn thành hệ thống đồ bản sẽ giúp hoàn thành 1 lá số rất dễ.

    Tác giả hướng dẫn cách luận đoán tạm thời bản số tử vi qua các cách cục xấu tốt, thuận nghịch, sinh khắc giữa ngũ hành bản mệnh, cục, sao cung. Tác giả bàn qua đặc tính tổng quát của các sao chính, phụ ứng chon am mệnh, nữ mệnh và vận hạn kèm theo 1 bản phụ giải về phú đoán, căn bản cố truyền của các nhà lý số dung trong việc đoán số.

    Có thể nói, tác phẩm bao gồm đầy đủ các yếu tố cần thiết cho các truyền nhân của lão tổ Trần Đoàn.

    Như đã nói trên, quyển sách này là căn bản sơ đẳng của người mới nhập môn nên dĩ nhiên còn thiếu sót rất nhiều từ cách kết hợp các sao đến việc trưng bày lá số mẫu. Muốn tiến hơn, người học cần phải trau dồi them ở các quyển tử vi khác, ở các kinh nghiệm bằng hữu, ở chiêm nghiệm thường xuyên, ở sự tiếp thu chân thành của mình.

    Đó là chưa kể các vấn đề cần xét lại (tương sinh giữa mệnh và cục – trang 47 – hành mệnh và hành sao – trang 48-) hoặc thiếu sót (tính lý các sao tại các cung, ảnh hưởng ngũ hành Can chi ứng dụng vào tử vi,,ục lục…) hoặc cẩu thả (in sai, thứ tự sắp xếp các trang, sự sắp xếp các đại tiểu mục…).

    Được thừa hưởng di sản của nhà tử vi tăm tiếng 1 thời, GS Nguyễn Mạnh Long hẳn đã góp phần vun vén, tái bồi cho khoa mệnh học chưa được xứng ý cho lắm.

    7. TỬ VI NGHIỆM LÝ – THIÊN LƯƠNG

    Chúng ta chưa thấy quyển tử vi nào được giới thiệu nhiều, bàn luận nhiều như quyển Tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương, kể cả các quyển ấn hành đồng thời hoặc trước đó.

    Không phải là ân sủng, đặc quyền. Quyển sách có 1 điểm đặc dị: phát kiến vòng Thái Tuế để nghiên cứu tính tình con người qua lý số. tương lai, những nhà nghiên cứu con người ắt hẳn không thể bỏ qua việc phối hợp tử vi vào các phương pháo và phương tiện khảo cứu sẵn có được.

    Tuy rằng trên căn bản, các phát kiến của Thiên Lương không có gì sai lạc ý hướng cổ nhân, nhưng phải coi rằng nó mới lạ và giản dị, dễ hiểu và dễ ứng dụng vào các lá số không sai chạy. Kinh nghiệm đó tác giả không bắt buộc ta phải chấp nhận như 1 tín điều. Sự kiện này nếu có dịp tiếp xúc với tác giả, ta sẽ thấy ngay ý tưởng chân thành biểu lộ sự thanh cao, bất vụ lợi của tác giả. Nhưng khi đọc xong, ta vẫn khả chấp như 1 tin tưởng rằng Tử vi không đến nỗi mù mờ, dành đặc quyền cho 1 hạng người nào và cho ta thấy tính lý con người, thời vận hưng khởi hoặc suy tàn để tri thiên mệnh, để biết người biết ta. Hay ho là chỗ đó! Thâm thúy là nơi đó!

    Tác giả đã không minh chứng các điều phát minh 1 cách rõ ràng làm đa số độc giả khó thâu nhận kịp thời các nguyên tắc lý số, nhưng bang bạc các lá số danh nhận ở phần thứ nhì của tác phẩm vừa giúp kinh nghiệm giải đoán, vừa áp dụng tức thời các nguyên tắc tìm thấy ở phần thứ nhất.

    Ước mong rằng quyển TVNL ra đời là nguồn phấn khởi cho bao người còn nặng mang “bí kiếp” hãy mau mau cống hiến cho đời kẻo mai một – sự mai một đã được chứng minh cụ thể cho nền học thuật tử vi ngày nay – cho bao người đang lăm le hoặc đã nhúng tay vào nghiệp dĩ lý số có dịp ngắm các khám phá thực tiễn, các nguyên lý tối vi, các kinh nghiệm quý giá để nân cao đất đứng cho môn tử vi, để cởi bỏ lớp áo huyền vi của khoa đẩu số.

    8. TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ – VŨ TÀI LỤC

    Ngay lời dẫn, dịch giả đã giúp ích nhiều cho kiến thức của chúng ta về môn Tử vi học và đi đến kết luận rằng, con người dù sao cũng bị số mệnh chi phối và biết số mệnh không phải là vô bổ, là huyễn hoặc, là hạ cấp vì “bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử”.

    Ở đây ta thấy Vũ Tài Lục dịch và bình chú cuốn TVĐSTT của Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn, cùng bổ túc thêm vào ít khám phá mới của các tác giả khác. Vì thế ta có dịp biết tử vi qua truyền thuyết dân gian mà các sao được gán ghép qua các nhân vật truyện Phong Thần (nhưng nguyên bản Phong Thần, các sao được hình dung qua các nhân vật khác với của dịch giả). Dù là huyền thoại nhưng xem qua cũng thấy hay hay: ta có thể suy nghiệm kết quả các cuộc đấu chiến của các nhân vật trong truyện để luận đoán sao thủ Mệnh gặp sao nào ở vận hạn là khắc chế, thắng bại, tiền hung hậu kiết…

    Dịch giả đưa ra 1 nghi vấn cho rằng trong TVĐSTT chỉ có 85 sao trong khi Tử vi Việt có đến 104 vị. ông cho rằng chỉ sao Đào hoa là có giá trị, còn các sao kia là gượng ép trong khi ông không rõ do đâu có sự sai biệt lượng số các sao. Thành ra ta phải dung thực tế, dung sự thật để chứng tỏ rằng các sao của Tử vi Việt không phải không có giá trị,chứ không thể căn cứ vào 1 quyển sách nhập cảng để bác bỏ đồ nội hóa vì luật sinh tồn từng hung hồn minh chứng rằng cái gì vô giá trị sẽ bị thải hồi qua thời gian như 1 số sao ta từng thấy, như các sao Mệnh chủ, Thân chủ.

    Thiết tưởng sách TVĐSTT ra đời cũng chỉ góp phần vào vườn hoa tử vi thêm 1 loài hoa mới. Chúng ta phải áp dụng để chiêm nghiệm hơn là mặc nhiên chấp nhận như 1 chân thư. Đừng vì 1 lời nói, đừng vì 1 nhãn hiệu mà bài bác, phá hủy công trình nghiên cứu của làng tử vi Việt. “Thức đêm mới biết đêm dài”, “đường dài mới biết ngựa hay” có lẽ áp dụng được vào các mâu thuẫn của quyển sách này với các soạn phẩm tử vi của người Việt.

    9. TỬ VI PHÚ GIẢI – THÁI VÂN TRÌNH

    Hầu hết các quyển tử vi hiện hành, không nhiều thì ít, cũng có ghi ở phần phụ lục các câu phú của cổ nhân. Tất nhiên các câu phú được sao lục lại đó có thiếu sót.

    Và quyển TVPG ra đời nhằm mục đích kết hợp các câu phú của mọi hệ phái lý học, giúp cho độc giả đỡ công tìm tòi, truy lục.

    Sở dĩ tôi ke quyển TVPG này vào 1 trong 10 quyển sách tử vi hiện đại là vì căn bản xem số của các nhà tử vi đều lấy các câu phú làm tiêu chuẩn ứng dụng vào bản số. Tất cả cho rằng các sách vở hoặc bị ngoại nhân cướp đoạt nên các nguyên tắc về tử vi khó long ghi chép được đầy đủ để lưu tuyền đến nay. Do đó, đa số còn bám víu, tin tưởng vào chiếc phao cuối cùng do sự giáo luyện truyền khẩu các bí quyết lý số bằng những bài văn dễ nhớ, dễ thuộc: các câu phú vì lẽ ấy được các vị sư phụ chiếu cố kỹ cảng, tìm hiểu thâm sâu để truyền lại cho môn đệ có những miếng nghề tin tưởng hơn các lò khác.

    Tuy nhiên, tin vào các câu phú cũng y như sử dụng con dao 2 lưỡi: lợi cũng nhiều mà hại cũng không ít (Cụ Phong Nguyên đã dẫn giải khá nhiều trên KHHB về các câu phú). Nói như thế để cho độc giả ước định được sự thật của vấn đề không có gì tuyệt đối cả. Cùng 1 câu phú, nhưng 2 ông thầy sẽ giảng giãi khác tùy theo kinh nghiệm giải đoán cũng như trí linh mẫn của mỗi người khác nhau. Điều này chúng ta sẽ nhận thấy rõ ràng trong quyển sách trên với lối ghi chú gượng ép, mơ hồ, đôi khi tối nghĩa.

    Thái độ dè dặt của ta khi dung sách là điều cần có trước tiên, vì áp dụng phú vào mỗi lá số không phải công việc thay các con số vào công thức của toán học được.

    Sách có giá trị ở công trình sao lục chứ chưa bày tỏ được quan điểm của soạn giả.

    10. TỬ VI DƯỚI MẶT KHOA HỌC – VU THIÊN NGUYỄN ĐẮC LỘC

    Thiếu quyển sách này là 1 thiếu sót trầm trọng cho kiến thức hạn hẹp về tử vi của ta hiện tại chỉ thuần về huyền bí, vì chưa có ai giải thích tại sao con người lại chịu ảnh hưởng mật thiết của các dữ kiện được gọi là “Sao” đó, tại sao ông sao này lại an thế này, ông sao kia lại an thế kia…?

    Sử dụng tử vi ngày hôm nay cũng giống như mình sử dụng chiếc xe hơi, sử dụng hột gạo để nấu cơm, sử dụng căn nhà để ở chứ không quay về nguồn xem cách thức cấu thành chiếc xe hơi thế nào, xem các giai đoạn trồng trọt cây lúa ra sao…

    Tác giả Vu Thiên đơn phương làm công việc về nguồn đó sao cho hợp với quan điểm của Hi Di Trần Đoàn mà không xa rời khoa học hiện đại. ông đã thành công 1 phần công trình nhiêu khê trên.

    Việc chấp nhận hay không sẽ là 1 đề tài dài làm tốn bao nhiêu giấy mực của người ham học hỏi, thích nghiên cứu trước vấn đề mới mẻ này. Tại tác phẩm, tác giả có những quan niệm về an sao lập số đặc dị hơn các sách mà ta có trong tay. 1 cuộc cách mạng tử vi để thay đổi quan niệm lỗi thời, cũ rích ắt không phải là con đường xa lộ dẫn đến mục tiêu. Bởi 1 vấn đề nho nhỏ là ngũ hành các sao của các môn phái tử vi đương thời còn là 1 hố cách biệt thay huống hồ là công tác trọng đại này.

    Tuy nhiên, năm này ta chưa cải cách được thì 10 năm, 20 năm sau giới trẻ chúng ta sẽ lại bắt tay vào công cuộc khám phá nối tiếp công trình của tác giả để khoa học hóa môn tử vi, đưa nó vào chương trình giáo dục văn hóa đặc thù của dân tộc Việt. âu cũng là 1 phương thức cải cách đời sống tinh thần của người VN cho hợp lẽ tự nhiên của tạo hóa mà tác giả đã bắt đầu gieo cuống nó 1 hạt giống rồi vậy.

    Qua 10 tác phẩm tử vi, chúng ta vừa phớt qua trên căn bản tổng quát, ta thấy 10 tác giả là 10 quan niệm khác nhau do kinh nghiệm, do bí truyền, do sáng kiến của cá nhân. Thành ra khoa Tử vi thật sự chỉ cống hiến cho đời 1-2 khía cạnh tầm thường nặng về quyền lợi vật chất, nặng về danh quyền khoa bảng, nặng về cá nhân phù du (ba vạn sáu nghìn ngày là mấy?), và dưới nhãn quan của dân chúng, thầy tử vi được đồng hóa …

    Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: 10 tác phẩm tử vi hiện đại

    Tính cách con người qua 12 con giáp - Tử vi - Xem Tử Vi

    Tính cách con người qua 12 con giáp, Tử vi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tính cách con người qua 12 con giáp, tu vi Tính cách con người qua 12 con giáp, tu vi Tử vi

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tính cách con người qua 12 con giáp

    Tuổi Tý: Chăm chỉ

    Mọi người đều thích người tuổi Tý. Quyến rũ, hòa đồng, nhanh trí, những người sinh năm Tý thường là những người nổi tiếng. Luôn năng động, người tuổi Tý thấy sự an toàn trong số đông, thích lối sống cạnh tranh ở thành phố và rất thích tích trữ của cải. Người tuổi Tý có khiếu kinh doanh, tự biết thúc đẩy bản thân, chú ý đến tiểu tiết, chăm chỉ làm việc và vô cùng tham vọng.

    Người tuổi Tý có khả năng tích trữ của cải không mấy khó khăn vì bản tính của họ là tiết kiệm và khôn ngoan. Nếu sếp của bạn tuổi Tý, hãy cẩn thận, bạn sẽ phải vất vả để thuyết phục họ chi tiền. Người tuổi Tý là những người vợ và những người mẹ tuyệt vời, có khả năng lên kế hoạch chi tiêu, mặc cả, phân chia công việc, tổ chức hàng loạt công việc rất hiệu quả. Tuy nhiên, người tuổi Tý hay buôn chuyện và chỉ trích người khác. Họ cũng thường bị ám ảnh bởi bản thân và tham lam nữa.

    Những người nổi tiếng tuổi Tý: Nhà soạn nhạc William Shakespeare, Nhạc sĩ Mozart, Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ George Washington, nữ điệp viên Mata Hari, Tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ Jimmy Carter, Thái tử Charles, diễn viên Doris Day, nam diễn viên Sidney Poitier, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Peggy Fleming, nam diễn viên Sean Penn.

     

    Tuổi Sửu: Kỷ luật và nguyên tắc

    Những người tuổi Sửu là những người bạn có thể hoàn toàn tin tưởng trong công việc. Bản tính người tuổi Sửu là rất nguyên tắc, luôn tuân thủ các lề lối và truyền thống. Hầu như không thể thay đổi suy nghĩ và quan điểm của người tuổi Sửu. Tính cứng nhắc và phong cách quân phiệt thường khiến cho người tuổi Sửu có vẻ khó gần và đáng sợ.

    Trong gia đình, đàn ông tuổi Sửu rất nghiêm khắc, họ là người quyết định mọi chuyện trong nhà, là người thiết lập trật tự. Nếu chống đối người tuổi Sửu, bạn rất dễ khiến họ nổi giận, hãy nhớ tránh xa họ những lúc như vậy. Tuy nhiên đàn ông tuổi Sửu lại là trụ cột vững chắc không thế thiếu trong gia đình. Phụ nữ tuổi Sửu rất xuất sắc trong công việc và đảm đang trong việc nhà. Họ sẽ thanh toán các hóa đơn, cân đối chi tiêu gia đình, nấu nướng, giặt là và chăm sóc con cái. Mặc dù người tuổi Sửu không có khiếu hài hước, và thường giải quyết công việc bằng lý trí chứ không phải tình cảm như họ lại là người vô cùng trung thành.

    Những người nổi tiếng tuổi Sửu: nhà sản xuất phim hoạt hình Walt Disney, Nhật hoàng Hirohito, Tổng thống Mỹ Richard Nixon, họa sĩ Vicent Van Gogh, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, nam tài tử Robert Redfoord, nam tài tử Dustin Hoffman, Adolf Hitler, danh hài Charlie Chaplin, Tổng thống Iraq Saddam Hussein.

    Tuổi Dần: Tính khí thất thường

    Người tuổi Dần thường lãng mạn, đầy cuốn hút và cũng độc lập. Họ cũng là những người ưa mạo hiểm, tính khí thất thường, bồng bột và liều lĩnh. Là những người lạc quan, nhiệt tình, người tuổi Dần luôn sống hết mình và cũng rất dễ thích nghi với hoàn cảnh. Mặc dù một khi đã quan tâm tới cái gì thì họ vô cùng nhiệt tình nhưng họ lại nổi tiếng là tính khí thất thường. Đàn ông tuổi Dần hung hăng hiếu chiến, hấp tấp, và có tính chiếm hữu cao. Phụ nữ tuổi Dần kiêu ngạo, và thiếu quyết đoán. Họ có thể chơi đùa vui vẻ với con cái nhưng cũng dạy chúng phải biết cách cư xử. Tóm lại những người tuổi Dần là những người không thể đoán trước được.

    Những người nổi tiếng tuổi Dần: Nhạc sĩ Beethoven, Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị, Tổng thống Mỹ Dwight D.Eisenhower, Hugh Hefner (người khai sinh ra tạp chí Playboy), minh tinh màn bạc Marilyn Monroe, diễn viên balê Rudolf Nereyev, ca sĩ – nhạc sĩ Stevie Wonder, diễn viên Jodie Foster, nam tài tử Tom Cruise.

    Tuổi Mão: May mắn

    Tuổi Mão may mắnNgười tuổi Mão tính tình hòa nhã, điềm đạm, khéo léo trong quan hệ. Nổi tiếng là có khiếu thẩm mỹ tinh tế, những người tuổi Mão rất tao nhã, có văn hóa và có phần hơi phô trương. Họ thích rượu ngon, đồ ăn lạ miệng, quần áo thiết kế riêng, và các cuộc nói chuyện độc đáo.

    Trong kinh doanh, người tuổi Mão rất giỏi thuyết phục. Người tuổi Mão nhanh chóng thành đạt trên con đường sự nghiệp là nhờ óc phán đoán xuất sắc, khả năng tư vấn chính xác và phong cách hòa nhã, lịch thiệp. Bởi vì không có nhiều kẻ thù, nên người tuổi Mão thường ít khi gặp rắc rối. Người tuổi Mão sống theo các nguyên tắc bất di bất dịch và sẽ không bao giờ qua cầu rút ván. Phụ nữ tuổi Mão nhân hậu, chu đáo, luôn quan tâm chăm sóc người khác nhưng cũng thiếu sâu sắc.

    Những người nổi tiếng tuổi Mão: nhà bác học Albert Einstein, nam tài tử Orson Welles, tên cướp nổi tiếng John Dillinger, nhà tài phiệt David Pockefeller, Đức vua Olav 5 của Nauy, Hoàng hậu Jane Seymour, diễn viên Nicholas Cage, Chủ tịch Cuba Fidel Castro, nhà sản xuất phim Francis Ford Coppola, ca sĩ Sting.

    Tuổi Thìn: Năng động

    Ở Trung Hoa, rồng tượng trưng cho Hoàng đế. Đó là lý do tại sao ở Trung Hoa và cộng đồng người Hoa trên toàn thế giới, rất có nhiều đồ tạo tác có hình rồng. Nếu quan sát, các bạn có thể thấy hình rồng do người thường sử dụng mỗi chân chỉ có bốn móng, còn hình rồng của Hoàng đế thì có tới năm móng.

    Trong số 12 con giáp thì rồng là loài vật đem lại may mắn nhiều nhất. Thực tế, người tuổi Thìn hết sức may mắn! Họ luôn tràn đầy sinh lực, tự tin, hay phô trương và tự coi mình là trung tâm. Người tuổi Thìn là con người của hành động, họ không bao giờ thụ động chờ đợi mọi việc xảy ra, tự họ khiến cho điều đó xảy ra. Bạn luôn có thể tin tưởng người tuổi Thìn trong việc chịu trách nhiệm và chấp nhận rủi ro. Trong họ tràn đầy lòng nhiệt tình và hừng hực sự mạnh mẽ. Người tuổi Thìn luôn muốn làm mọi việc theo cách của họ. Họ đòi hỏi sự hoàn hảo ở bản thân và cả ở người khác. Mặc dù người tuổi Thìn tranh cãi rất hăng nhưng cũng rất dễ tha thứ. Nung nấu thù hận chỉ cản bước của họ thôi. Mặc dù người tuổi Thìn có khả năng thu hút đám đông, họ lại có rất ít bạn bè thân thiết.

    Những người nổi tiếng tuổi Thìn: nữ thánh Joan of Arc, ca sĩ John Lennon, vận động viên quần vợt Jimmy Connors, nhà văn Salvador Dali, thần đồng nghệ thuật thứ bảy Shirley Temple Black, Fred (Mr.) Rogers, nam diễn viên Al Pacino, diễn viên hài Pee Wee Herman, diễn viên đóng viên Superman Christopher Reeves, ca sĩ Robin Williams.

    Tuổi Tỵ: Thông minh

    Những người tuổi Tỵ có trí thông minh bẩm sinh và khả năng linh cảm nhạy bén. Người tuổi Tỵ rất hay suy nghĩ. Trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào họ đều suy tính kỹ càng. họ cực kỳ bình tĩnh và luôn kiên nhẫn lắng nghe người khác.

    Những người tuổi Tỵ học hỏi rất nhanh và không bao giờ mắc một lỗi hai lần. Rất đa nghi và thích giữ bí mật. Họ luôn muốn coi trọng sự riêng tư, luôn luôn che giấu những nhu cầu, mong muốn thầm kín nhất. Thiếu tin tưởng ở người khác và không chịu tha thứ cho người khác ở mức độ nào đó, những người tuổi Tỵ có xu hướng nghi kỵ, thậm chí là thần kinh họ có phần không bình thường. Phần lớn những người xinh đẹp và quyền lực nhất thế giới đều là người tuổi Tỵ.

    Những người nổi tiếng tuổi Tỵ: họa sĩ Picasso, Chủ tịch Mao Trạch Đông, nhà tài phiệt J.Paul Getty, Brooke Shields, Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy, Tổng thống Mỹ Abraham Lincoin, Ryan O’Neal, Đệ nhất phu nhân Jacqueline Onassis, người dẫn chương trình Opral Winfrey.

    Tuổi Ngọ: Độc lập 

    Người tuổi Ngọ yêu tự do, họ muốn có tự do để dành thời gian cho riêng mình, không phải tuân thủ các nguyên tắc, lề lối và không muốn ràng buộc. Vì vậy, nếu bạn cưới một người tuổi Ngọ, hãy để họ có một khoảng trời riêng, nếu không họ sẽ tìm cách thoát ra. Rất chăm chỉ và độc lập, người tuổi Ngọ thích được thử thách. Họ có xu hướng phô trương và coi mình là trung tâm, họ luôn muốn khen ngợi người khác để được khen ngợi lại.

    Người tuổi Ngọ xem nhẹ chuyện tiền bạc. Họ rất chăm chỉ và sáng tạo. Họ cũng rất cứng đầu, khăng khăng giữ ý kiến và không chịu nghe người khác. Họ cũng rất nhanh trí và không thể chịu đựng nổi những người chậm chạp. Có thể làm rất nhiều việc cùng một lúc, người tuổi Ngọ ghét sự lười biếng. Người tuổi Ngọ không biết tích lũy tiền bạc, họ chỉ biết nghĩ đến hôm nay mà không biết nghĩ đến ngày mai.

    Những người tuổi Ngọ nổi tiếng: họa sĩ Rembradnt, Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt, Tổng thống thứ 26 của Mỹ Franklin Roosevelt, Billy Graham, Laura Dem, nam tài tử Clint Eastwood, Roger Ebert, ca sĩ Paul McCartney, ca sĩ Barbra Streisand.

    Tuổi Mùi: Nhạy cảm

    Cực kỳ nhạy cảm, hy sinh vì người khác, dễ nghe lời, chân thành và tốt bụng, đó là tính cách của người tuổi Mùi. Mặc dù họ là những người bạn có thể tâm sự, nhưng đừng bao giờ trông đợi họ giúp bạn giải quyết khó khăn. Họ chỉ là những người biết lắng nghe thôi. Dễ bị stress và buồn chán, người tuổi Mùi thích một môi trường yên tĩnh và thanh bình.

    Điểm yếu nhất của người tuổi Mùi là họ dễ bi quan, hay bỏ cuộc và lười biếng. Bất cứ lời chê bai nào cũng có thể khiến họ buồn chán nhiều ngày liền. Cuối cùng, tính hay thương hại bản thân sẽ khiến cho bạn bè, đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ họ. Đừng bao giờ để cho người tuổi Mùi giữ tiền bạc. Do bản thân rộng rãi nên họ luôn tiêu tiền nhiều hơn những gì họ có. Người tuổi Mùi chỉ hay hùa theo đám đông chứ không mấy khi có thể trở thành người lãnh đạo.

    Những người nổi tiếng tuổi Mùi: đạo diễn andy Warhol, Andrew Carnegie, họa sĩ Michelangelo, diễn viên Bruce Willis, nhà báo Barbara Walters, nữ minh tinh Jullia Robert, nam tài tử John Wayne, Malcolm Forbes, phóng viên Dan Rather, nam tài tử Robert DeNiro.

    Tuổi Thân: Tinh nghịch

    Người tuổi Thân rất tò mò, cái gì cũng muốn thử cho biết. Luôn hăng hái học những kỹ năng mới, người tuổi Thân hào hứng luyện đi luyện lại cho tới khi họ thực sự thành thạo kỹ năng đó. Đó là lý do vì sao có câu nói: “người tuổi Thân thấy là làm”. Người tuổi Thân cũng rất thích cạnh tranh. Họ luôn đặt ra cho bản thân nhiệm vụ là phải làm tốt hơn bất cứ ai. Họ không biết đến thất bại. Cực kỳ thông minh nhanh trí, luôn tràn đầy những ý tưởng mới mẻ, người tuổi Thân có thể thành công trong bất cứ lĩnh vực nào. Họ thực sự tin rằng mình là người dẫn đầu. Mặt tiêu cực của những người tuổi Thân là họ rất khó tin cậy. Họ có xu hướng quá coi mình là trung tâm nên ít quan tâm tới người khác.

    Những người nổi tiếng tuổi Thân: họa sĩ Leonardo da Vinci, văn hào Charles Dickens, Mick Jagger (ca sĩ sáng lập ra ban nhạc The Rolling Stones), đạo diễn Danny De Vito, nam tài tử Tom Hanks, Macauley Culkin, nữ minh tinh Elizabeth Taylor, Phó tổng thống thứ 41 của Mỹ Nelson Rockefeller, Công chúa Monaco Caroline, Thượng nghị sĩ Ted Kennedy.

    Tuổi Dậu: Tỉ mỉ

    Tự phụ, huênh hoang, gà luôn ngẩng cao đầu, khoe bộ lông đẹp của mình. Gà là loài vật vô cùng kiêu hãnh. Thế giới của nó chỉ toàn đen và trắng, nó không hề biết màu xám là gì. Thẳng thắn tới tàn nhẫn, trung thực và hay nói thẳng, bất cứ khi nào được hỏi, người tuổi Dậu sẽ cho bạn biết ý kiến thực sự của họ. Khi họ muốn biết ý kiến của bạn thì họ sẽ hỏi trực tiếp. Rõ ràng người tuổi Dậu không khéo léo trong ngoại giao. Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu họ biết phê phán người khác một cách nhẹ nhàng hơn. Mặt tích cực là người tuổi Dậu rất tỉ mỉ và cầu toàn. Đưa tiền cho họ và họ sẽ đếm đến từng xu lẻ một. Người tuổi Dậu cũng có khả năng tập trung và khả năng tổ chức rất xuất sắc.

    Những người nổi tiếng tuổi Dậu: Sergei Rachmanioff, ca sĩ Elton John, ca sĩ Dolly Parton, Gene Siskel, Hoàng tử Phillip, nhạc sĩ Quincy Jones, diễn viên hài Joan Rivers, Giáo hoàng Paul 4, Nhật hoàng Akihito, nữ minh tinh Katharine Hepburn.

    Tuổi Tuất: Tận tụy

    Có thể nói rằng chó là người bạn tốt nhất của loài người. Dễ hòa hợp, hay thỏa hiệp, trung thành, vô tư, loài chó luôn có mặt bất cứ khi nào bạn cần. Người tuổi Tuất là những người đáng tin cậy, luôn nghe lời, có thể trở thành nhà lãnh đạo tuyệt vời (dù đôi lúc thiếu kiên quyết). Trái với những gì bạn nghĩ, cần rất nhiều thời gian để xây dựng tình bạn với người tuổi Tuất. Trước tiên, họ sẽ xem xét xem bạn là người thế nào, quan sát, và chờ đợi. Bạn phải giành được cảm tình của họ. Nói chung, người tuổi Tuất khá khiêm tốn, ít quan tâm tới chuyện tiền nong. Mặc dù họ có thể dành cho bạn rất nhiều tình cảm và sự quan tâm vô điều kiện, nhưng khi bị chọc giận, họ có thể trở nên rất giận dữ, đúng hơn là vô cùng kinh khủng. Trong tất cả các con giáp Trung Hoa thì tuổi Tuất là tuổi dễ mến nhất.

    Những người nổi tiếng tuổi Tuất: Thủ tướng Anh Winston Churchill, ảo thuật gia Harry Houdini, ca sĩ Elvis Presley, ca sĩ Cher, nhà báo Bill Moyers, Kevin Bacon, nhạc sĩ George Gershwin, vận động viên quần vợt Andre Agassi, nam diễn viên Donald Sutherland, Tổng thống thứ 42 của Mỹ Bill Clinton.

    Tuổi Hợi: Chu đáo

    Điểm nổi bật của người tuổi Hợi là họ là những người dễ mến nhất trên trái đất này. Với trái tim vàng, họ rất trung thực, nhẫn nại, và luôn sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giúp bạn cảm thấy an toàn và thoải mái. Một người tuổi Hợi sẽ làm bạn với bạn cả đời. Nhưng người tuổi Hợi lại thường bị người khác thiếu quan tâm. Chỉ tới khi họ không còn ở bên bạn nữa thì bạn mới nhận ra rằng bạn phụ thuộc vào họ biết bao. Bản chất người tuổi Hợi khá ngây thơ, họ rất cả tin, và dễ dàng trở thành con mồi cho kẻ khác lừa lọc và lợi dụng. Tóm lại cả đàn ông và phụ nữ tuổi Hợi đều rất quan tâm tới người khác. Bởi vì quá nhiệt tình và hào phóng nên người tuổi Hợi không giàu có lắm. Tuy nhiên, họ đủ sống, họ là minh chứng cho câu nói: “Cho càng nhiều thì nhận cũng càng nhiều”.

    Những người nổi tiếng tuổi Hợi: trùm tội phạm Al Capone, Hoàng tử Rainier, tổng thống Mỹ Ronald Reagan, nữ minh tinh Lucille Ball, đạo diễn Woody Allen, đạo diễn Alfred Hitchcock, diễn viên Kevin Kline, diễn viên Billy Crytal, nam tài tử (thống đốc) Arnold Schwarzenegger, thượng nghị sĩ (Ngoại trường Hoa Kỳ) Hillary Clinton.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Tính cách con người qua 12 con giáp - Tử vi - Xem Tử Vi

    Thú vị với giấc mơ dọn dẹp nhà cửa

    Trong giấc chiêm bao, bạn thấy mình dọn dẹp, trang trí lại nhà cửa, đây là điềm tốt, dự báo bạn sẽ thành công trong công việc.
    Thú vị với giấc mơ dọn dẹp nhà cửa

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


    Thu vi voi giac mo don dep nha cua hinh anh
    Ảnh minh họa



    Mơ thấy dọn dẹp nhà cửa, dự báo sự nghiệp thành công và sẽ có thu nhập kinh tế.   Nếu bạn mơ thấy mình đang dọn dẹp nhà cửa là điềm lành, ngụ ý bạn sẽ được mọi người nể trọng.   Mơ thấy mình đang trang trí nhà bằng hoa tươi hay các vật dụng thủ công mỹ nghệ, cho thấy sự nghiệp của bạn sẽ thành công mỹ mãn.   Phu nữ đã kết hôn mơ thấy dọn dẹp nhà cửa, cho thấy người chồng của họ rất giỏi giang và biết cách tích lũy tài sản. Giấc mơ này còn dự báo gia đình bạn sẽ giàu có, hưng thịnh.   Nếu mơ thấy quét lá ngoài sân là điều ám chỉ rằng bạn đang buồn bã về những chuyện đã qua.   Mơ thấy quét mạng nhện trên nóc nhà là điềm lành, dự báo bạn sẽ có được thành công sau 1 quyết định táo bạo.   Mơ thấy quét lá cây trong vườn rộng là điềm ám chỉ bạn sẽ phải trải qua công việc khó nhọc nhưng khó thành.

    Theo Giấc mơ và vận mệnh con người trong cuộc sống

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Thú vị với giấc mơ dọn dẹp nhà cửa

    7 dấu hiệu khiến nhà gặp vận xui

    Chỉ 1 trong những dấu hiệu sau đây tồn tại trong nhà sẽ khiến gia đình bạn gặp nhiều điều không may mắn, làm giảm sự thịnh vượng.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Bạn cảm thấy không thoải mái và mệt mỏi vì cuộc sống gặp phải quá nhiều rắc rối? Bạn luôn cảm thấy mình thiếu may mắn? Vậy, đã bao giờ bạn nghĩ rằng tất cả những vấn đề này đều có liên quan đến phong thủy của ngôi nhà đang ở.

    Nhà đẹp xin chỉ ra một số dấu hiệu phổ biến, được đánh giá là không tốt lành nếu xuất hiện trong nhà. Bởi vì nó có thể khiến gia đình bạn gặp nhiều điều không may mắn, làm giảm sự thịnh vượng.

    Nhận biết rõ những dấu hiệu này để tạo ra những thay đổi phong thủy có lợi, giúp mang về tài lộc, thịnh vượng và sự giàu có cho gia đình!

     7 dau hieu khien nha gap van xui - 1

    Phong thủy của ngôi nhà có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của gia chủ.

    1. Mèo hoang xuất hiện trên mái nhà

    Theo phong thủy, mèo hoang xuất hiện trên mái nhà có nghĩa rằng gia đình bạn sẽ có người gặp phải tai nạn hoặc tử vong. Nếu mèo hoang xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau xung quanh/trong nhà cho thấy khu vực thờ cúng tâm linh không tốt, không ổn định nên bạn cần xem xét lại càng sớm càng tốt.

    2. Cá nuôi trong nhà đều bị chết

    Có rất nhiều người thích nuôi cá cảnh trong nhà như một giải pháp phong thủy, nhưng phải đặc biệt chú ý đến nó. Sẽ không có vấn đề gì nếu 1 hoặc 2 con cá bị chết. Tuy nhiên, nếu tất cả cá nuôi đều bị chết thì nó báo hiệu cho sự phá sản hoặc bệnh tật. Lúc này, tốt nhất bạn không nên tiếp tục nuôi cá vì không phải ai cũng hợp và có thể nuôi cá thành công.

     7 dau hieu khien nha gap van xui - 2

    Cá chết là dấu hiệu của phá sản và bệnh tật.

    3. Mặt trước bàn thờ tổ tiên chếch xuống đất

    Bàn thờ tổ tiên là một tín ngưỡng tâm linh truyền thống đẹp của các gia đình Việt Nam. Bạn nên chọn mua bàn thờ bằng phẳng, chắc chắn thay vì có quá nhiều đường cong, uốn lượn, vì loại bàn thờ này rất dễ trượt xuống dưới. Và nếu mặt trước của bàn thờ có xu hướng chếch xuống đất, nó đại diện cho sự thất thoát tiền bạc và của cải trong nhà.

    4. Tường phòng thờ bị nứt

    Các bức tường trong phòng thờ, hoặc bức tường kê bàn thờ bị nứt là một dấu hiệu rất xấu. Điều này cho thấy các thành viên trong gia đình có thể bị ốm, bệnh tật hoặc bị tai nạn. Do đó, bạn phải nhanh chóng sửa chữa các bức tưởng để duy trì sức khỏe và sự an toàn cho bản thân cũng như mọi người.

     7 dau hieu khien nha gap van xui - 3

    Không gian thờ cúng phải được chăm sóc kỹ càng, chú tâm đến kiểu dáng và vị trí bàn thờ.

    5. Chuột sống trong nhà

    Ngôi nhà của bạn có thể thiếu vệ sinh nên lũ chuột mới tìm đến để sinh sống. Chúng sẽ mang tới sự ô uế, làm xáo trộn và gây bất an cho con người nếu ẩn náu lâu dài trong nhà. Bạn phải tiêu diệt hết lũ chuột ra khỏi không gian sống một cách nhanh chóng và dứt khoát.

    6. Mạng nhện giăng khắp nhà

    Thông thường, sự xuất hiện của mạng nhện nói lên rằng ngôi nhà của bạn luôn luôn bẩn thỉu, ô uế và bụi bặm. Và nếu bạn không có kế hoạch làm sạch mạng nhện quanh nhà mà chấp nhận sống chung với nó thì sẽ phải chịu đựng ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.

     7 dau hieu khien nha gap van xui - 4

    Giữ vệ sinh nhà cửa là cách tốt nhất để ngăn chặn sự xuất hiện của chuột, mạng nhện nhằm bảo vệ sức khỏe cho gia chủ.

    7. Cây cảnh và hoa tươi bị khô héo/chết

    Cây cảnh và hoa tươi là một yếu tố trang trí nhà cửa rất được con người yêu thích. Trường hợp một vài chiếc lá bị khô héo sẽ không có gì to tát khiến bạn phải bận tâm. Dù vậy, một khi toàn bộ cây cảnh và hoa tươi đều bị khô héo hoặc bị chết thì nó biểu hiện cho điều xui xẻo sắp tới, điển hình như việc kiện tụng, tranh chấp, cãi cọ.

    Lúc này, bạn cần thay mới những cây và hoa bị khô héo/bị chết bằng cây mới tươi tốt. Với những ai không có nhiều thời gian cho việc chăm sóc cây cối thì hãy chọn những loại cây có sức sống mãnh liệt, dễ sống như cây dương xỉ, hoa lan ý, cây lưỡi hổ, hoa đá... để trồng tại nhà.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: 7 dấu hiệu khiến nhà gặp vận xui

    Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

    + Điềukiện về tính chất:
    Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    –      lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá ... –      phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình. –      ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.
    + Điều kiện về sao: –      nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) ... –      phải có sao đa phu, đa thê –      phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang –      phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo
    + Điều kiện về cung: –      sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc. –      sao tình dục phải có ở cung Phu Thê –      sao tình dục phải có ở cung Nô, Di –      nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó –      cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ
    + Điều kiện thuộc hoàn cảnh: –      lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không –      nếp sống đương số có sa đọa hay không; –      cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.
    + Những dè dặt cần thiết: –      sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng; –      lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử; –      gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt; –      gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.
    g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân. Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có: –      cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung; –      cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm; –      cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc; –      cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ; –      cung Tử có những sao chỉ con dị bào; –      lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau; –      cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở); –      cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số; –      có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di; –      thiếu sao giải mạnh và nhiều
    Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:
    - Những bộ sao của Tử Vi: Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu: Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ. Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.
    - Những bộ sao của Liêm Trinh: Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo. Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên. Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù. Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.
    - Những bộ sao của Thiên Đồng: Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly. Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ. Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.
    - Những bộ sao của Vũ Khúc: Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly. Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.
    - Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm: Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở. Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên. Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.
    - Những bộ sao của Thiên Cơ: Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng. Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.
    - Những bộ sao của Tham Lang: Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời. Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.
    - Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.
    - Những bộ sao của Thiên Tướng: Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át. Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.
    - Những bộ sao của Thất Sát: Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly. Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.
    - Những bộ sao của Phá Quân: Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình. Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình. Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.
    - Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu Thê: Tuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những sao Thiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.
    - Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.
    - Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên  có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.
    - Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có "mạ lỵ thậm từ" và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.
    - Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ ...
    h. Trường hợp tử biệt: –      cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh; –      cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ; –      số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên; –      những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người; –      có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên; –      có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.
    i. Tình trạng án mạng trong gia đạo: –      một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng. –      cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình; –      xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào ... –      xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo ... –      xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó; –      sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;
    –      cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê ...

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

    Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Tý

    So với năm 2014, vận thế người tuổi Tý trong năm nay bình ổn hơn, nhưng chỉ ở mức bình thường. Đặc biệt, cần lưu ý các mối quan hệ xã giao, tránh gây hiềm khíc
    Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Tý

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    So với năm 2014, vận thế người tuổi Tý trong năm nay bình ổn hơn, nhưng chỉ ở mức bình thường.

     

    Tổng quan


    Những người tuổi Tý sinh các năm 1936, 1948, 1960, 1972, 1984, 1996 và 2008. Năm 2014 gặp xung Thái Tuế, năm 2015 lại gặp hại Thái Tuế nên vận thế người tuổi Tý không thuận lợi. Đặc biệt, cần lưu ý các mối quan hệ xã giao, tránh gây hiềm khích hoặc bị kẻ tiểu nhân lợi dụng. Nhiều khả năng trong năm nay người tuổi Tý sẽ đi làm ở nơi xa hoặc ở nước ngoài. 

    Van the nam At Mui cua nguoi tuoi Ty hinh anh
    Vận thế năm 2015 của người tuổi Tý

    Tài vận


    Trong năm Ất Mùi, người tuổi Tý nên tích lũy nhiều hơn khoản chi tiêu, hạn chế tiêu tiền vào tháng 2, 5 và 8. Đến tháng 6 và 10 năm nay có thể tiến hành đầu tư, nhưng phải hết sức cẩn trọng. Thu nhập trong năm 2015 của người tuổi Tý ổn định, không tăng nhưng có thể giảm sút nếu không biết chi tiêu tiết kiệm. 
     

    Sự nghiệp


    Áp lực công việc ngày một nhiều, nhưng nếu người tuổi Tý không chùn bước, nhất định sẽ được đề bạt thăng tiến vào những tháng cuối năm. Trong năm Ất Mùi, bạn chỉ nên tập trung vào những việc của mình được giao, tránh quản chuyện bao đồng, vừa mất thời gian lại dễ vướng vào rắc rối thị phi.
     

    Tình duyên


    Xét về tổng thể tử vi năm, tình cảm hôn nhân của người tuổi Tý trong năm 2015 bình ổn và thuận lợi hơn. Mối quan hệ giữa bạn và nửa kia cũng được củng cố và hòa hợp. Bắt đầu từ tháng 8, tình duyên của bạn càng khởi sắc. Tuy nhiên, không nên dành quá nhiều thời gian mê muội yêu đương, tránh bị đối phương lừa dối hoặc làm tổn thương.

    Sức khỏe


    Cả năm 2015, sức khỏe người tuổi Tý bình thường, dễ mắc bệnh khi chuyển giao mùa và các bệnh về hệ tiêu hóa, bài tiết. Bạn nên tăng cường luyện tập thể thao để nâng cao sức khỏe và tinh thần.
     

    Cách hóa giải


    Người tuổi Tý nên bài trí tượng Phật Quan âm nghìn tay (vị thần độ trì bản mệnh) trong nhà. Sử dụng các món đồ trang sức màu đỏ và tím như mã não đỏ, ngọc phong thủy, thạch anh tím…để hóa giải sát khí, tăng may mắn.

    Các bài viết cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
    Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tuổi Tý hợp với tuổi nào trong tình yêu, hôn nhân
    ST 
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Tý

    Những "sai lầm" cơ bản trong phong thủy nhà ở

    Ngoài yếu tố thẩm mỹ thì phong thủy cũng là điều quan trọng mà gia chủ cần chú ý khi thiết kế, xây dựng nhà ở.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tuy nhiên hiện nay, nhiều gia đình xây dựng và thiết kế nội thất dựa trên công năng, tiện ích sinh hoạt và yếu tố thẩm mỹ mà chưa chú trọng đến phong thủy, trong khi đó lại là một yếu tố quan trọng để tăng chất lượng cuộc sống.

    Dưới đây là 1 vài những lỗi phong thủy phổ biến nhất mà nhiều gia đình không chú ý tới.

    Thứ nhất, phòng khách là không gian sinh hoạt chính của cả gia đình.

    Đây là khu vực cần tụ dương khí nên có những yêu cầu cơ bản như nên bố trí ở tầng một hoặc nửa trước căn nhà, không gian sáng sủa, lối đi thông thoáng, hạn chế ngóc ngách.

    Thực tế khảo sát nhiều căn nhà cho thấy một số lỗi hay phạm cơ bản là xà ngang chạy qua phòng khách, tạo ra sát khí xấu từ trên xuống, trần thấp gây cảm giác bức bối, chật chội, không phát triển.

    Một sai phạm phổ biến khác là không chú ý đến vị trí hay hướng đặt giường.

    Đầu giường cũng phải có chỗ dựa nhưng không nên dựa vào bếp, nhà vệ sinh vì đó là nơi trường khí thấp, không ổn định, dễ gây đau đầu, mệt mỏi, trầm cảm, mất ngủ, hay ngủ mê... Đầu giường tránh dựa vào cửa, hay quay ra cửa.

    Kích thước và số lượng cửa nên hài hòa với tổng thể căn nhà

    Thứ hai, cổng, cửa chính, cửa sổ, nơi lấy sáng... là nơi đón khí chính vào trong nhà, cũng được ví với nơi đón tài lộc, do đó cần thông thoáng, sạch sẽ. Kích thước và số lượng phải hài hòa với tổng thể căn nhà.

    Các sai phạm thường gặp như: Cửa chính đối diện cửa sau làm không tụ khí, trong phong thủy được coi như không tụ tài lộc, dễ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

    Cửa đón khí đối diện cửa nhà vệ sinh thì khí đối kháng nhau tác động xấu đến sức khỏe. Cửa đón khí đối diện cửa bếp hay cầu thang, trong phong thủy coi đây là những nơi nạp tài khí sẽ thất thoát tài khí, mất của cải.

    Thứ ba, hầu hết mọi người đều treo gương bát quái trước cửa để bảo vệ ngôi nhà. Tuy vậy, ít người để ý đến việc dùng gương lõm, lồi hay phẳng.

    Sử dụng sai loại gương bát quái, thậm chí còn làm sát khí lung tung, ảnh hưởng cuộc sống của gia đình và hàng xóm xung quanh.

    Thứ tư, bếp là nơi liên quan đến sức khỏe, tình cảm, tài lộc nên cần có không gian thoáng, xa phòng ngủ, xa cửa chính.

    Các sai phạm thường gặp như: Đối diện nước (chậu rửa, tủ lạnh, nhà vệ sinh) thì nước - lửa tương xung gây bất hòa, sức khỏe kém. Bếp hướng ra cửa, đối xung khí làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tài lộc.

    Bếp đặt giữa nhà, nơi phòng kín sẽ không thoát khí, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Không ít căn hộ chung cư thiết kế bếp giữa nhà, lại dựa ngay vào WC, làm trường khí bất ổn, thủy - hỏa tương xung, không có lợi cho các thành viên trong gia đình.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Những "sai lầm" cơ bản trong phong thủy nhà ở

    Quan niệm “Văn xương” trong bát trạch- Vị trí cầu danh

    Văn khúc xuống trần ở đâu đó, muốn con thành rồng thì tìm Văn xương. Cổ nhân có câu” Sao văn khúc xuống trần” để nói về những thư sinh nổi tiếng tài hoa. Rõ ràng sao Văn khúc cùng văn chương, cho đến khoa cử đã kết thành khối duyên gắn bó không rời.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Sao Văn khúc còn gọi là Văn xương Đế quân. Theo truyền thuyết rằng Ngọc Hoàng thượng đế lệnh cho “Tử đồng đế” chăm lo Phủ Văn xương, cai quản công danh lợi lộc dưới trần gian. Xuất hiện nhiều miếu thờ và cả bài vị Văn xương đế quân thờ cúng tại gia – Với mục đích cầu khấn ngài phù hộ độ trì người trí thức đỗ đạt, giành được công danh phú quý.

    Văn Xương Đế Quân vốn sinh đầu đời Chu, đã trải 73 kiếp hoá thân, từng là sĩ đại phu, cuối đời Tây Tấn ngài giáng sinh nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương phủ và lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian.

    Vị trí của Văn xương trong phong thủy là quan niệm trường khí tốt, có thể bổ trợ nâng cao sức học, sức nghiên cứu của cá nhân con người.

    Hiện nay, đại bộ phận những người nghiên cứu và ứng dụng phong thủy đều dừng lại ở Vị trí Đông bắc nói chung gọi là cung học vấn!

    Thực tế: Ngôi Văn xương trong quan niệm của phái phong thủy Bát trạch cũng tương đồng với Phái Huyền không phi tinh chính là vị trí “Sinh Khí” của trạch quái.

    Bảng kê vị trí Văn xương bát trạch

    Sau khi xác định được vị trí văn xương, có thể chọn ngày giờ tốt để kê bàn học, giá sách, các vật khí phong thủy như Tháp Văn xương… nhằm phát triển trí lực, mong có thành tích tốt về học tập, công danh.

    Có điều, các bậc cha mẹ lưu ý; trường khí tốt chỉ là một phần giúp học trò, còn nhiều năng lượng khác như tuổi kết hôn của cha mẹ, năm sinh tháng đẻ hay gọi là Tứ trụ của học trò… tác động đến trí tuệ của người. Thiên thời địa lợi nhân hòa, Mong các bậc cha mẹ học sinh đừng lơi lỏng đôn đốc con em, vẫn phải khắc khổ đào luyện, cần mẫn nỗ lực mới có công danh, trở thành nhân tài có ích cho xã hội

    Haiyoga biên tập
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Quan niệm “Văn xương” trong bát trạch- Vị trí cầu danh

    Tật xấu khiến người yêu phát hoảng của 12 chòm sao nữ

    Tật xấu của 12 chòm sao nữ khi yêu khiến các chàng vô cùng đau đầu và đau lòng. Nhưng con gái mà, để yêu chứ không phải để hiể, hãy thông cảm cho họ nhé.
    Tật xấu khiến người yêu phát hoảng của 12 chòm sao nữ

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tật xấu của 12 chòm sao nữ khi yêu khiến các chàng vô cùng đau đầu và đau lòng. Nhưng con gái mà, để yêu chứ không phải để hiểu, hãy thông cảm cho họ nhé.


    Boc me tat xau khien nguoi yeu phat hoang cua 12 chom sao nu hinh anh
     
    Bạch Dương: trẻ con 
     
    Cô nàng Bạch Dương tính trẻ con lắm nên động vút chuyện là hơn ngay, thậm chí còn nổi đóa lên cơ.
     
    Kim Ngưu: kiểm soát 
     
    “Một bước không đi, một li không rời”, người yêu của Kim Ngưu cứ chuẩn bị tinh thần mà nói lời tạm biệt với tự do đi nhé.
     
    Song Tử: thất thường
     
    Tính “đồng bóng” của con gái Song Tử thì nổi tiếng rồi, nàng ấy thoắt vui thoắt giận, không cần lý do.
     
    Cự Giải: ghen tuông
     
    Nàng Cự Giải vừa nhạy cảm vừa muốn cảm giác an toàn, nên rất hay lo nghĩ xa xôi, thành ra hay ghen.
     
    Sư Tử: độc đoán
     
    Không bao giờ được trái ý “nữ vương” là điều nhất thiết phải nhớ khi yêu Sư Tử.
     
    Xử Nữ: khó tính
     
    Tật xấu của chòm sao Xử Nữ là quản lý người yêu không khác gì một bà mẹ. Tỉ mỉ, kĩ lưỡng đến phát mệt.
     
    Thiên Bình: đắn đo
     
    Cần thật nhiều, thật nhiều thời gian để Thiên Bình tin tưởng người yêu. Cô ấy quá do dự và đôi khi sợ hãi.
     
    Thiên Yết: suy diễn
     
    Chuyện bé xé ra to, chuyện nhỏ hóa thành lớn là thói xấu của nàng Thiên Yết khi yêu.
     
    Nhân Mã: vô tư
     
    Có người yêu rồi mà Nhân Mã vẫn hồn nhiên chơi đùa với các bạn nam khác khiến đối phương chẳng thoải mái chút nào.
     
    Ma Kết: đòi hỏi cao 
     
    Nhất thiết phải là điều tốt nhất, Ma Kết gây áp lực lớn với đối phương, nhất là ở phương diện sự nghiệp.
     
    Thủy Bình: chủ quan 
     
    Cô nàng Thủy Bình lại có cái tính “ngơ ngơ”, tưởng yêu rồi là ngó lơ bạn ấy khiến người ta buồn.
     
    Song Ngư: nhõng nhẽo
     
    Song Ngư là chòm sao nữ cực kì nhõng nhẽo, chuyện gì cũng cần người yêu ở bên an ủi, chia sẻ hoặc đôi khi chẳng để làm gì, nhưng nhất thiết phải bên cạnh.

    Theo Mật ngữ 12 chòm sao
     
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Tật xấu khiến người yêu phát hoảng của 12 chòm sao nữ

    Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé

    Tết đến xuân về là thời khắc mọi người quây quần bên nhau, bên cạnh những phong bao lì xì là những bài thơ chúc tết mà các bé chúc ông bà, cô bác. Với những bài thơ ngắn, âm điệu hài hòa dễ đọc dễ nhớ, các bậc bố mẹ nên dạy cho con cháu trong gia đình.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tết đến xuân về là thời khắc mọi người quây quần bên nhau, bên cạnh những phong bao lì xì là những bài thơ chúc tết mà các bé chúc ông bà, cô bác. Các bạn cùng tham khảo để dạy cho con em của mình nhé.

    Dưới đây là những bài thơ chúc tết hay nhất mà Phong thủy số tổng hợp được từ nhiều nguồn. Với những bài thơ ngắn, âm điệu hài hòa dễ đọc dễ nhớ, các bậc bố mẹ nên dạy cho con cháu trong gia đình. Vừa giúp bé thể hiện được mình, tạo điều kiện cho các bé tiếp xúc nhiều hơn với mọi người, biết ơn người lớn tuổi.

    Xem thêm:

    + Xem tử vi 2017 nói gì về bạn

    + Xem tuổi xông đất hợp với gia chủ

    Bài thơ chúc tết số 1:

    Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé

     

    Bài thơ chúc tết số 2:

    Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé 


    Thơ chúc Tết ông bà, bố mẹ người thân

    Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé



    Thơ chúc Tết: Bình an – an khang – tài lôc – vinh quang

    Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé


    Năm mới đang tới gần hơn bao giờ hết, hãy dành tặng ông bà hay những người thân yêu của bạn những lời chúc tết ý nghĩa này nhé. Ngoài ra, hay cùng với bé nhà bạn tìm hiểu về Nguồn gốc tết cổ truyền Việt Nam cũng như các phong tục ngày Tết.

     

    : Những lời chúc năm mới hay Thơ chúcTết người yêu Thơ chúc xuân hay Tết 2017 Những lời chúc mừng năm mới hay Những câu chúc mừng năm mới
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé

    Nên mở cửa hàng ở nơi tập trung nhiều người đi lại –

    Lưu lượng khách đi lại đông là điều tốt để kinh doanh. Bán hàng cần phải đông người thì mới nhộn nhịp, mới hình thành thanh thế. Doanh nghiệp thu hút doanh nghiệp, khách hàng thu hút khách hàng, buôn bán cần mọi người cùng làm thì mới có thể trở thàn

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    h cảnh tượng phồn hoa. Đây là nguyên nhân hình thành ra các phố chuyên bán một loại hàng hóa.

    SONY DSC

    Nhưng kinh nghiệm không phải là thứ tuyệt đối, bất cứ sự vật nào cùng không thể máy móc cứng nhắc được. Các chuyên gia phân tích rằng: Chỉ những hàng tiêu dùng bền đẹp được khách hàng ưa thích, sau khi so sánh kỹ càng họ mới mua như đồ điện gia dụng, dụng cụ gia đình, máy vi tính, đồ trang sức, thời trang, đồ cổ… Những thứ hàng hóa trên thích hợp cho kinh doanh bán hàng tập trung. Còn hàng hóa dùng cho sinh hoạt hàng ngày, sử dụng với tần suất cao lại không thích hợp với kiểu kinh doanh tập trung.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Nên mở cửa hàng ở nơi tập trung nhiều người đi lại –

    Tình duyên của người tuổi Dần nhóm máu B

    Người tuổi Dần thuộc nhóm máu B thường rất đa tình. Trái tim họ vẫn thường
    Tình duyên của người tuổi Dần nhóm máu B

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    "loạn nhịp" khi đứng trước người khác giới.

     
    Tuoi Dan (7)
     

    Đa số những người tuổi Dần thuộc nhóm máu B thường không coi trọng hình thức kết hôn. Họ cho rằng, việc hai người thực lòng yêu thương nhau và muốn gắn bó với nhau mới là điều quan trọng. Chính vì điều này nên khi tìm được "một nửa" của mình, họ rất bình tĩnh, cẩn trọng suy xét kỹ càng trước khi quyết định tiến xa hơn nữa.

    Những người tuổi Mão hoặc Tỵ sẽ khá hợp với tuổi Dần bởi hai tuổi này có thể phát huy những ưu điểm hạn chế nhược điểm để cùng nhau mang lại hạnh phúc trong cuộc sống và thành công trong sự nghiệp.

    Vì tình yêu, họ sẵn sàng bỏ qua mọi lời khuyên của người thân hay những dư luận xã hội.

    Mặc dù đã có cuộc sống gia đình ổn định song một số người tuổi Dần vẫn có thể nảy sinh mối quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân. Do vậy, "nửa kia" của họ cần phải hết sức bình tĩnh, biết cảm thông tha thứ và bỏ qua lỗi lầm thì gia đình sẽ tránh khỏi sóng gió.

     (Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

     

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Dần nhóm máu B

    Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

    Vị trí đầu bảng thuộc về tuổi Tý, tiếp theo là tuổi Dần, Thìn, Tỵ và Hợi.
    Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Quán quân: Tuổi Tý

    Người tuổi Tý giỏi xã giao nhưng lại khá ích kỷ, luôn coi bản thân mình là nhất, mọi người hoặc những thứ khác chỉ là điều thứ yếu.

    tuoi-ty-6087-1400021785.jpg

    Hơn thế, người tuổi này rất giỏi "diễn xuất", trước mặt mọi người ra vẻ là anh hùng hiệp nghĩa, nếu không động chạm đến lợi ích cá nhân thì sẵn sàng giúp đỡ người khác. Để biết được con người thật của tuổi Tý, chỉ có căn cứ vào những thời khắc thực sự quan trọng, bản tính của họ sẽ lộ rõ như ban ngày mà thôi.

    Á quân: Tuổi Dần

    Người tuổi Dần thường cho rằng sinh mạng bản thân mới là điều đáng quý nhất, vì thế yêu bản thân mình là điều tất nhiên, không có gì phải che giấu. Vậy nên, họ hiếm khi biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ mà chỉ quan tâm đến cảm xúc của mình thế nào mà thôi.

    tuoi-dan-6294-1400021786.jpg

    Nói như vậy không có nghĩa là người tuổi Dần không biết yêu hay quý trọng người khác. Họ sẽ dành tình cảm chân thành của mình cho người mình yêu, chỉ có điều, tình cảm ấy cũng chỉ đứng sau tình yêu bản thân của họ.

    No3: Tuổi Thìn

    Vốn tính kiêu ngạo, luôn nghĩ rằng bản thân mình là độc nhất vô nhị trên cõi đời này, nên việc yêu bản thân mình đối với người tuổi Thìn là điều tất nhiên.

    tuoi-thin-8665-1400021786.jpg

    Ngoài ra, người tuổi này có bộ não thông minh, con mắt tinh tường và khả năng xử lý tình huống nhạy bén. Họ thường coi đó là điểm đáng tự hào và kiêu ngạo trước mặt mọi người.

    No4: Tuổi Tỵ

    Trong 12 con giáp, người tuổi Tỵ thường mang lại cảm giác bí ẩn, khó tính và khó gần cho mọi người. Họ rất chăm chút cho bản thân, sống có phần hơi ích kỷ và có thể lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình miễn sao không làm tổn hại đến lợi ích của họ.

    tuoi-ti-7656-1400021786.jpg

    Người tuổi Tỵ thích cảm giác độc quyền sở hữu thứ gì đó, không muốn phải "đụng hàng" với bất kỳ ai. Họ thường đưa ra lý do để giải thích cho việc chỉ yêu bản thân mình, đó là phải biết yêu chính mình thì mới có tư cách để yêu người khác.

    No5: Tuổi Hợi

    Người tuổi Hợi tính tình điềm tĩnh, hài hòa, thích làm việc nhẹ nhàng vì khá lười nhác. Với họ, việc ăn uống, ngủ nghỉ là vấn đề quan tâm hàng đầu, vì có như vậy mới đảm bảo sức khỏe và quý trọng bản thân cũng như cuộc sống của chính mình.

    47b3d92b-e639-4cea-b4eb-0265ae-6775-1598

    Ấn tượng để lại trong mắt mọi người là tuổi Hợi theo chủ nghĩa vật chất, chứ thế giới nội tâm và tinh thần khá nông cạn, không nhạy bén hay sâu sắc. Vậy nên, khi nghe thấy lời nói xấu hoặc chê bai, họ vẫn có thể mỉm cười, lạc quan nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ qua hết.

    Mr.Bull

    64364e9325c34654b43ed043349ae9-3979-7142

    Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

    Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

    Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

    Một bài viết hay trình bày về bốn mươi hóa diệu của Trung Châu Phái rất hay! Mời các bạn cùng nghiên cứu.
    Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tứ Hóa là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, chúng căn cứ vào thiên can mà phi hóa, bốn hóa tinh này không tự thành sao được, mà phải dựa vào sao khác để biểu thị. Đây là nhân tố quan trọng để luận đoán cát - hung.

    Khẩu quyết an tứ Hóa của Trung Châu phái

    Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Tử Âm

    Bính Đồng Cơ Xương Liêm, Đinh Âm Đồng Cơ Cự

    Mậu Tham Âm Dương Cơ, Kỷ Vũ Tham Lương Khúc

    Canh Dương Vũ Phủ Đồng, Tân Cự Dương Khúc Xương

    Nhâm Lương Vi Phủ Vũ, Quý Phá Cự Âm Tham

    1- Liêm trinh - can Giáp hóa Lộc

    Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn vật chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu tiêu sài, lấy mức sống cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần, tất nhiên sẽ không keo kiệt.

    Nhìn bề ngoài, Liêm trinh thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra bản chất khác nhau. Sự tiêu xài của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc, còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc "phong hoa tuyết nguyệt", tính chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và cảm tính.

    Liêm trinh thường có sắc thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc, cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết phái,.v.v...

    Lúc Liêm trinh hóa Lộc, lại gặp các sao Hung - Sát - Hình, sẽ chủ về tửu sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng chẳng thu hoạch được gì, mà trong công việc làm ăn, còn bị rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các sao đào hoa, thường thường sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc gặp đào hoa, mà không có các sao Sát - Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng gió, mà được hiến thân hoặc đắc tài lộc.

    Liêm trinh hóa Kị ở nguyên cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài (như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc,.v.v...), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh phúc.

    Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó, nhưng lại thường kiêm nhiệm trọng trách và nắm giữ quyền hành

    Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.

    Tinh hệ "Liêm trinh Thất sát" có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc Hợi, thanh thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn "Liêm trinh Thiên tướng". Đối cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có "Tử vi Tham lang" chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ tài lộc rồi dào hơn tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng". Đà la thì sinh lần nữa, nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với cung Nô là Thái dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh "Liêm trinh Thiên tướng" thì lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp, tranh chấp, cho đến âm mưu...

    Liêm trinh độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc tồn cùng bay đến hoặc vây chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc" trong đó Vũ khúc hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm trinh đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt. Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung Huynh đệ, chủ về người dưới quyền nhiều mà không ổn định.

    Tinh hệ "LIêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung, hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi, cung Quan là tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" mà Vũ khúc hóa Khoa, càng làm mạnh thêm tài vận của "Liêm trinh Phá quân", cung Tài là tinh hệ "Tử vi Thất sát" cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối cung Mệnh là Thiên tướng tại Mão, bị "Cự môn Thái dương" có Thái dương hóa Kị, và Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến "Liêm trinh Phá quân" cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân tố chắc trở của cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ ở cung Phúc (Tị Hợi) hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình - Kị giáp cung, chủ về khó giữ được sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành tựu đã đạt được mới cát lợi.

    Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài cung là Tử vi độc tọa. Tính chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.

    Tinh hệ này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối cũng tốt hơn nửa năm đầu. Đây là vì "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung "thiên la địa võng", cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ từ.

    Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của người phối ngẫu.

    Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi, cung Quan có "Vũ khúc Thất sát" hóa Khoa, cung Tài là "Tử vi Phá quân" hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải tự lập. Cho nên ở đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục.

    Kết cấu tinh hệ này thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Đà la, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh hoặc cung Phúc có các sao "đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ vẫn còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung Nô (cung giao hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.

    2- Thiên Cơ - can Ất hóa Lộc

    Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén. Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ "chủ động" tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp, vì vậy mà được lợi ích.

    Nhưng mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim chứa phách) khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ, cho nên vẫn bị giới hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp và tiền bạc. Thiên cơ hóa Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến lược, chủ về kế hoạch, thiết kế, hoặc làm công việc đi đây đi đó cho người khác (như làm môi giới, thuyết khách,...)

    Do bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này trong núi nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng thời lưu ý các sao ở cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải có tính chất ổn định và có lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao thuộc loại không ổn định mà còn mang tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh, khiến thành tựu của người này bị nhiều hạn chế.

    "Tiền tài" của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung điền trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu không phải xem cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay không.

    Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn, cung Tài là tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" có Thiên lương hóa Quyền (can Ất), cung Quan là Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương (Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc, nhưng "Thiên đồng Thiên lương" lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ có thể thành tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung lạc dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà người có nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu ý.

    Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương hóa Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng thì đối xung với Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền, mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha lãng phí, chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc, thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá cao, hoặc làm môi giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể phát huy.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay đến, hoặc bị Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp với Thiên lương độc tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà. Nhóm tinh hệ này cũng là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo "tìm cát tránh hung" là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước mắt, và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được "nhân hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ hóa Lộc, lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất vượng, cung Tài có Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn "Thái dương Thái âm" an cung có Thái âm hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới,.v.v... Nếu có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng bá.

    Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu tư hay đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì "Thái dương Thái âm" hiếu động, trôi nổi, mà Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước khi đầu tư.

    Thiên đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay trắng làm nên, nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến tranh chấp, gặp trở lực.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình dương Đà la cùng chiếu. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn" an cung hội hợp, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" mà Thái âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này, cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện. Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó phát huy. Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt, không được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)

    Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa Kị, cung Tài là "Thiên đồng Cự môn". Cung Quan mượn "Thái dương Thiên lương" an cung hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ phí tâm lực, hoặc phí lời nói.

    Thiên cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất, hoặc nhận lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở.

    Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội hợp, lại có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều, mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị phi phiền nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.

    3- Thiên Đồng - can Bính hóa Lộc

    Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc không những chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.

    Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong nhã, dễ mê đắm trong "thanh vận thơ phú" hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại.

    Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.

    Thiên Đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên có cách "phản bối" và "Mã đầu đới kiếm". Dù không thành Cách, nhưng có gặp một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất vả, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.

    Sau khi hóa Lộc, Thiên Đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng không cần có sát tinh kích phát).

    Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc, hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Quan (ở Thìn hoặc Tuất) mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thái dương Cư môn" an cung (ở Dần hoặc Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên,.v.v...), hoặc viên chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ hội.

    Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên Đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng ở cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (tại Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" an cung (ở Mão hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với "Thiên đồng Cự môn", chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc "sao lẻ" phụ tá (nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ. Cung Quan là Thiên cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp với công tác kế hoạch tài vụ, tài chính, kinh tế, vặch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức (??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất), có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích tán gẫu, lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa, thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả. Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản chất của "Thiên đồng Thiên lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự vinh dự của bản thân.

    Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương, chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với Thiên tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền phức.

    Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ. Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La, thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát", nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng, hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.

    Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn, hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp", thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn "Thái dương thái âm" nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì "Lộc trùng điệp", tuy có "phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). "Thiên cơ Cự môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác "trống vắng dưới trăng trước hoa".

    4- Thái Âm - can Đinh hóa Lộc

    Thái Âm là sao tiền tài, đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động kiếm tiền, thiếu "sức" cạnh tranh. Có thể giàu có hay không, vẫn cần phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc đại vận có "tài khí" dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc cũng bình thường mà thôi.

    Hơn nữa, lúc Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở cung Phúc, mà cung Phúc gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn luôn đối nhau). Thái Âm vốn có "khí chất" dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh chấp, tâm tình âu lo tính toán thái quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại còn do không giỏi tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ gặp nhiều cảnh ngộ đáng tiếc.

    Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận. Do ở đại vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại ý.

    Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác sung sướng về tâm lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài lộc dồi dào. Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về những bất lợi đối với lục thân.

    Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên hoặc đại hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá tài.

    Thái Âm hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại hạn, chỉ cần không bị dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một cách thuận lợi trong bối cảnh rối ren thị phi.

    Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú trọng vấn đề tình cảm. Nếu không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về tình cảm, thì hậu quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế, nhưng lại có một thiên tình sử để nhớ!!!

    Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, như vậy là "sao Lộc" nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng. Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có "Thiên cơ Cự môn" mà Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về vất vả, còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề tình cảm ra, thì còn có điều tiếng thị phi.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái âm hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm tinh hệ này tài lộc không vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền cũng nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm mà thôi.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng điệp. Cung quan là Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm???]. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu có. Cung Quan là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách "Lộc trùng điệp" rất thích hợp với giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng,.v.v... nếu làm việc trong chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở "thiên la địa võng" nên nội tâm thường không được yên ổn.

    Thái Âm độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình Dương hay Đà La. Cung Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa (ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa Lộc và Thiên đồng hóa Quyền đối nhau, gọi là "Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người, nhưng mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng thích hợp làm những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở cung Tị.

    Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại trùng điệp hội Lộc tồn, mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với cung Thìn. Cung Quan là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự môn hóa Kị. Ở "tam phương tứ chính" có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm nghề bán lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay những nghề có sắc thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không được yên ổn, dễ chuốc điều tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực "quan phi", hôn nhân cũng thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà thôi.

    Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa Khoa, mệnh ở cung Hợi tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn ba vất vả, không ổn định để theo giữ một nghề. Cung Quan là "Thái dương Thiên lương" được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược, công tác xã hội,, gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo hiểm. Cung Tài là "Thiên đồng Cự môn" một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình cảm cũng là khuyết điểm của tinh hệ này.

    5- Tham Lang - can Mậu hóa Lộc

    Bản chất của Tham Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý nghĩa của ham muốn vật chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có thể nhờ thù tạc mà phát triển sự nghiệp, từ đó kiếm tiền.

    Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần chú ý xem vận hạn có thích hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội chiếu, thì không nên đầu cơ.

    Tham lang hóa Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất và sắc dục đều nặng. Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá tài.

    Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc không chỉ vì thù tạc trong công việc, mà còn vì giao du với bạn xấu.

    Tham lang hóa Lộc thành cách "Hỏa Tham", "Linh Tham", ắt sẽ có khoảng tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ thất bại. Vì vậy không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất ngờ.

    Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là Thất sát. Trong hai cung Tý Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị "phiếm thủy đào hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt hơn và là cách "Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc, mà ở cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài, ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị ở cung Nô, hội chiếu cung Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực.

    Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" hội hợp với Lộc tồn, khí thế bàng bạc. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu, thì "Lộc trùng điệp", nên an Mệnh ở cung Sửu thì "tài khí" ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường, nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ sót trong việc giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp lang, thường xảy ra tệ "có người thì làm việc đoàng hoàng, không có người thì nghỉ".

    Tham lang thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này Tham lang hóa Lộc đều có khuyết điểm, dễ "bạo phát bạo tàn". Cho nên ở đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách "Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn còn cục diện để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất sát, vì vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí, vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.

    Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực "xung kích", sức cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp, người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là "Liêm trinh Thất sát", cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của "Tử vi Tham lang". "Vũ khúc Phá quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối với người khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người hợp tác hay người dưới quyền xâm phạm.

    Tham lang thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Thìn ắt sẽ đồng độ với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa thuật ở trên, thì tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng đối với nữ mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.

    Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Lộc, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là "Tử vi Phá quân" không chủ về tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là "Vũ khúc Thất sát", tam phương tứ chính có đào hoa trung trùng, rất thích hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng thụ. "Vũ khúc Thất sát" ở cung Dậu có thể theo nghề ảm thực. Có điều nếu gặp các sao khoa văn hội hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ sản,.v.v...

    6- Vũ khúc - can Kỷ hóa Lộc

    Vũ khúc là sao tiền tài, còn chủ về hành động, nên ưa hóa Lộc. Vì chủ về hành động, tất nhiên dễ tạo dựng sự nghiệp, hơn nữa sự nghiệp càng lớn thì tài lộc càng dồi dào. Nếu muốn tính toán tài phú của người này, không thể chỉ nhìn xem anh ta có tích lũy hay không, mà tài sản của anh ta thường thường cũng là vốn liếng của cty.

    Vũ khúc hóa Lộc mà có tứ Sát đồng độ, chủ về lấy tay nghề, công nghệ để kiếm tiền. Làm ăn tốt, nên nguồn tiền tài không thiếu, có điều nếu nghỉ hưu thì không có thu nhập, do đó cần phải chú ý tích lũy. May mà Vũ Khúc có bản chất giỏi quản lý tài chính, trừ khi cung Tài quá thậm tệ, nếu không phần nhiều đều có tích lũy.

    Vũ Khúc hóa Lộc rất kị có Văn Khúc hóa Kị hội hợp (can Kỷ), sẽ chủ về nghề nghiệp chính thức thì có thể kiếm tiền, nhưng đầu tư ắt sẽ bị tổn thất, do đó việc tích lũy sẽ giảm đi nhiều.

    Nữ mệnh không ưa Vũ Khúc hóa thành sao Lộc, chủ về làm tăng mạnh thêm cơ hội độc thân.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ khúc hóa Lộc, là kết cấu tốt lành. Hơn nữa còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, "Lộc trùng điệp" nên nguồn tiền tài càng vượng. Cung Tài là Liêm trinh độc tọa hội hóa Lộc, thì giỏi quản lý tài chính, cũng là sở trường lợi dụng của cải để kiếm tiền (lấy tiền để kiếp tiền, rất an nhàn, thường thường còn được nhiều). Ở cung Dần gặp "Lộc trùng điệp" là khá tốt. Cung Quan là "Tử vi Thiên tướng", chủ về ưa hợp tác với người khác, mà bản thân mệnh tạo ở địa vị lãnh đạo, địa vị chủ đạo. Ở cung Tuất gặp "Lộc trùng điệp" cũng khá tốt (Tóm lại "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ là khá tốt, nhưng ở đây chỉ nói về tiền bạc của cải). Nhóm tinh hệ này cần phải quan sát kỹ xem Văn Khúc hóa Kị ở cung độ nào, thường thì khuyết điểm cơ bản của mệnh cục là ở đó.

    Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Lộc còn Tham lang hóa Quyền, nhưng ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" đồng độ với Đà la, hoặc có Kình Đà giao hội. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" bị Đà La hội chiếu, hoặc Kình Dương hội chiếu. Gặp Đà La thì khá bất lợi, chủ về tuổi trẻ hưởng thụ sa đà, nếu không sẽ chủ về vất vả mà không thu hoạch được gì. Nhóm tinh hệ này, ham muốn tiền bạc và sự nghiệp đều nặng, chính vì duyên cớ này mà thường có hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, thích sống sa hoa, ưa lôi kéo trong quan hệ giao tế, nhưng trong tình bạn lại không được lâu dài và tình bạn không bền vững. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Nô (cung Giao hữu) hay cung Huynh, sẽ chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại. Đánh giá về "nhân tình" là then chốt để luận đoán nhóm tinh hệ này.

    Tinh hệ "Thiên tướng Vũ khúc" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Lộc, hơn nữa ở cung Dần còn hội Lộc tồn, tài khí không phải yếu. Cung Quan là Tử vi ở cung Tý hoặc Ngọ, có khí thế độc lập, được Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, sự nghiệp có thực chất chứ không khoa trương phù phiếm. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên phủ, chủ về giỏi quản lý tài chính, lại sở trường vận dụng tiền bạc để có tiếng tăm. Xem toàn bộ tinh hệ là một kết cấu tốt, chủ về lúc đầu thì giúp người khác gây dựng sự nghiệp, nhưng không lâu liền tự lập mà trở nên giầu có, danh lợi có đủ. Nhưng nếu Văn Khúc hóa Kị ở cung Mệnh hoặc cung Phúc, phần nhiều sai lầm là do gánh lụy cho người khác, tuyệt đối không nên đầu cơ, cũng không nên làm người bảo lãnh tiền bạc cho ai. Văn Khúc hóa Kị ở cung Huynh chủ về bị bạn bè uy hiếp.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Lộc. Cung Quan là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Kình dương, hoặc có Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là "Liêm trinh Tham lang" mà Tham lang hóa Quyền, có Đà La đồng độ, hoặc Kình Đà hội chiếu. Toàn bộ tinh hệ có kết cấu mạnh mẽ, vì Vũ Sát đã có sắc thái quyền lực, lại thêm Tham lang hóa Quyền. Nếu cung Mệnh không có Hỏa Linh, thì rất thích hợp theo võ nghiệp. Gặp Xương Khúc thì có thể là Bác sỹ ngoại khoa hoặc nha khoa, cũng thích hợp với nghề ẩm thực. Nhóm này, tinh hệ cũng chủ về khéo vận dụng cơ hội, có năng lực quản lý tốt, cũng khéo vận dụng tiền bạc để lôi kéo sự ủng hộ, nên được nhiều trợ lực.

    Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Tham lang hóa Quyền ở đối cung. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên tướng" có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Quan là "Tử vi Thiên Phủ". Nhóm này, tinh hệ về tài lộc đều vượng, nhưng Vũ khúc hãm ở "thiên la địa võng" e rằng sức khai sáng không đủ, dễ ham thích an nhàn. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Phúc đức. Cung Tài là Liêm Tướng, nếu đồng độ với Lộc tồn thì keo kiệt ích kỷ. Nếu Lộc tồn vây chiếu thì chủ về rộng rãi hào sảng. Nếu gặp tinh hệ này ở lưu niên hoặc đại hạn, mà ở nguyên cục Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, thì lại không cát tường, chủ về vì tiền bạc mà thất bại lớn.

    Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Lộc, hội với "Tử vi Tham lang" ở cung Quan mà Tham lang hóa Quyền và hội với "Liêm trinh Thất sát" ở cung Tài. Khi luận đoán cần lưu ý tình hình 3 tinh hệ này hội hợp với Kình dương, Đà la. Tinh hệ này có sức khai sáng rất mạnh, chỉ khi đồng độ với Đà la ở cung Tị mới chủ về sức khỏe không tốt, gây ảnh hưởng đến sức khai sáng của nó. Tử Tham ở cung Quan có Tham lang hóa Quyền, chủ về cực kỳ tích cực, có thể phối hợp tốt với cung Mệnh. Nhưng cung Tài lại khá yếu, thích tích lũy tiền bạc mà lại thiếu lực, dẫn đến không thể phối hợp với cung Mệnh và cung Quan. Đây là khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nguyên nhân không thể tích lũy tiền của, là vì thường có nguyên nhân liên quan đến sức khỏe, cũng có liên quan đến hôn nhân.

    7- Thái Dương - can Canh hóa Lộc

    Thái Dương chủ về phát tài, khi hóa Lộc cũng chẳng làm tăng danh vọng, mà ngược lại, nhờ vào danh vọng thì mới có được tiền bạc, ví dụ như nhờ nghe danh tiếng mà được mời làm việc.

    Có lúc cũng chủ về được tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc về vinh dự. Ví dụ như được bằng khen,.v.v...

    Do bản thân Thái Dương có tính chất "quý" mà không "phú", nên được tiếng tăm nhiều hơn tiền tài. Lúc Thái dương lạc hãm mà hóa Lộc, có lúc còn chủ về tán tài, ví dụ như được vinh dự nhận bằng khen, vì vậy mà tổ chức tiệc mừng, mời bạn bè thân hữu đến chung vui, nên phải chi tiêu tốn kém tương đối lớn. Xét ở góc độ tính toán tiền bạc, có thể nói "thu không bằng chi".

    Khi Thái dương miếu vượng mà hóa Lộc, cũng có thể quản lý được chút tài sản, nhờ vậy mà làm tăng địa vị của mệnh tạo.

    Các nguyên tắc thuật ở trên, tóm lại là "Thái dương chủ về Quý mà không chủ về Phú".

    Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Cự môn. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thái âm" để hội hợp với cung Mệnh, có Lộc tồn đồng độ. Đây là "phú cục", nhưng "phú" của nó là do sao Lộc trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái dương hóa thành sao Lộc ở cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà có. "Thiên cơ Thái âm" không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về có kiếm được tiền một cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn, nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là vì "quý" (có danh tiếng) chứ không phải vì "phú" (giầu có). Thái dương ở cung Ngọ tốt hơn ở cung Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái dương và Thái âm đều miếu vượng (??? kiểm), còn ở cung Tý thì Thái dương và Thái âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên Thái dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít mà quá trình kiếm tiền cũng khá hao tổn tinh thần. Nhưng Thái dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh sáng chói lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử về tình cảm, hơn nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành trống rỗng.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương độc tọa. Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung, ắt sẽ có Kình dương đồng độ. Thái dương hóa Lộc không bằng Thái âm hóa Lộc, chỉ chủ về "danh" lớn hơn "lợi". Cung Tài là Cự Cơ có thêm Kình dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về phải nói năng vất vả. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi có thể giải được tính "cô độc và hình khắc" của Thiên lương, khiến cho tình hình cạnh tranh trong sự nghiệp khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Lộc, có Lộc tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là "Thiên đồng Thái âm" mà Thiên đồng hóa Kị. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập cung. Do Thái dương hóa Lộc còn hội Lộc tồn, cho nên chủ về "danh" trước rồi mới có "lợi" sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều. Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải nói năng rất nhiều, mà kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung Quan là Đồng Âm mà Thiên đồng hóa Kị, chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ, có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với các sao ở cung Mệnh. Thái dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái dương ở nơi vượng.

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Lộc ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Thái âm so với "Thái dương Thiên lương" cùng là hóa Lộc mà khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái âm ở cung Tài, Thái âm lạc hãm thì tài khó mà tụ, cho nên "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu không bằng ở cung Mão. Nhưng toàn bộ các tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào "phúc ấm" để nâng cao tên tuổi. Bao gồm danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến việc được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị. Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì rất thích hợp nghiên cứu học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào không ngừng, như nước nhỏ mà chảy dài.

    Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài là Cự môn, có thể hội Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung mà Thiên đồng hóa Kị, có Lộc tồn đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất vượng tài lộc, nhưng Thái Dương ở "thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định, nhưng vẫn khó tránh lao tâm, lao lực. Cự môn ở cung Tài có "sao Lộc trùng điệp", tuy chủ về "phú" và được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao tâm và rất vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên đồng hóa Kị ở cung Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung Thìn thì Thái dương nhập miếu, danh lợi đều ưu.

    Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi. Cung Tài là Thiên lương. Cung Quan là Thái âm. Thái dương hóa Lộc ở cung Tị chủ về hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh khí, ở cung Tị cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái dương hóa Lộc thì bất kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên lương ở cung Tài thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể trở nên giầu có. Nếu không, nên làm những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.

    8- Cự Môn - can Tân hóa Lộc

    Cự Môn chủ về điều tiếng thị phi, khi hóa thành sao Lộc, thì nhuyễn hóa thành nói năng để phục vụ. Cho nên ý nghĩa cơ bản là lợi về dạy học, luật sư, làm môi giới hoặc làm quảng bá. Ở xã hội hiện đại cũng có lợi về nghệ thuật biểu diễn, có thể khiến tài năng biểu diễn (nhất là ca xướng) được hoan nghênh.

    Nhưng Cự Môn là "ám tinh", không hóa Lộc, cũng đã ưa thích che hào quang của người khác. Sau khi hóa Lộc còn có khuynh hướng biểu hiện bản thân, do đó sinh ra thị phi, có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp. Người xưa cho rằng "Cự môn hóa Lộc" phú quý không được lâu", là vì luận định tính lý này.

    Cự môn hóa Lộc, không ưa có Sát tinh đồng độ, có Sát tinh thì thành phá cách, ghét nhất là Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bình địa nổi cơn sóng gió, thường thường là do bản thân gây ra.

    Cự môn sau khi hóa Lộc sẽ có sắc thái đào hoa, nếu lại hội các sao đào hoa thì tình cảm càng dễ nổi sóng gió. Cự môn hóa Lộc ở bản cung cũng chủ về thích ăn uống, còn chủ về phần nhiều đau khổ vì tình.

    Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Thái dương hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung, ắt sẽ kèm Đà la. Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ hay hội hợp, là cách "Thạch trung ẩn ngọc", tài lộc sẽ theo tiếng tăm địa vị mà đến, nhưng lúc trẻ ắt phải chịu qua gian khổ trước. Lúc này người Cự môn hóa Lộc thủ mệnh nên giấu bớt tài năng, không quá lộ sự sắc xảo, thì mới hợp với tính chất của "Thạch trung ẩn ngọc cách". Nếu không, địa vị càng cao thì thế sẽ càng nguy, càng dễ bị người ta bài xích, chèn ép. Cung Tài là Đồng Lương mượn để nhập cung, cũng chủ về tiền của theo danh dự và địa vị mà đến. Nếu cố ý kiếm tiền thì lại khó mà được.

    Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Lộc ở cung Sửu lại có Lộc tồn trùng điệp. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung, mà Thái dương hóa Quyền, ắt sẽ kèm Lộc tồn. Nếu Văn Xương hóa Khoa hội hợp với cung Mệnh hoặc cung Tài, thì cung Tài sẽ hình thành Cách: "Dương Lương Xương Lộc" cát tường. Cách này ở bản tinh hệ, có lợi về làm việc trong chính giới. Nếu không thành Cách, do Thái dương và Cự môn được cát hóa, nên cũng có thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) xem trọng. Vì vậy rất thích hợp làm đại lý thương phẩm nước ngoài, hoặc làm việc cho công ty nước ngoài. Nếu không chỉ nên làm những nghề mang tính phục vụ, hoặc chuyên nghiệp. Người "thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở cung Mùi thì khó tránh hiếu động, trôi nổi, thường thay đổi hoàn cảnh công tác.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có Thái dương hóa Quyền, còn Cự môn hóa Lộc ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội hợp với Kình Đà. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương". Cung Quan mượn "Thiên đồng Thái âm". Trong các cung chỉ có cung Mệnh là mạnh, các cung khác đều yếu, tuy không giảm trợ lực, nhưng cũng bất lợi về hôn nhân, ở cung Thân càng nặng. Tiền bạc do danh dự và địa vị mà đến, vì vậy muốn tích lũy cũng không dễ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm đoạn "Cự môn hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ" đã thuật ở trước. Riêng về nữ mệnh, gặp "Thái dương Cự môn" hóa Quyền và hóa Lộc ở cung Mệnh, thường chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), và đối với nữ mệnh đều được người ngoại quốc, hay người ở phương xa xem trọng.

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Lộc ắt sẽ hội hợp với Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Có điều cung Tài là Thiên đồng lại quá thích an nhàn hưởng lạc. Cung Quan mượn "Thái dương Thái âm" lại quá hiếu động, trôi nổi, nên cũng ảnh hưởng đến tài lộc của "Thiên cơ Cự môn", khó tránh phải lao lực, hoặc vất vả và nói năng, cũng thích hợp với những nghề cần miệng lưỡi, tài ăn nói. Nếu cung Tài ở cung Tị thì được "Lộc trùng điệp cách" tài khí khá vượng, chủ về tay trắng làm nên trở thành giầu có. Cách "Lộc trùng điệp" ở cung Tài ưu hơn "Lộc trùng điệp" ở cung Mệnh. Đây là đặc điểm của cách cục này.

    Cự môn độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, hội Kình Đà, hoặc có Kình dương cùng bay đến, Thiên đồng ở đối cung. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền. Cung Quan mượn "Thiên cơ Thái âm". Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, vì vậy tuy hóa Lộc cũng không chủ về tài lộc dồi dào. Nếu có ý kiếm tiền thì sẽ gặp nhiều gian khổ. Nếu có thể nâng cao học lực, nhờ địa vị xã hội hoặc tiếng tăm mà kiếm tiền thì lại thích hợp. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc lợi lộc theo tiếng tăm, danh dự mà đến, thích hợp làm những nghề chuyên môn như giáo chức, luật sư,.v.v... cũng thích hợp với công việc bán hàng, chào hàng, hoặc phục vụ.

    Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái dương ở đối cung hóa Quyền. Cung Tài là Thiên cơ gặp Sát tinh. Cung Quan là Thiên đồng được Lộc tồn. Cự môn khó tương hội với Lộc và Quyền, ở cung Hợi ưu hơn ở cung Tị, vì mệnh Cự môn ở cung Hợi thì Thái dương ở đối cung miếu vượng hóa Quyền ở cung Thiên Di, cổ nhân cho rằng đây là: "danh chấn tha bang" (nổi tiếng ở nước ngoài) rất có lợi về đi du học. Thông thường tinh hệ này chủ về biến động thay đổi, hoặc liên tiếp thay đổi công việc, phải bôn ba ở đất khách, hoặc bản thân công việc đã có sắc thái lưu động, sau mới đắc lợi, nhưng về nghề thì vẫn nên có tính chuyên nghiệp, tính hưởng thụ (như quản lý nhà hàng khách sạn, hàng không) là tốt nhất.

    9- Thiên Lương - can Nhâm hóa Lộc

    Thiên Lương là sao "giám sát", chủ về sang quý thanh cao, nên không ưa hóa thành sao Lộc. Trong mười can Hóa Lộc, đây là trường hợp rất kị. Khi Thiên lương hóa Lộc sẽ tăng phiền phức quấy rối, còn bất lợi về kinh doanh làm ăn. Lúc này, nên chú ý tính chất của cung Giao hữu (cung Nô), đó là then chốt để luận đoán toàn Cục.

    Hễ Thiên lương hóa Lộc, ắt sẽ bị người ta bài xích, chèn ép, chỉ trích, nhất là trường hợp Thiên Lương ở hai cung Tị hoặc Ngọ. Chỉ nên làn những nghề mang tính phục vụ, công khai tiền lương, như chuyên viên kế toán, cố vấn tài chính, phục vụ công cộng, không nên theo đuổi danh tiếng.

    Thiên Lương chủ về hóa giải tai nạn, sau khi hóa Lộc, thời gian hóa giải thường bị kéo dài hơn, khiến cho mệnh tạo cảm thấy rắc rối đa đoan. May mà kết quả hóa giải rắc rối được hoàn mỹ, còn không để lại di chứng. Đây là thông bệnh của Thiên lương hóa Lộc.

    Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương có Kình dương đồng độ, hoặc hội hợp với Kình Đà, nhóm tinh hệ này đã có sắc thái rắc rối thị phi. Ở cung Tý tốt hơn ở cung Ngọ, đây là do tình trạng miếu hãm của Thái dương. Cung Sự nghiệp (cung Quan) là Thiên đồng. Cung Tài là "Thiên cơ Thái âm", đều chẳng phải là các sao có sắc thái tích cực. Vì vậy nếu kinh doanh làm ăn, ắt chủ về gặp nhiều rắc rối, không bằng những nghề nghiệp mang tính chuyên môn để kiếm tiền. Nhưng khiếm khuyết đáng tiếc lớn nhất của mệnh tạo là ở cung Giao hữu (Nô). "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, bản thân dễ ăn của đút lót, ắt sẽ bị người dưới quyền chỉ trích. Mệnh tạo khéo léo xử sự như thế nào, điều này sẽ ảnh hưởng cực lớn đến vận mệnh.

    Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên cơ. Cung Sự nghiệp (Quan) là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm. Nhóm tinh hệ này ưa Thiên lương ở cung Sửu, vì Thái dương ở cung Tị, Thái âm ở cung Dậu, chúng đều miếu vượng. Thái dương chủ về "quý" khi ở cung Quan, Thái âm chủ về "phú" khi ở cung Tài, bản chất là rất thích hợp. Cho nên địa vị và tài bạch của mệnh tạo đều không lo thiếu, khi Thiên lương thủ Mệnh ở cung Mùi thì tệ hơn nhiều. Nhưng hễ Thiên lương hóa Lộc, mỗi lần có khoảng thời gian rắc rối khó sử xảy ra, cần phải lưu ý đến Vũ khúc hóa Kị ở nguyên cục bị cát hóa ở đại hạn hay lưu niên xung khởi, đây là thời kỳ có bất hòa, tranh chấp về tiền bạc. Vũ khúc hóa Kị ở cung Điền, doanh nhân dễ vì xoay chuyển tiền bạc khó khăn mà đình chỉ công việc kinh doanh.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân mà Thiên lương hóa Lộc, hội Kình dương hoặc hội Đà la. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này thiếu tính tích cực, vốn thuộc loại kết cấu an nhàn, yên tịnh. Có điều Thiên lương hóa Lộc gây ra biến đổi toàn cục, phần nhiều những tình huống rắc rối khó xử đều liên quan đến tiền bạc. Cung Nô là "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền, lại hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, nếu có Sát tinh hội hợp, thường thường là gặp tình cảnh "đầy tớ phản chủ", người dưới quyền là người tâm phúc do bản thân mệnh tạo chọn lựa đề bạt lại biến thành đại họa. Nếu cách kiếm tiền không chính đáng sẽ dễ bị thuộc cấp thừa cơ phản chủ.

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên lương hóa Lộc. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này cũng không thích hợp làm ăn kinh doanh, chủ về tiền bạc phải dựa vào địa vị hoặc tri thức mới có. Nhưng Thiên lương hóa Lộc thì vẫn không tránh được chuyện bị thuộc cấp gây lụy. Đại hạn hoặc lưu niên xấu nhất cũng thường ở cung hạn Vũ khúc hóa Kị, chủ về người dưới quyền gây lụy, hoặc chủ về sức khỏe không tốt, cần phải xem xét các cung liên quan mà định, nhất là phải lưu ý đến cách "Linh Xương Đà Vũ".

    Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên lương hóa Lộc ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn". Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" ắt cũng sẽ gặp Sát tinh. Nhóm sao này tuy không phải là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" nhưng cũng thích hợp làm công chức. Có điều trong 12 cung, hai cung Thìn và Tuất rất kị Thiên lương hóa Lộc, ngoài việc mượn lực của "Thái dương Cự môn" nhập cung Quan, thì không còn đạo "tìm cát tránh hung" nào khác. Cho nên Cơ Lương ưa ở cung Thìn hơn, vì Cự Nhật sẽ ở cung Dần, nếu cung chứa Cự Nhật gặp các sao Sát - Hình trùng trùng, thì thường vì tiền bạc mà xảy ra kiện cáo, tố tụng.

    Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Thiên đồng ở đối cung, lại hội Lộc tồn trùng điệp. Cung Tài là "Thái dương Thái âm". Cung Quan phải mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung để hội hợp với cung Mệnh. Vấn đề lớn nhất của nhóm tinh hệ này là sức khỏe vì Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tật ách. Bản thân tinh hệ cũng thiếu tính tích cực, chỉ thích hợp với cảnh làm hưởng đồng lương để có tiền. Có điều vì mệnh tạo thường dễ cảm thấy thỏa mãn, thường ba phải dễ chấp nhận, nên khó xảy ra tình huống rắc rối khó xử. Ở hai cung này lại thường chủ về đất đai nhà cửa của ông bà hay cha mẹ để lại bị phá sạch, trường hợp Thiên lương thủ Mệnh ở cung Tị nặng hơn, nhưng rời xa quê hương lại tốt.

    10- Phá Quân - can Quý hóa Lộc

    Phàm là Phá Quân thủ Mệnh hoặc thủ cung Tài, sẽ xảy ra biến động thay đổi ở nhiều biên độ, mà sự biến động thay đổi cũng thường ra ngoài dự liệu. Khi được hóa Lộc hoặc có Lộc tồn, có thể khiến sự biến động thay đổi trở thành khá ổn định; trong tình huống xấu nhất cũng không đến nỗi xảy ra thất bại hoàn toàn. Hơn nữa, bất kể biến động hay thay đổi như thế nào, kết quả thường sẽ tốt hơn so với trước khi xảy ra biến động thay đổi. Do nguyên nhân này, nên Phá quân rất ưa hóa Lộc.

    Hễ Phá quân hóa Lộc, cung Quan ắt sẽ có Tham lang hóa Kị, đây là điềm tượng sự nghiệp có biến động thay đổi. Tham lang hóa Kị thường thường sẽ có hiện tượng "vô tâm cắm liễu, liễu xanh um", cho nên rất ưa Phá quân hóa Lộc. Có điều cung Tài là Thất sát, cũng dễ trở thành biến đông thay đổi, cuộc đời ắt sẽ có một lần gặp cảnh khốn khó. Phá quân hóa Lộc chỉ có thể cải thiện, mà không thể tránh.

    Phá quân độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ hội hợp Lộc tồn, thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan là Tham lang hóa Kị. Cung Tài là Thất sát. Tinh hệ toàn cục vì Phá quân có cách "Lộc trùng điệp" nên tính chất biến thành tốt lành. Chỉ cần lưu ý "Tử vi Thiên phủ" đồng độ ở cung Phúc, nếu là "bách quan triều củng" thì quá thiên nặng về "thủ thành", không thích ứng với tính chất của Phá quân "Lộc trùng điệp". Trái lại, sẽ dễ có những phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ. Nếu "Tử vi Thiên phủ" là cách "tại dã cô quân", thì Phá quân "Lộc trùng điệp" lại có biểu hiện sống cô lập, cũng không nên. Vì vậy mấu chốt để luận đoán tinh hệ này là cung Phúc nên trung hòa.

    Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, hội "Liêm trinh Tham lang" ở cung Quan có Tham lang hóa Kị. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát". Do bản chất của cung Quan, nên nhóm tinh hệ này chủ về khuếch trương sự nghiệp một cách quá đáng, đặc biệt là làm ăn trong lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, thường lập nhiều chi nhánh, làm tăng thêm tình huống rắc rối. Ngoài ra lại vì quá mải mê kiếm tiền, "thấy lợi quên nghĩa" khiến dễ xảy ra sự thay đổi trong quan hệ giao tế, thiếu trợ lực, đời người khó tránh quá vất vả. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát" cũng chủ về tính toán cẩn thận, đồng thời lại có hào khí dám mạo hiểm, cần phải xem xét kỹ vận hạn để định nên làm hay nên dừng.

    Phá quân đọc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp. Lực phát đông của nhóm tinh hệ này là ở Tham lang hóa Kị, hội Lộc tồn và Phá quân hóa Lộc, vì vậy thường hay sửa đổi mục tiêu tiến thủ mà không biết dừng lại. Thất sát thủ cung Tài ở nhóm tinh hệ này có đặc tính giỏi tính toán, khéo dùng tiền để tạo giao tình, lôi kéo người ủng hộ, do đó tính chất của Phá quân hóa Lộc sẽ phát lộ không xót chút nào. Cung Tật là "Thái dương Thiên lương", gặp Sát tinh là chỗ tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này. Vì vậy cần phải lưu ý vấn đề sức khỏe.

    Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Phá quân hóa Lộc hội Kình dương hoặc Đà la. Tinh hệ này cũng là tổ hợp sao có tham vọng khá lớn, cho nên sự nghiệp của đương số cũng là cục diện lớn, phần nhiều có liên quan đến lĩnh vực giải trí, vui chơi, nghệ thuật hoặc tiêu dùng, hưởng thụ. Do tính chất của cung Tài, nên khi vận dụng tiên bạc, thường có tình huống như "Hàn Tín điểm binh", càng nhiều càng tốt, cần phải lưu ý đến đại hạn hoặc lưu niên để "tìm cách tránh hung".

    Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là "Tử vi Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc. Cung Quan là tham lang hóa Kị. Phá quân ở "thiên la địa võng" thì lực biến động thay đổi không nhiều, nên cuộc đời tương đối ổn định, nhưng thường có biểu hiện gánh vác công việc quá mức, hoặc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, đúng với hiện tượng "người giỏi thì làm nhiều". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc (ở cung Tý còn là "Lộc trùng điệp") thu nhập tất phải nhiều. Khuyết điểm của tinh hệ này là sau trung niên, phần nhiều đều thích hợp với người khác để làm ăn, nhưng thường lại là kết quả xấu.

    Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" cũng gặp Sát tinh. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" mà Tham lang hóa Kị, lại cũng gặp Sát tinh. Ba cung chủ yếu đều gặp Sát tinh, trở thành điều tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này, do đó cuộc đời gặp nhiều trắc trở, biến động thay đổi không như lý tưởng, mà còn thiếu trợ lực, khiến vất vả thậm tệ. Cung Tài quá không ổn định, vốn liếng tiền bạc không đủ để chống đỡ sự nghiệp, do đó tăng thêm áp lực về mặt tinh thần. Hơn nữa sau trung niên còn xảy ra nhiều tình huống rắc rối trắc trở, khiến cho đời người có nhiều điều đáng tiếc. Nhưng Phá quân hóa Lộc, dù sự nghiệp trắc trở, vẫn có thể duy trì thu nhập, đây là ưu điểm của tinh hệ này.

    11- Phá Quân - can Giáp hóa Quyền

    Phá Quân hóa Quyền không bằng hóa Lộc. Hóa Lộc có thể khiến cho quá trình thay đổi thuận lợi, có kết quả tốt đẹp, nhưng lúc hóa Quyền thì không thể đảm bảo một cách chắc chắn rằng sẽ tránh được thất bại.

    Sắc thái đặc biệt của Phá quân hóa Quyền là ở phương diện thanh thế. Nhưng thanh thế lớn có lúc chỉ có thể khiến cho người khác dễ có khuynh hướng nghe theo ý kiến của bản thân mệnh tạo, vẫn không thể tránh được các tình huống trắc trở, rắc rối. Thâm chí nhiều khi còn xuất hiện tình huống này, người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có ý muốn thay đổi hoàn cảnh khách quan (ví dụ như muốn kinh doanh thêm một ngành khác), mà bản thân mệnh tạo không nắm chắc tình hình thực tế, nhưng sau khi mang suy nghĩ của mình nói cho người khác nghe, người khác lại cho rằng bản thân họ đã có thành tựu và không ngừng thúc dục, thậm chí còn trợ giúp cụ thể, rốt cuộc thành thế cưỡi lưng cọp, không tiến hành không xong.

    Cho nên trong đại hạn gặp Phá quân hóa Quyền thủ cung Mệnh, cung Quan hay cung Tài thì cần phải lưu ý, lúc gặp lưu niên không tốt thì không được mạo muội đưa ra chủ ý của mình, để tránh âm dương không phối hợp, rốt cuộc bị buộc phải thay đổi trong hoàn cảnh đầy trắc trở.

    Hễ Phá quân hóa Quyền thì Liêm trinh ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Lộc của Liêm trinh có tài khí không lớn, không đủ để ỷ lại. Chỉ khi nào có kết cấu sao Cát tường, thanh thế của Phá quân hóa Quyền mới có lợi để tiến hành sự việc.

    Phá quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc. Cung Quan là Tham lang độc tọa. Cung Tài là Thất sát cũng độc tọa có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài lộc cũng theo đó mà tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa tinh Linh tinh hội chiếu Phá quân. Tinh hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn nguyên cục có thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên gặp kết cấu này, cũng chủ về biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm tinh hệ này, cổ nhân lại cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu là về phương diện hôn nhân. Cung Phu thê là Vũ khúc hóa Khoa hội "Tử vi Thiên phủ", lại hội "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc (Phá quân ở cung Tý thì Vũ khúc còn hội Lộc tồn), kết cấu dạng này thường dễ xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

    Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá quân hóa Quyền (đồng độ với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là "Liêm trinh Tham lang" có Liêm trinh hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát" có Vũ khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều gặp Sát tinh. Tuy gặp Kình Đà nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có thể xem là thượng cách. Nếu tam phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội, phối trí quân bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình huống căng thẳng mà thôi. Đời người không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận lợi, vì vậy không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu hiện chủ động, còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du để trợ giúp cho công việc làm ăn, cũng thường thích đầu tư vốn lớn vào sự nghiệp mới, đầu óc linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một khuyết điểm lớn, đó là người dưới quyền không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải vất vả, mà còn bất lợi nếu phát triển ở tha hương.

    Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng" mà Vũ khúc hóa Khoa. Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang. Phá quân có sao Lộc được hóa Quyền, cho nên lực "xung kích" cực kỳ mạnh, thanh thế cũng lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá, thường không giữ một nghề. Cung Di là "Vũ khúc Thiên tướng", mà Vũ khúc hóa Khoa, còn có Lộc tồn hội hợp, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội cách", do đó rất có lợi đối với người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê hương để phát triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn cảnh khách quan, thường thường có kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại là Thất sát hội sao Lộc ở cung Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý, thêm vào đó cung Huynh và cung Nô đều không ổn định, về phương diện quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người khác, nên dễ có hiện tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát.

    Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn "Liêm trinh hóa Lộc".

    Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Quan là Tham lang độc tọa, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đồng thời ắt cũng có Liêm trinh hóa Lộc vây chiếu. Cung Tài là Thất sát độc tọa (chỉ có Thất sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc tồn). Cung Quan có sao Lộc nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá quân hóa Quyền có thể biến thành nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu kinh doanh làm ăn, thì thường giỏi "công" mà không giỏi "thủ", thậm chí vượt quá tầm kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có tài lực kha khá, mới phát động đột phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay đổi lặt vặt. Đây là đạo "tìm cát tránh hung" cải thiện vận mệnh đời người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu kiểu này, cần phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương cách hành động. Tinh hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong lĩnh vực tài chính kinh tế là tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho nên cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một khuyết điểm là không giỏi xử lý theo chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối loạn.

    Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Khoa còn Phá quân hóa Quyền. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" ắt sẽ có Kình Đà hội chiếu hoặc Kình dương đồng độ. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" mà Liêm trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết: "Vũ khúc Phá quân Hóa Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu", do đó có thể thấy sắc thái đặc biệt của nó. Giỏi quản lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì khó tránh vì tham vọng quá lớn mà làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người khác phải giật mình vì thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng thời cũng có một nguy cơ, đó là do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành nghề kinh doanh phục vụ, có tính chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng lương, thì nên đề phòng có quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái dương hóa Kị ở cung Phụ mẫu, cũng dễ xảy ra tình huống soi bói, bới móc. "Vũ khúc Phá quân" ở cung Hợi thì càng nặng.

    12- Thiên Lương - can Ất hóa Quyền

    Thiên Lương tính chất có sang quý thanh cao, khi Hóa Lộc sẽ hình thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì không có ảnh hưởng, trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh cao.

    Ví dụ như thiên Lương đủ sức đảm nhiệm chức vụ quản đốc, giám đốc quản lý công tác, nếu hóa Quyền thì có thể có địa vị của một chuyên viên như chuyên viên kiểm toán, chuyên viên khảo sát, cho đến luật sư,.v.v...

    Thiên Lương hóa Quyền mà có nhiều sao phụ tá hội chiếu hoặc đồng độ, không những là tượng trưng cho quyền lực, mà còn tượng trưng cho địa vị. "Địa vị" nói ở đây không phải nói về "địa vị" do sự giầu có (xã hội ngày nay có phong khí xem trọng "phú" mà không xem trọng "quý", do đó mới xảy ra hiện tượng phân biệt như vậy), mà là nói "địa vị" của người được tôn trọng, được tôn sùng. Ví dụ như giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu học thuật, hoặc các chuyên viên cao cấp được xem trọng trong các lĩnh vực,.v.v...

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Lương hóa Quyền, thì không mang ý nghĩa đã thuật ở trên. Bởi vì không chỉ ở trong một đại hạn hoặc một lưu niên, mà bỗng nhiên trở thành một giáo sư, một chuyên viên cao cấp,.v.v... nhưng vẫn chủ về uy tín trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như một thương nhân, đại hạn gặp Thiên Lương hóa Quyền, có thể trong 10 năm đó sẽ làm cho thương hiệu của mệnh tạo có tiếng tăm hơn. Ở lưu niên cũng chủ về đây là năm có thanh danh hơn.

    Nhưng tính chất của Thiên lương cũng mang lại những tình huống rắc rối khó xử, chẳng vì có hóa Quyền mà hết được. Có hóa Quyền chỉ chủ về lúc hóa giải sẽ gặp ít trở lực hơn một chút, hoặc là lúc gặp nhiều phiền phức thì mệnh tạo lập tức biết được phương hướng giải quyết, đồng thời còn được trợ lực rất hữu dụng.

    Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương, hội "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Lộc còn Thái âm hóa Kị, lại hội Thiên đồng độc tọa; hai nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình dương Đà la. Nếu nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ nghiệp dư để kiếm tiền, hoặc đương số nên làm những nghề có tính "cô khắc và hình kị" (như khoa dược, khoa y, trật đả, tư pháp,.v.v... ), đồng thời tài lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao tổn tinh thần, hơn nữa dù thừa kế sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua sự biến động thay đổi triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay trắng sáng lập sự nghiệp. Thời cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi vì dễ vì áp lực của hoàn cảnh khách quan mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp Cát tinh là tượng trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập thì có thể vướng vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về phương diện nguồn tiền bạc, khiến phải hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt cuộc cũng có thể hóa giải phiền phức. Trong các tình huống thông thường, Thiên lương hóa Quyền ở cung Tý sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.

    Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì Thiên lương có thể hội Lộc tồn), đối cung là Thiên cơ đồng thời cũng hóa Lộc, hội hợp với Thái dương độc tọa và Thái âm hóa Kị độc tọa. Tính chất của nhóm tinh hệ này bất lợi về "tài bạch", về cơ bản có thể định nghĩa là "danh lớn hơn lợi". Bởi vì Thái âm hóa Kị ở cung Tài, nhẹ nhất thì "tài bạch" cũng khó mà tích lũy được. Nhưng hai sao Thiên cơ và Thiên lương hóa thành Lộc và Quyền, nên không ảnh hưởng đến thành tựu và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh và Sát tinh lẫn lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến tình hình rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp thực tế, người này có địa vị trong nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình thường, về sau phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp mà gặp nhóm tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu Sát tinh nặng, thường cũng bất lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất lợi về "tài bạch" là do nhìn quá cao, hoặc tự tin quá đáng, vì vậy mà bị dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá lo nghĩ về sự nghiệp và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên lương hóa Quyền. Cung Quan là Thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài là Thái âm đồng thời cũng hóa Kị. Ba nhóm tinh hệ này tất phải gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" vốn là những sao thương hay "tâm trạng hóa" cực nặng. Sau khi Thiên lương hóa Quyền thì tâm trạng có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm, khiến ảnh hưởng đến sự thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều đương số lại thích thú trong những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm này, và quy về triết lý coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao hiếu động, trôi nổi, như các sao Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa tinh, thì sẽ chủ về lãng đãng giang hồ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều không ổn định.

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Lộc tồn đồng độ vây chiếu. Thiên lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Kị (Hóa Kị ở cung Hợi thì tốt), hai sao hội hợp khác là mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng thời cũng thích hợp tạo dựng tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao Sát - Hình, thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm mang lại những tình huống rắc rối khó xử. Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời gian khá lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có kết cấu kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng rõ nét. Nếu các Sát tinh - Hình tinh nặng, lại gặp thêm Đại hao, Âm sát ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm pháp. Thiên lương hóa Quyền chỉ chủ về rốt cuộc cũng hóa giải được tai nạn.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên lương hóa Quyền thì đồng thời thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo đoạn "Thiên cơ hóa Lộc" đã thuật ở trên.

    Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên đồng, cung tam hợp mượn "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc gặp Lộc tồn, hai sao hội hợp khác là "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Kị. Thiên lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có năng lực tiêu giải tai nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc đời. Nhất là Mệnh an tại cung Tị thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên lương hóa Quyền bất quá chỉ khiến lúc xảy ra hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối về tình cảm, còn có sắc thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản thân mệnh tạo gây ra. Thiên lương hóa Quyền ở cung Tị, cũng làm mạnh thêm sắc thái thần bí của công việc.

    13- Thiên Cơ - can Bính hóa Quyền

    Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả của lối xử sự.

    Trong các tình huống thông thường, Thiên cơ thích hóa Quyền. Khi hóa Quyền ở cung Mệnh của nguyên cục, thường sẽ khiến mệnh tạo trở nên uyển chuyển, khéo ăn khéo ở, có chí tiến thủ, sống có mục đích.

    Thiên cơ vốn không chủ về quyền lực, chỉ trong tình huống hóa Quyền mới có biểu hiện quyền lực một cách vừa phải, nhưng vẫn không chủ về có thực quyền. Ví dụ như ý kiến của bản thân mệnh tạo được người ta xem trọng, tạo nên hiệu quả trong công việc, nhưng mệnh lệnh thực hiện trong thực tế lại không phải là do mệnh tạo đưa ra.

    Thiên Cơ mang lại sự biến động thay đổi, thoạt nhìn thì giống như được quyền chủ động, nhưng trên thực tế lại là bị động. Sau khi Thiên Cơ hóa làm sao Quyền, lực chủ động sẽ được tăng lên nhiều. Vì vậy cũng có khả năng khống chế và làm chủ được sự phát triển của tình thế. Giả dụ như Thiên cơ vốn là hóa Kị ở nguyên cục, rồi sau lại hóa làm sao Quyền, đây là tổ hợp sao có tính chất khá xấu. Trong lưu niên hoặc đại hạn, thường bị chủ động dẫn đến những thay đổi không cần thiết, hoặc chủ về lạm quyền, lộng quyền mà chuốc lấy sự phiền phức, thường muốn tiến thì lại thành thoái, cầu vinh thì lại bị nhục.

    Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung Quan là Thái âm độc tọa, đối cung với Thiên cơ là Cự môn cũng độc tọa, tất sẽ hội Kình dương và Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Thiên cơ hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt lành, có thể làm mạnh thêm ý vị "quyền bính và giầu có", nhất là lúc Thiên cơ thủ Mệnh ở cung Ngọ, quyền càng cao thì lộc càng trọng, thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Nhưng Thiên cơ hóa Quyền đồng thời làm tăng tính trôi nổi, không thiết thực của Thiên cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng, giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà thành việc. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có tính chất như đã thuật ở trên, thông thường chỉ chủ về có biến động theo chiều hướng tốt đẹp.

    Thiên cơ độc tọa thủ mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên cơ ở cung Sửu còn đồng thời hội Lộc tồn), có Thiên Lương ở đối cung. Cung Quan có Cự môn độc tọa. Cung Tài có Thiên đồng cũng độc tọa hóa Lộc hội hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến động thay đổi trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét từng đại hạn một cách tỉ mỉ, mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung. Thông thường, Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có tính chất bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời của đời người mà thôi.

    Tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" thủ mệnh, mà Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Dần hoặc Thân. Cung Quan có Thiên lương. Cung Tài có Thiên đồng hóa Lộc. "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của nguyên cục vốn không đủ lực tiến thủ, lúc Thiên cơ hóa Quyền và Thiên đồng hóa Lộc tương hội, sẽ cải thiện tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ, đồng thời còn làm mạnh thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc. Khi có Văn xương hóa Khoa đến hội, sẽ tạo thành tính chất khá tốt cho "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của tinh hệ Thiên cơ hóa Quyền, có thể tay trắng thành sự nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người khác, cũng không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất phú quý.. Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về tiến thủ trong sự nghiệp.

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với Thiên đồng cư Tài và mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì ắt Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu Thiên cơ ở cung Dậu hội Thiên đồng thì có Lộc tồn đồng độ, hoặc có cách "Lộc trùng điệp". Nhưng bất kể Thiên cơ hóa quyền thuộc loại "Quyền Lộc" trùng điệp, hay "Cơ Cự đồng lâm", thông thường đều thiếu lực tiến thủ, cho nên Thiên cơ Hóa Quyền cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của nó. Muốn luận đoán đánh giá cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên lương của cung Phúc mà định. Nếu Thiên lương hội hợp với các sao không tốt, thì đời người thiếu mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu thì có thể vinh thân, nếu không tuy chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và không thiết thực.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, tương hội "Thiên đồng Thái âm" thủ cung Tài, và mượn "Cự môn Thái dương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên cơ cũng dễ hội hợp với Sát tinh. Nhóm sao có kết cấu kiểu này thích Thiên cơ hóa Quyền, thường có thể nhờ các quyết định chính xác mà giảm được bớt áp lực của những biến động thay đổi trong cuộc đời, đồng thời còn làm tăng năng lực vạch kế sách và năng lực lãnh đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn xương hóa Khoa đồng thời đến hội, thì đây lại là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có tính chất tốt nhất. Ban đầu vốn có bản chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được giải quyết. Bản chất "phú quý không lâu bền" phần nhiều nguyên nhân vì có những biến động thay đổi không thực sự cần thiết. Nhưng lúc Thiên cơ hóa Quyền mà còn thành "Lộc Quyền Khoa hội", thì những biến động thay đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu, mà chỉ có những biến động thay đổi với biên độ lớn dẫn đến thành công.

    Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tương hội "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài là Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi là hai cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao nhau, cũng không thể tích cực tiến thủ, bất quá đời người chỉ khá ổn định, đồng thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó, thì mệnh tạo có thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ với Thiên cơ, gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền, gặp hai sao Không Kiếp thì dễ xảy ra trắc trở một cách vô cớ. Nhưng đại hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao này thì không có tính chất như đã thuật ở trên, vẫn chủ về biến động thay đổi theo hướng cát lợi.

    14- Thiên Đồng - can Đinh hóa Quyền

    Rất khó xác định tính chất cơ bản của Thiên Đồng hóa Quyền, nên cần phải quan sát các sao mà Thiên đồng hội hợp, xem nó là Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, hay Tạp diệu để luận đoán cụ thể. Dưới đây là trình bày các nguyên tắc thông thường.

    Bản thân Thiên đồng thiếu năng lực khai sáng, khi hóa Quyền có thể làm tăng sức mạnh của nó, nhưng tình hình "phá tổ thành gia" (phá tổ nghiệp phải tự lập), "ly tổ tự hưng" (rời quê hương tự làm nên) thì vẫn khó tránh.

    Thiên đồng có sắc thái hưởng lạc, lúc hóa Quyền có thể biến thành năng lực theo đuổi sự hưởng lạc, suốt ngày chìm đắm trong dục lạc, không còn thời gian nghĩ đến sự tiến thủ.

    Thiên đồng hóa Quyền, có lúc sẽ phát triển thành tính dựa vào quyền thế, ưa đi đường tắt để cầu thành tựu.

    Nữ mệnh Thiên đồng hóa Quyền cũng khó luận đoán, bởi vì lúc có các sao ác sát giao hội, tụ tập, thì Hóa Quyền sẽ dễ khiến mệnh tạo bị cuốn vào cuộc sống hưởng thụ trụy lạc. Hơn nữa đây không phải là bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, mà thường là do bản thân quyết định. Nhưng lúc các sao Cát tường hội hợp, thì đây là mạng được hưởng phước thanh nhàn, nhưng lại dễ bị tình trạng suốt ngày không có việc gì làm, nên phải tìm cách tiêu khiển để giết thời gian. Chỉ trong tình hình có hai sao Sát tinh và Cát tinh phối hợp thích đáng, thì mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp của riêng mình, lúc này đời người mới có mục tiêu.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên đồng hóa Quyền thì Thái âm đồng thời hóa Lộc. Xin tham khảo ở đoạn "Thái âm hóa Lộc".

    Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" đồng độ thủ mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu), mà Thiên đồng hóa Quyền thì Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc. Cung Quan hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc đồng cung với Kình dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái âm hóa Lộc ở cung Phu thê. Thái âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, cho nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương diện hôn nhân lại có khuynh hướng lấy được vợ đẹp, được vợ trợ lực. Nữ mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân bên ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy ra tình huống ngầm có rắc rối về tình cảm. Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc tồn), ắt sẽ đồng thời hội Thái âm độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa ở cung Quan, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội", thông thường đều là cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng làm mạnh thêm đặc tính của Thiên lương. Cho nên thông thường đều chủ về nhiệt tâm đối với việc công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không ngại vất vả, đồng thời bản thân cũng có sinh hoạt hưởng thụ lành mạnh. Khuyết điểm của tinh hệ này là Cự môn hóa Kị ở cung Phu thê, nên thường xảy ra tranh cãi ồn ào không càn thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với người bên ngoài, nhưng không vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì không mang ý nghĩa ngoại tình và vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về sáng lập sự nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành.

    Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Thái dương ở đối cung hóa Lộc, có Thiên cơ hóa Khoa và Cự môn hóa Kị hội hợp. Đây là cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, chủ về làm những nghề mang tính phục vụ, cần đến tài ăn nói để kiếm tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên đồng hóa Quyền ở cung Mệnh không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển vững chắc, thông thường cuộc sống cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ này cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường "Cơ Nguyệt Đồng Lương" không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu này thì cũng có thể suy tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không nên đầu cơ, không nên hợp tác với người khác.

    Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự môn hóa Kị ở đối cung "kích phát", hội hợp Thiên lương và "Thái âm Thiên cơ" hóa Lộc hóa Khoa. Thiên đồng ở cung Tuất rất ưa gặp Lộc tồn bay đến cung Ngọ, gọi là "phản bối", chủ về "qua cơn mưa trời lại sáng". Dù Thiên đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong các tình huống thông thường, có thể nói Thiên đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền. Đặc biệt cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái dương độc tọa tương hội Thiên lương, chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn nữa là, thích hợp với những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có những tính chất như đã thuật ở trên. Còn rất ngại Cự môn hóa Kị, mang lại quấy nhiễu, gây khó khăn, thường chủ về gặp những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm.

    Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Kình Đà hoặc đồng độ với Đà La, Thiên lương độc tọa ở đối cung. Mượn "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc để hội hợp, và hai sao hội hợp khác là "Thiên cơ Cự môn" hóa Khoa hóa Kị. Đây cũng thành cách "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau nên tính chất cũng khác nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn nhân, "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phu thê, mà Cự môn hóa Kị làm mạnh thêm ý vị "phá sạch". Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt lành, nhưng muốn trong sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên trọn những ngành nghề cần tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với đạo "tìm cát tránh hung". Ưa đi đường tắt, vốn là biểu hiện rất cụ thể của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố dẫn đến oán trách thị phi.

    15- Thái Âm - can Mậu hóa Quyền

    Thông thường Thái Âm hóa Quyền có thể mang lại tính chất Cát - Lợi. Ý nghĩa trực tiếp nhất là làm mạnh thêm quyền kiểm soát tài chính. Nhưng cần chú ý, "tài tinh" Thái âm khác với "tài tinh" Vũ khúc. Nếu so sánh, thì Thái âm mang ý nghĩa trìu tượng, nên "quyền tài chính" không phải là giầu có, mà là nói mệnh tạo có thể vận dụng tiền bạc một cách tốt nhất (ở xã hội hiện đại, người trong giới làm ăn kinh doanh thường có tính chất này).

    Đối với Thái âm lạc hãm, lúc hóa Quyền sẽ giúp cải thiện một số tính chất xấu. Ví dụ: vốn bất lợi đối với mẹ, chị em gái, hoặc vợ và con gái, nhưng khi hóa Quyền thì giảm nhẹ tình huống bất lợi, như "sinh ly" thì biến thành "gặp nhau ít mà xa nhau nhiều",.v.v... Cần phải xem tình hình cụ thể của từng vận hạn mà định. Có điều, nếu Thái âm lạc hãm bị hóa thành sao Kị ở nguyên cục, mà lúc ở đại hạn hoặc lưu niên lại hóa thành sao Quyền, thì thường sẽ biến thành lực "kích phát" rất bất lợi.

    Nam mệnh Thái âm hóa Quyền sẽ có sức hút đặc biệt đối với người khác giới. Nhưng tình cảm dành cho người khác giới vẫn có lý trí, không giống như Thái âm hóa Lộc quá thiên nạng về tình cảm.

    Nữ mệnh Thái âm hóa Quyền, chủ về có "thuật" chế ngự chồng, tuy chế ngự chồng, nhưng người ngoài khác không nhận thấy đó là chế ngự chồng, mà vẫn chỉ thấy họ là người phụ nữ hiền thục. Nữ mệnh mà cung Phúc đức là Thái âm hóa Quyền thì có tính chất khác, đó là tình cảm dành cho chồng thường kém mặn nồng (lạnh nhạt), khác với Thái âm hóa Quyền ở cung Mệnh có tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái âm hóa Quyền hội với "Thiên cơ Thiên lương" cư Quan mà Thiên cơ hóa Kị, và mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp có Thái dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Quyền có Thái dương hóa Khoa hội chiếu, thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên cơ hóa Kị, chủ về sự nghiệp có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm việc cũng chủ về liên tiếp bị điều động sang nhiều cương vị công tác khác nhau. Hơn nữa trong nhiều tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên một nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi thì thu nhập thực tế cũng không nhiều. Chỉ trong tình hình có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực thì sự nghiệp mới hơi ổn định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất "danh lớn hơn lợi". Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển biến thành vận trình có tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp nhóm tinh hệ này ở nguyên cục.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái âm hóa Quyền còn Thái dương hóa Khoa, tương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, và mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà thiên cơ hóa Kị. Trường hợp ở cung Sửu thì "Thái dương Thái âm" có thể gặp Lộc tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa "chợt âm chợt dương", có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái âm hóa Quyền làm tăng thu hoạch, Thái dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai tính chất này dễ gây ra xung đột mâu thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là Thiên lương, vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi và bị quấy nhiễu, gây khó khăn về phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Cự môn, chủ về lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn hay lưu niên cũng thường có hiện tượng đồng dạng.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Kị, Thái âm hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là Thiên lương độc tọa cư Quan và Thiên đồng độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái âm hóa Quyền chủ về ổn định, Thiên cơ hóa Kị lại chủ về biến thiên, do vậy thường diễn hóa thành bất ổn trong công việc bình thường, thích đi đường tắc để tìm sự thay đổi, nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm ảnh hưởng đến sự thành tựu của bản thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh, tuy giỏi "chế ngự" chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều, người ngoài lại vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng nặng nếu "Thiên cơ Thái âm" ở cung Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, thường thường là mất cơ hội thay đổi.

    Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì Thái âm có thể hội Lộc tồn ở cung Tị), Thiên đồng ở đối cung, có Thái dương hóa Khoa cư Tài và Thiên lương độc tọa cư Quan. Thái dương và Thái âm ở riêng hai cung, sự xung đột ít hơn, do đó tính chất không ổn định cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành an phận trong hiện trạng, kế hoạch của bản thân không thông suốt, nên ảnh hưởng đến sự thành tựu. Muốn luận đoán thực tế mệnh cách là cao hay thấp, cần phải xem xét kỹ các đại hạn mà định, từ đó có thể nắm được "tiên cơ" để tiến hành phép "tìm cát tránh hung". Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân, thường có khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng tính cách không hợp nhau. Kết hôn muộn cũng là phép "tìm cát tránh hung" nên tính đến. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này, nên nắm chắc cơ hội phát triển.

    Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái dương hóa Khoa ở đối cung, gặp Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội hợp với "Thiên đồng thiên lương" cư Quan và Thiên cơ hóa Kị cư Tài. Thái âm ở hai cung độ này là rơi vào "thiên la địa võng", còn có bản chất không điều hòa với Thái dương, gây ra ý vị xung đột, hơi giống tình trạng hai sao này đồng cung ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung đột trực tiếp. Vì vậy người Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có thể bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch đó. Nhưng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không thực hiện ngay kế hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây còn mang hàm nghĩa "đầu voi đuôi chuột". Thêm vào đó cung Tài là Thiên cơ hóa Kị, chủ về có được đồng tiền thì rất hao tâm tổn lực, khác với Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi. "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết phục, giải trình. Đây là đặc điểm của Thái âm hóa Quyền ở "Thiên la Địa võng". Trong vận hạn mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã thuật ở trên, cần phải xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để định cát - hung.

    Thái âm hóa Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Lộc tồn và đối nhau với Thiên cơ hóa Kị. Mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, cùng hội hợp "Thái dương Thiên lương" ở cung Quan mà Thái dương hóa Khoa. Trong hai cung, Thái âm ở cung Hợi tốt hơn nhiều so với ở cung Tị. Có điều bất kể là cung Tị hay cung Hợi, đều là cách "Lộc gặp Thái âm", chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm, nhưng giỏi quản lý tài chính. Sau khi sự nghiệp ổn định thì tình cảm và sự nghiệp lại đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh vượng. Sự nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái âm hóa Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt hơn. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị thay đổi theo hướng tốt.

    16- Tham Lang - can Kỷ hóa Quyền

    Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa Quyền là làm tăng dục vọng của nó, bất kể là ham muốn vật chất hay ham muốn dục tình đều như vậy.

    Trên đời, không thể không làm gì mà có được điều mình muốn. Do đó Tham lang hóa Quyền luôn có ý thức, cần phải cạnh tranh ở từng lĩnh vực một. Hơn nữa, có thể còn có biểu hiện không từ một thủ đoạn nào, đương nhiên sẽ làm tăng khổ lụy cho thân tâm.

    Tham lang có thiên hướng trong "giao tế thù tạc", sau khi hóa Quyền thì biến thành ưa lấy "giao tế thù tạc" làm thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh, môi trường giao tế thù tạc lại không thể tránh được tình cảnh "phong hoa tuyết nguyệt", do bản thân Tham lang cũng nặng về dục tình, nên dễ xảy ra sự cố.

    Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền, nếu thiếu tu thân dưỡng mệnh, sẽ dễ hy sinh thân xác để theo đuổi mục đích. Nếu có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, mà cung Phúc đức không có các sao đào hoa, thì phần nhiều sẽ dốc toàn lực để theo đuổi sự nghiệp, càng gặp phải cạnh tranh càng tăng thêm sức mạnh, tới mức độ có thể quên cả chuyện gia đình vì không còn thời gian để chăm lo tới. Vì vậy, cung Điền trạch, cung Phu thê, và cung Tử tức không nên gặp Thiên cơ hóa Kị, cung nào gặp Thiên cơ hóa Kị sẽ là phương diện biểu hiện những khiếm khuyết trong cuộc đời. Nam mệnh tuy cũng có cùng một tính chất, nhưng do hoàn cảnh xã hội, biểu hiện cụ thể thường được hòa hoãn hơn.

    Tham lang hóa Quyền đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh, chủ về phát đột ngột, thường chỉ phát đột ngột về sự nghiệp mà không chủ về phát tài. Còn có nguy cơ phát lên một cách nhanh chóng và suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nhất là đối với người làm việc trong chính giới cần phải xử sự cẩn thận, rất dễ thân bại danh liệt.

    Tham lang thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá quân và Thất sát hội hợp, đối cung là Tử vi độc tọa, Tham lang còn được đồng độ với Lộc tồn hoặc được Lộc tồn chiếu xạ. Tham lang hóa Quyền ở cung Tý, thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn vật chất, ở cung Ngọ thì ham muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa Quyền mà còn gặp Lộc tồn, nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy chỉ thích hợp làm ăn kinh doanh một cách độc lập, không nên hợp tác với người khác, càng không nên chủ về làm việc cho người khác. Tham lang hóa Quyền rất kị đồng độ với Văn khúc hóa Kị, tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết quả lại mất công vô ích, hao tổn tinh thần và tiền tài một cách uổng phí, mục tiêu theo đuổi không được như ý nguyện. Nếu cung Phúc đức hoặc cung Phu thê gặp các sao đào hoa, đồng thời còn gặp các Sát tinh, Hình tinh, Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị lầm lẫn vì tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá tán.

    Tham lang thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ khúc hóa Lộc đồng độ, xin tham khảo ở đoạn "Vũ khúc hóa Lộc".

    Tham lang độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với Liêm trinh, hội hợp với Thất sát độc tọa cư Quan và Phá quân độc tọa cư Tài. Tham lang ở cung Dần còn được hội Lộc tồn. Đặc điểm của nhóm tinh hệ này là cung Phu thê có sao Lộc quá nặng, "Vũ khúc Thiên phủ" mà Vũ khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc tồn, nên cuộc đời thường được biểu trưng ở người phối ngẫu. Nam mệnh Tham lang hóa Quyền tuy có sự nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị "vợ đoạt quyền chồng" quá nặng. Lúc cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được tiền bạc của vợ, nhưng vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền chủ về dễ bị người giầu đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời thay đổi.

    Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham lang hóa Quyền, hội "Vũ khúc Phá quân" cư Tài mà Vũ khúc hóa Lộc, và hội "Liêm trinh Thất sát" cư Quan, lại gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn vật chất rất mạnh mẽ. Do cung Tài là "Vũ khúc Phá quân" mà Vũ khúc hóa Lộc, nên tài khí không yếu, nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề ngoài, phấn son lòe loẹt, áo quân bảnh bao, mà nội tâm lại "trống rỗng". Tinh hệ Tử Tham đồng độ mà Tham lang hóa Quyền, còn là biểu trưng của tính thích dùng thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn khúc hóa Kị đồng độ hoặc vậy chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn, nên bản thân phải chịu cảnh thất bại.

    Tham lang độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Vũ khúc hóa Lộc, hội Thất sát độc tọa cư Quan, và hội Phá quân độc tọa cư Tài. Do sức mạnh của "Quyền Lộc tượng hội", khiến cho Tham lang ở "thiên la địa võng" có thể phá được cảnh khốn khó, đột nhiên có biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, thì càng chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy, mệnh tạo cần phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể sụp đổ, để tìm cách "tìm cát tránh hung". Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát - hung của cung Phúc đức. Cung Phúc đức của nguyên cục là "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân, về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức của đại hạn hoặc lưu niên có các Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy nhiễu, gây khó khăn, thì đây là điềm dẫn đến suy sụp một cách nhanh chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân thường do tình cảm gây ra.

    Tinh hệ "Liên trinh Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Quyền, đồng thời hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Lộc ở cung Quan, và hội "Tử vi Phá quân" ở cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này có tính chất biến hóa thay đổi cực kỳ lớn, do có Kình dương Đà la hội hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm Địa không Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai họa lao ngục. Nếu gặp các sao Văn và các sao đào hoa, là biểu trưng cho cho nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham lang hóa Quyền có thể làm tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột nhiên xuất hiện cơ hội chuyển biến theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn khúc hóa Kị cùng đồng độ với cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên, thì nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc mà chuốc họa.

    17- Thái Dương - can Tân hóa Quyền

    Thái Dương hóa Quyền chủ về tăng năng lực sáng tạo và tài lãnh đạo, nhưng chỉ chủ về nâng cao địa vị, mà không chủ về chuyển biến có tính đột ngột về tài lộc, bởi vì tài lộc chỉ tăng theo địa vị.

    Vấn đề "miếu vượng lạc hãm" có ảnh hưởng khá lớn đến Thái dương hóa Quyền. Thái dương ở cung lạc hãm, thường thường có chức mà không có thực quyền. Nếu cực lực tranh thủ quyền thế, không biết tiến thoái, thì dễ vì vậy mà dẫn đến thất bại.

    Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền thường thường là biểu trưng cho tính độc đoán. Cho nên rất kị gặp Văn xương hóa Kị đồng độ, thường vì xử sự chủ quan mà gây ra tổn thất. Do người Thái dương thủ Mệnh tự tin một cách quá đáng, nên tổn thất có thể theo thời gian càng lúc càng lớn.

    Người có Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, thì cần phải đồng thời quan sát cung Huynh đệ và cung Nô bộc để xem xét mối quan hệ với đồng sự và người dưới quyền. Đây là phương diện có ảnh hưởng khá lớn đối với đời người.

    Lúc Thái dương hóa Quyền, có Cự môn hóa Lộc hội hợp, sẽ chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) tin cậy và đề bạt, cũng chủ về nhờ tài ăn nói để kiếm tiền. Nếu có các sao hiển hách hội hợp đồng thời với các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên đề phòng đột nhiên xảy ra phá tán thất bại.

    Nữ mệnh Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, nếu có Văn xương hóa Kị đồng độ, chủ về lấy chồng không có nghi lễ chính thức.

    Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung với Thiên lương. Tam phương hội Cự môn hóa Lộc cư Quan, và mượn "Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài.

    Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được phô trương thanh thế quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận thấy sự trống rỗng của bản thân. Nếu có hành động thiết thực, chuyên chú trong một phạm vi nhất định (ví dụ đang công tác về pháp luật, thì không được đổi thành làm việc trong chính giới), sẽ dễ được người ta biết đến danh tiếng hơn, vì vậy đời người cũng không bị quá vất vả.

    Thái dương hóa Quyền ở cung Tý dễ trở thành "hữu hanh vô thực". Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ, hoặc ở đối cung thì thích hợp có một nghề, chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì thanh thế tuy không hiển hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền bạc.

    Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, là điềm tượng người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị thăng tiến.

    Tinh hệ "Thái âm Thái dương" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Quyền, tam phương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà Cự môn đồng thời hóa Lộc, và còn gặp Lộc tồn.

    Do "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phúc đức, lúc Cự môn hóa Lộc, thường có biểu hiện lời nói dễ nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển, là đặc trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy Thái dương hóa quyền chỉ biểu trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc sẽ có địa vị cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu không ắt sẽ vì vậy mà sinh phá sản, thất bại.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về sáng lập sự nghiệp.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Quyền ắt Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự môn hóa Lộc.

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp, tam phương có Thái âm độc tọa cư Tài, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Quan mà Cự môn hóa Lộc.

    Nhóm tinh hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng, nên thường thường ở địa vị lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì càng tốt). Nói "có tiếng thanh cao" là bao gồm lãnh vực học thuật, hoặc quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu này, Tài bạch sẽ tăng theo địa vị, khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến thực tế, từ đó sẽ xác định được phương hướng phát triển của đời người. Đây cũng là đạo "tìm cát tránh hung" vậy.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách lược tạo dựng uy tín (bao gồm thương hiệu và tín nhiệm) là tốt nhất.

    Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái âm, tam phương hội có Cự môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung Quan để hội cung, cung Mệnh còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc đồng độ với Kình dương.

    Thái dương hóa Quyền ở hai cung độ này, tuy có năng lực đột phá "Thiên la Địa võng", nhưng lại thường vì vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn nhân. Thái dương và Thái âm đối nhau, cũng ví như bình đẳng trong hôn nhân, nhưng một khi Thái dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra xung đột. Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.

    Thái dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều "triêu khí" (khí ban ngày), nhân sinh quan khá cởi mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích ứng với xu thế phát triển của xã hội. Thái dương hóa Quyền ở cung Tuất, lại có nhiều "mộ khí" (khí ban đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng, rất khó thích ứng theo sự chuyển biến của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn không cát tường thì hay tự mình sinh ra cảm giác "không gặp thời", dễ biến thành tiêu cực.

    Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện đại, thì nên mượn lực của người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả mong họ ủng hộ giúp đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong giới học thuật thì nên phát biểu chính kiến của mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao địa vị.

    Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Cự môn độc tọa hóa Lộc, tam phương hội cung có Thiên lương độc tọa ở cung Tài và Thái âm độc tọa ở cung Quan. Ở cung Tị còn gặp Lộc tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái dương lạc hãm.

    Thái dương ở cung Tị mà hóa Quyền, chủ về có tài lãnh đạo rất mạnh, đồng thời mệnh lệnh ban phát ra cũng khiến cho mọi người vui vẻ tuân thủ nghe theo. Thái dương ở cung Hợi thì chỉ nên lợi dụng sức mạnh của Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có, không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách nhiệm thực thi sự việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng thương hiệu, người trong giới học thuật hoặc giới chuyên nghiệp thì nên chú ý cống hiến trong lãnh vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có cùng một ý vị như vậy.

    18- Vũ Khúc - can Canh hóa Quyền

    Vũ Khúc là sao tiền tài, sau khi hóa Quyền sẽ làm tăng sự hiển hách của thanh thế. Do Vũ Khúc chủ về hành động, tức là có biểu hiện cụ thể, nên sau khi hóa Quyền càng chủ về hành động quả cảm và quyết đoán.

    Nhưng đồng thời Vũ khúc còn có biểu hiện bạc tình, nên sau khi hóa Quyền sẽ chủ về không từ một thủ đoạn nào. Khác với thủ đoạn của Tham Lang hóa Quyền, người Vũ khúc hóa Quyền về căn bản sẽ không cần biết phản ứng của người khác sẽ như thế nào, muốn làm thì làm, do đó không có thâm ý. Ở xã hội hiện đại, tính chất này thường thích hợp với người trong giới kinh doanh, có thể phát huy sức quyết đoán, mà ít nhiều thì cũng có người đố kị.

    Do Vũ khúc mang theo tính "cô độc và hình khắc", nên nữ mệnh không ưa hóa Quyền, dễ gặp trở ngại về hôn nhân, hoặc không có duyên với con cái, biểu trưng cho mẫu người phụ nữ có sự nghiệp.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Quyền còn Thiên phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc tồn đồng cung, tam phương hội cung có Liêm trinh độc tọa cư Tài, "Tử vi Thiên tướng" cư Quan, đối cung là Thất sát độc tọa.

    Vũ khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá đẹp khi Vũ khúc hóa Quyền, biểu trưng cho tài khí rất vượng, có năng lực khiếm tiền, mà bản thân còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết điểm của nó là Thiên đồng hóa Kị ở cung Huynh đệ, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người trợ giúp để giảm sự vất vả của bản thân.

    Người gặp tinh hệ này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì danh dự, địa vị và quyền lực cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng dụng.

    Nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành "ngó đứt mà tơ vương", đồng thời còn dễ được người đã có gia đinh theo đuổi.

    Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Quyền, ắt sẽ hội hợp với Kình dương, Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương hội cung "Liêm trinh Phá quân" cư Tài, và hội "Tử vi Thất sát" cư Quan.

    Vũ khúc hóa Quyền đồng độ với Tham lang, chủ về làm tăng dục vọng về tiền tài. Ở đây không chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi phối tiền bạc. Cho nên nắm quyền tài chính là nguyện vọng lớn nhất của người có kết cấu tinh hệ Vũ Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu lớn nhất của họ.

    Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ đoạn), họ có thể nắm quyền tài chính, nhờ vào đó mà dần dần cải biến sự nghiệp của bản thân. Có lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài chính để thay đổi chức nghiệp của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến thân.

    Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì "bà quản gia" được coi là "chức nghiệp".

    Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra chuyển biến.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá quân, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" cư Tài mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội hợp Tử vi độc tọa cư Quan.

    Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ, "Lộc Quyền Khoa" hội hợp, thanh thế hiển hách. Nhưng cần chú ý "Vũ khúc Thiên tướng" luôn luôn bị Thiên đồng hóa Kị và Thiên Lương giáp cung. Ở cung Thân còn bị thêm Kình dương và Đà la giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để cầu toàn, không tốt bằng Vũ Tướng ở cung Dần.

    Nói "nhẫn nhịn để cầu toàn", có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí thứ hai, còn phải tránh để xảy ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát - Kị - Hình nặng, thì lại cần phải lưu ý đạo "tìm cát tránh hung".

    Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu không sẽ dễ đổ vỡ.

    Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là điềm hợp tác với người khác để kiếm tiền, cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng có lợi.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Quyền, đồng độ với Kình dương, hoặc hội hợp với Kình dương, Đà la, đối cung là Thiên phủ đồng thời hóa Khoa, tam phương hội "Tử vi Phá quân" cư Quan và hội "Liêm trinh Tham lang" cư Tài.

    Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, cuộc đời gặp nhiều rắc rối về tình cảm, sau trung niên phần nhiều cảm thấy cuộc đời là hư ảo, buồn rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia thất mà không thể kết hợp, do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm vào sự nghiệp.

    Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có quyền lực quá mạnh mẽ, thường có thể phát triển thành lộng quyền hoặc lạm quyền, người dưới quyền cũng vì vậy mà li tán.

    Có một đặc điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài khí mới được tăng cao, ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

    Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), Tham lang độc tọa ở đối cung, tam phương có "Tử vi Thiên phủ" cư Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và "Liên trinh Thiên tướng" cư Tài.

    Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo dựng dược uy tín và danh tiếng, thì mới có phát triển mang tính đột phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời. Nếu đối cung gặp "Hỏa Tham cách" hay "Linh Tham cách", thì càng phát triển một cách đột ngột. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột ngột. Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn tuổi, và kết hôn muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.

    Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Kình dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội có "Tử vi Tham lang" cư Quan, và "Liêm trinh Thất sát" cư Tài.

    Do có Phá quân đồng độ, nên Vũ khúc hóa Quyền thường vì xảy ra biến động quá đáng, mà gây ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài tính. Vì vậy thích hợp với những nghề có tính tiêu dùng, hưởng thụ (nhất là ngành ẩm thực, giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà cung Mệnh không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung Mệnh có Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao kéo.

    Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt, thường có kết quản tốt.

    19- Tử Vi - can Nhâm hóa Quyền

    Tử Vi hóa Quyền, giống như Hoàng đế đích thân chủ trì xử lý chính sự, cho nên thường khiến cho bàng nhân không xử sự nghiêm cẩn là không thể được. Ở một góc độ khác, đó là khí thế bức người, bầu không khí thường căng thẳng, nặng nề, dễ tạo thành áp lực trong quan hệ. Đây là một đặc điểm lớn nhất của Tử vi hóa quyền.

    Do có đặc điểm này, nên Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền rất vất vả, mà lại ít có duyên với người, bởi vì khi giao lưu quan hệ mà mọi người ở bên cạnh sẽ bị áp lực. Bất kể là thượng cấp hay người dưới quyền, đều cảm thấy không được thoải mái, chỉ có người ngoài cuộc mới có thể tán thưởng mà thôi. Người có Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền thường hay oán trách sao mình quá vất vả mà chẳng được gì. Nguyên nhân là ở đây!

    Hóa Quyền là chủ về quyền lực thực tế, cho nên khi Tử vi hóa Quyền sẽ gánh vác công việc rất cụ thể, tất nhiên mệnh tạo cũng có đủ năng lực một mình đảm trách công việc. Nhưng hễ cung Mệnh là Tử vi hóa Quyền, thì cung Tài bạch ắt sẽ là Vũ khúc hóa Kị, công việc bị ảnh hưởng vì Hóa Kị nên không thích hợp trong kinh doanh làm ăn, nhất là khi mình tự chủ. Đây là khuyết điểm lớn nhất của Tử vi hóa Quyền, bởi vì bản thân người Tử Vi khi hóa Quyền dám làm dám chịu. Trong hoàn cảnh không thể tự chủ, phải làm việc dưới quyền người khác, thì người Tử vi hóa Quyền lại phải chịu áp lực một cách miễn cưỡng, tâm lý lao động không nhiệt tình, mà không thể mang thông minh tài chí của mình ra mưu cầu lợi ích cho bản thân. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên nhiều biến cố, để lại những hậu quả bất lợi một cách không cần thiết, nhất là trong môi trường giao lưu thù tạc.

    Bản thân Tử Vi vốn đã có sắc thái độc đoán, yêu ghét đều có tính kích động, sau khi hóa Quyền thì tính dễ bị kích động càng tăng, do đó thường ảnh hưởng đến tính lãnh đạo của họ. Bởi vì người giỏi phát huy tài lãnh đạo thì không nên kích động và ương bướng.

    Bản thân Tử vi vốn có đặc tính nổi bật nhất là bao dung chịu đựng, sau khi hóa Quyền thì đặc tính này càng được phát huy, cho nên dễ tha thứ cho đối phương, khiến người ta nhiều lúc cảm thấy bất ngờ.

    Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương, có Tham Lang độc tọa ở đối cung, tam phương hội "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.

    Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về phương diện sự nghiệp còn có sắc thái của Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem trọng uy tín, ở một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến thành người bảo thủ, nhờ vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tài mang lại. Chỉ có biểu hiện tiêu xài lãng phí.

    Tử Vi hóa Quyền ở cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc biệt là đối với nữ mệnh. Đây là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối cung, trở thành cách "Phiếm thủy đào hoa" dễ có tình mà lại không có duyên, có duyên mà lại không có tình.

    Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, là biểu trưng cho sự phát triển quyền lực. Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt tài chính, nếu không dễ bị túng thiếu.

    Tinh hệ "Tử vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Quyền (ở cung Mùi còn gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Liên trinh Tham lang" ở cung Quan, và "Vũ khúc Thất sát" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.

    Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử Vi hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Tử vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi có tính chất ít thận trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của người này có biên độ quá lớn, dẫn đến xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình chống đỡ, khiến cho tâm lực vất vả. Đạo "tìm cát tránh hung" chính là đừng tìm và không thể cầu "thể hiện sắc thái đặc tính của bản thân", khi bộc lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính một cách thái quá thì sẽ bất lợi, duy chỉ có thể làm việc một cách thiết thực, thì mới được bàng nhân quan tâm ủng hộ và tán thưởng.

    Do Tử vi có đặc tính "kích phát", "kích động", nên khi gặp Tử phụ Hữu bật đồng cung, hoặc Tả Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối với kết cấu Mệnh cục này.

    Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị làm tăng chuyển biến về quyền lực, nhưng vẫn phải tự lượng sức mình. Nhất là phải chú ý tính chất của cung Huynh đệ và cung Giao hữu (cung Nô).

    Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Quyền thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan, và Vũ khúc độc tọa mà Hóa Kị ở cung Tài. Đối cung là Thất sát, cung Mệnh còn gặp Kình dương và Đà la.

    Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có ảnh hưởng của Thiên phủ hóa Khoa, nhưng đối cung là Thất sát, sẽ khiến cho quyền lực của Tử vi khi hóa Quyền thêm nặng, do đó dễ vì có quyền lực mà hành động một cách bất cẩn, làm cho sức mạnh của Thiên phủ hóa Khoa không thể phát huy.

    Hơn nữa, Tử vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên phủ hóa Khoa, một "công" một "thủ" có mâu thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, nên lại không được toàn mỹ.

    Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng thường bị tình cảnh do dự giữa tiến và thoái. Cần phải xem ở vận sau kế tiếp là "cát" hay "hung", để quyết định nên như thế nào, tiếp tục hành động hay là nên dừng lại.

    Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Quyền ở cung Mão sẽ gặp Lộc tồn, tam phương hội cung có "Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài mà Vũ khúc đồng thời hóa Kị, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.

    Tử Tham gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng đồng thời theo đuổi ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài thì tích cực, nhưng trên thực tế lại cảm thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, thường sẽ khiến cho lý tưởng của mệnh tạo không thực hiện được, cuộc sống bị tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng buồn rầu lo lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì vẻ tôn nghiêm, lạc quan, nhưng về mặt tinh thần thường luôn không ổn định (rắc rối).

    Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Quyền bị Kình Đà hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có Phá quân, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài, phân ra một sao hóa Kị một sao hóa Khoa, và Liêm trinh độc tọa cư Quan.

    Nhóm tinh hệ này bị "Vũ khúc Thiên phủ" gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các tình huống thông thường, chủ về tính tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính tự tôn của bản thân, trên thực tế thường thường lại không cần thiết phải trả giá quá đắt như vậy.

    Gặp nhóm tinh hệ này trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột ngột. Sức mạnh ở của Tử vi hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo càng có biểu hiện cực kỳ xung động, thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến người ta phải bất ngờ.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên còn cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc lập một cách quá đáng, hoặc quá lộ sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc trở.

    Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh mà Tử vi hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Quan, và "Vũ khúc Tham lang" có Vũ khúc hóa Kị ở cung Tài.

    "Tử vi Thất sát" vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử vi hóa Quyền thì tính chất quyền lực càng nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ khúc hóa Kị khiến cho quyền lực bị khống chế, cung Quan lại thường hay đổi ý bất nhất, may mà đối cung là Thiên di có Thiên phủ hóa Khoa có thể điều hòa.

    Do đó có thể biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động thuộc Hậu thiên có ảnh hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao Cát hội hợp, thì có thể làm những ngành nghề có thể bộc lộ sự sắc sảo để dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao không hợp không cát tường, có thể phát triển thành "cọp mà ăn thức ăn của mèo" hoặc thậm chí tủ tiền trống rỗng.

    Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội chuyển biến, nhưng không được triển khai cục diện lớn quá.

    20- Cự Môn - can Quý hóa Quyền

    Cự Môn là sao điều tiếng thị phi, sau khi hóa làm sao Quyền, sẽ khiến "điều tiếng thị phi" biến thành lời nói có sức thuyết phục. Cho nên Cự môn hóa Quyền ưu hơn Cự môn hóa Lộc. Hóa Lộc bất quá chỉ làm cho lời ngon tiếng ngọt, ngôn từ dễ nghe mà thôi. Cự môn không hóa Khoa cũng vì cái Lý này, bởi vì lời nói biện luận trước hay sau thì cũng như nhau, chẳng thể tin được.

    Cự Môn hóa Quyền thích hợp với những nghề cần đến tài nói chuyện như luật sư, ngoại giao, giáo dục, bán hàng, chào hàng, đại lý bán lẻ,.v.v... cũng nên suy tính đến những nghề biểu trưng cho trạng thái xã hội như người điều khiển trương trình, ca sỹ, diễn viên,.v.v...

    Nữ mệnh vốn không ưa Cự Môn, vì dễ xảy ra sóng gió, trắc trở trong tình cảm. Khi Cự môn hóa Lộc không thể cải thiện được đặc tính này, nhưng sau khi hóa làm sao Quyền thì lại có thể giảm bớt sóng gió trắc trở, bởi vì hóa thành sao Quyền có thể tự khống chế tâm trạng của mình.

    Cự Môn là "ám tinh", thường có khuynh hướng biểu hiện "cái tôi" (ngã), nhưng sau khi hóa Quyền thì lối biểu hiện "cái tôi" sẽ dễ khiến cho người ta chấp nhận hơn. Hoặc có thể nói, dễ làm cho người ta tiếp nhận sự vẻ vang của mệnh tạo. Do duyên có này, Cự môn hóa Quyền có thể làm tăng sức ảnh hưởng đối với những người xung quanh và tăng sự ảnh hưởng địa vị xã hội của người này. Tùy theo mức độ của tầm ảnh hưởng mà thu vào tài phú nhiều hay ít, địa vị xã hội cũng theo đó mà được nang cao.

    Cự môn hóa Quyền hội Thái dương chưa chắc chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) phù trợ, chỉ chủ về làm tăng mức độ tiếp nhận của mọi người bề những cái bộc lộ biểu hiện của mệnh tạo. Khác với Thái dương hóa Quyền hội Cự môn hóa Lộc.

    Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên cơ, tam phương tương hội có Thái dương độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Tài.

    Nhóm tinh hệ này đã cấu tạo thành cách "Thạch trung ẩn ngọc", nhất là khi Cự môn ở cung Tý được Lộc tồn đồng độ, có Thái dương ở cung Vượng hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự môn ở cung Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha hương. Liên quan đến tính chất của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về "Thạch trung ẩn ngọc cách", ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là cách "Thạch trung ẩn ngọc", thì trong đời người không nên ngồi ở vị trí cao.

    Lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để thể hiện bản thân, mà còn được người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc ý.

    Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung có Thiên cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc có Kình dương Đà là hội chiếu.

    Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên, phải trải qua gian khổ mới có thành tựu, mức độ thành công cũng tùy thuộc vào mực độ biểu hiện của bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm lặng lẽ đột nhiên phát lộ ánh sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ này.

    Cần chú ý "Thiên đồng Cự môn" ở cung Sửu, thì cung Huynh đệ là Tham lang hóa Kị, còn bị Kình Đà giáp cung, dó đó còn chủ sau khi phát vượt lên, ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng sự hoặc người hợp tác.

    Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn nhân.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung mượn "Thiên đồng Thái âm" nhập cung mà Thái âm ắt hóa Khoa ở cung Quan, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập cung Tài, có kèm Lộc tồn đến hội chiếu.

    Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát huy tài ăn nói. Nữ mệnh vốn bất lợi về hôn nhân, nhưng nhờ lực của Cự môn hóa Quyền khiến hôn nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về tình cảm, nhưng vẫn chủ về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá trẻ.

    Nếu nam mệnh cung Phu thê gặp Văn xương Văn Khúc và Lộc tồn, sẽ chủ về nhờ vợ mà có tiền của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát triển sự nghiệp.

    "Thái dương Cự môn" trong nhóm tinh hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn nói, còn là người ngoại quốc (hay người ở phương xa). Tính chất của tinh hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công việc ngoại giao, nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu diễn, gặp các sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng bá.

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Quyền ắt sẽ gặp Kình dương hoặc Đà la. Tam phương hội hợp mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung Quan mà Thái âm hóa Khoa, và Thiên đồng độc tọa ở cung Tài.

    Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng chức và cạnh tranh. Sau khi hóa Quyền, thậm chí có thể lấy cách "Dương Lương Xương Lộc" để so sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu thâm trầm, vì vậy cũng không có ý vị cạnh tranh học thuật.

    Cự môn hóa Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho hôn nhân trở thành ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ "ám lực" (lực ngầm) mà chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên truy cầu địa vị cao, nếu không sẽ không được lâu dài.

    Cự môn độc tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự môn ở cung Thìn gặp Lộc tồn), có Thiên đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái dương độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên cơ Thái âm" có Thái âm hóa Khoa để nhập cung Quan.

    Cự môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường thường bản thân vất vả mà lại ít có người trợ lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải thiện tính chất lạc hãm ở "thiên la địa võng". Vì vậy sau khi trải qua gian khổ thì có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát đột ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.

    Điều đáng chú ý là "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở cung Phu Thê mà Thái âm hóa Khoa, có thể thành cách "Đan trì Quế trì", tức là trong cung gặp Văn xương Văn khúc, chủ về được nhạc gia nâng đỡ.

    Cự môn độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tam phương hội hợp Thiên cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên đồng độc tọa ở cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình Đà, hoặc Đà la cùng bay đến.

    Kết cấu sao dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt bằng Cự Nhật đồng cung. Cự môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi đối với cha, khiến lúc nhỏ phần nhiều đều có đường đời gập gềnh, có lúc lại biểu trưng cho sinh ly tử biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài sản của cha nuôi dưỡng.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự môn hóa Quyền ở cung Tị hoặc Hợi, thì không có cát lợi đặc biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội biểu hiện bản thân.

    21- Vũ Khúc - can Giáp hóa Khoa

    Vũ khúc hóa Khoa không chủ về "khoa danh" (có danh tiếng trong khoa cử), khác với Hóa Khoa của Văn xương và Văn khúc. Khi Vũ khúc hóa Khoa chỉ chủ về có danh tiếng giới hạn trong một ngành nghề, hoặc trong một phạm vi nhất định, chưa chắc được đại chúng trong xã hội biết đến.

    Cho nên Vũ khúc hóa Khoa không có ý vị được tuyên dương rộng rãi. Hơn nữa, một khi tuyên dương rộng rãi, sẽ dễ bị ở vào vị trí lúng túng, gượng gạo, khó xử, như bị người ta đả kích, đố kị,.v.v... Nữ mệnh càng dễ bị rắc rối về tình cảm, thường bị người đã có gia đình theo đuổi.

    Ưu điểm lớn nhất của Vũ khúc hóa Khoa là làm tăng năng lực quyết đoán theo hướng tốt, chẳng bị rơi vào tình trạng võ đoán hoặc suy nghĩ nông cạn.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội hợp với Liêm trinh độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Quan. "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ còn gặp Lộc tồn, nên ở cung Ngọ có lợi hơn ở cung Tý.

    Nhóm tinh hệ này rất ưa gặp sao Lộc, được "Khoa Lộc" là kết cấu tinh hệ tốt lành. Trong các tình hình thông thường, chủ về xử lý công việc thuận lợi, thích hợp với ngành nghề kinh tế tài chính, dễ được ngân hàng tín nhiệm, còn có biểu hiện tốt trong nghề nghiệp.

    Do Liêm trinh hóa Lộc hội chiếu, nếu gặp các sao đào hoa, cũng chủ về dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm.

    Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Khoa, đồng thời còn gặp Kình dương Đà la hoặc có Kình dương đồng độ. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Tài chia ra một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền, và hội cung Quan có "Tử vi Thất sát" là kết cấu sao quyền lực.

    Tinh hệ có kết cấu sao kiểu này, có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ thì mới phát huy được đặc tính của "Vũ khúc Tham lang" có thể phát đột ngột. Nếu không thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", thì đây là cách "Lộc Quyền Khoa hội" chủ về phát vượt lên nhưng không có ý vị phát đột ngột, mà là phát lâu dài.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm sao này, cũng là vận tốt, nhưng nên tránh bất hòa với thượng cấp và bậc trưởng bối, thường làm cho thượng cấp đố kị tài năng.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Khoa ắt có Lộc tồn hội hợp hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp có "Liêm trinh Thiên phủ" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, và Tử vi độc tọa ở cung Quan, đối cung Thiên Di có Phá quân hóa Quyền.

    Nhóm sao này cũng là kết cấu "Lộc Khoa Quyền hội cách", do Tử vi ở cung Quan nên rất dễ ở địa vị lãnh đạo và có danh tiếng, cũng thích hợp tự mình phát triển kinh doanh. Có điều lúc đồng độ với Lộc tồn, ắt sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, do đó không nên phát triển riêng một cách độc lập quá sớm, nếu không sẽ dễ bị phá tán, thất bại.

    Nhóm sao này thường thường cũng thành kết cấu thích hợp làm việc trong chính giới, lúc đó càn phải gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng lại không nên ở địa vị lãnh đạo. Ảnh hưởng của Phá quân hóa Quyền ở đối cung Thiên Di, chỉ chủ về có thể nắm thực quyền.

    Đại hạn hoặc lưu niên rất ưa gặp nhóm tinh hệ này, chủ về bỏ cũ đổi mới, gặp cơ hội tốt.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Khoa tuy sẽ gặp Kình dương Đà la hoặc đồng độ với Kình dương, nhưng đồng thời cũng sẽ hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá quân hóa Quyền ở cung Quan, và "Liêm trinh Tham lang" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài. Không những thành kết cấu "Lộc Quyền Hoa hội" tốt lành, mà còn là cách "cương nhu" phối hợp thích đáng.

    Chỉ có một khuyết điểm bất lợi về Cha, chủ về không được "phụ ấm" (cha che trở), hoặc chủ về hai cha con gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng cũng chính vì vậy mà "kích phát" năng lực khai sáng sự nghiệp. Thích hợp với những ngành nghề như kinh tế tài chính, giải trí, vui chơi, nghệ thuật,.v.v... nhất là những ngành nghề giầu tính cạnh tranh.

    Đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về có tính sáng tạo, càng có cạnh tranh càng có lợi.

    Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp có "Tử vi Thiên phủ" ở cung Quan, và "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, Vũ khúc ở cung Tuất còn được gặp Lộc tồn.

    Nhóm tinh hệ này cũng là kết cấu "Khoa Lộc" tương hội, nhưng trừ phi thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", nếu không sẽ rất ngại bản thân "Tử vi Thiên phủ" ở cung Sự nghiệp có mâu thuẫn, cung Tài "Liêm trinh Thiên tướng" có ý vị bị động, tuy nhờ Vũ khúc hóa Khoa cũng chỉ chủ về được người ta trọng dụng nhất thời, mà không có trợ lực thực tế.

    Nếu Vũ khúc hóa Khoa có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ cũng chủ về phát đột ngột, nhưng không lớn bằng "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", mà còn dễ bị phá tán thất bại.

    Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Vũ khúc hóa Khoa mà Phá quân đồng thời hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Phá quân hóa Quyền".

    22- Tử Vi - can Ất hóa Khoa

    Tử vi rất ưa hóa Khoa, bởi vì đối với Đế tinh, nhiều lúc danh dự còn quan trọng hơn quyền lực. Sau khi hóa Khoa, Tử vi có thể cải thiện một số khuyết điểm, như cố chấp, độc đoán, yêu ghét tùy ý,.v.v...

    Tử vi sau khi hóa Khoa chủ về tăng danh vọng ở phạm vi khá rộng, còn có sắc thái công chúng, hơn xa Vũ khúc hóa Khoa chỉ có tính cục bộ.

    Chỉ cần không phải là "tại dã cô quân", sức ảnh hưởng của Tử vi hóa Khoa thường có tính quyền uy, dễ là được người khác tin phục.

    Tử vi vốn có đặc tính "lấy tai làm mắt", ưa nghe lời xiểm nịnh, nhưng sau khi hóa Khoa, có thể phân biệt rõ thị phi, có điều khi xử sự vẫn có phong cách cá nhân mạnh mẽ.

    Tử vi sau khi hóa Khoa, dù không có Xương Khúc hội hợp, cũng chủ về dễ tiếp thu tri thức, và có thể biểu đạt ý nghĩa ý nghĩa hiểu biết của mình. Cho nên nó ở trong số "sao Khoa" có tính chất khá thiết thực và tốt lành.

    Tử vi hóa Khoa nếu còn được các sao Phụ diệu, Tá diệu, thì thích hợp làm việc trong chính giới, cổ nhân gọi là "nho thần", ắt sẽ có địa vị rất cao. Nếu gặp Sát tinh, thì chỉ có thể biểu hiện trong phạm vi cục bộ.

    Nhưng phàm là Tử vi hóa Khoa, thì vất kể là có kết cấu tinh hệ nào, cũng đều dễ chuốc đố kị, chỉ không bị tổn thương mà thôi.

    Tử vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Tham lang ở đối cung, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan, và hội cung Tài với tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng".

    Tử vi độc tọa vốn đã mang ý vị độc lập, chỉ có hóa Khoa, mà không có sao Cát hóa khác hội chiếu, còn không gặp Lộc tồn, nên chỉ chủ về có năng lực suy nghĩ độc lập, mà lại còn khéo phát huy phong cách cá nhân. Nói về cảnh ngộ đời người, dễ được người khác ủng hộ (ở cung Ngọ ưu hơn cung Tý, vì ngại Thái âm hóa Kị ở cung Tị là cung Giao hữu), nhưng vẫn là tổ hợp chủ về "danh lớn hơn lợi" chẳng túng thiếu, nhưng cũng không dư giả.

    So đặc tính của hai cung Tý hoặc Ngọ, người ở cung Tý thì "tinh" (chuyên sâu), còn người ở cung Ngọ thì "bác" (uyên bác).

    Ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có tính chất đã thuật ở trên, nhưng lại thường là điềm tượng có cơ hội thể hiện bản thân.

    Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thất sát" ở cung Tài ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, và hội cung Quan là tinh hệ "Liêm trinh Tham lang".

    Tử vi hóa Khoa của nhóm tinh hệ này chủ yếu làm mạnh thêm thanh thế của Phá quân, đồng thời còn có ý vị, vì tuy là cầu danh tiếng mà chủ động thay đổi. Nếu có Cát tinh hội hợp thì vì Danh mà thay đổi, sau khi thay đổi thì danh tiếng càng lớn, do đó lại cầu thay đổi tiếp. Thế là đương số không ngừng theo đuổi, không ngừng biến đổi, đời người tuy khó tránh vất vả, khổ lụy, nhưng bản thân đương số lại cảm thấy vẻ vang và thỏa mãn.

    Nếu trong lúc đang thay đổi, bỗng nhiên họ dừng bước, thì trái lại, sẽ dễ vì phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ mà dẫn đến tổn thất phá tán, thất bại. Cũng do không ngừng cầu thay đổi, nên quan hệ giao tế cũng thay đổi luôn, cho nên khi Tử vi hóa Khoa cũng không thể cải thiện tính chất "vô tình vô nghĩa" của nó.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về có biểu hiện vẻ vang rực rỡ và thay đổi.

    Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung là Vũ khúc độc tọa ở cung Tài và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan. "Tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

    Tử vi và Thiên phủ vốn có tính mẫu thuẫn, vừa chủ động lại vừa bị động, vừa tiến công lại vừa phòng thủ. Sau khi Tử vi hóa Khoa thì Tử vi được tăng thêm sức mạnh, nhờ vậy mà giải quyết được tình trạng mẫu thuẫn của "Tử vi Thiên phủ". Một khi mẫu thuẫn được giải quyết, xung chiếu Thất sát, thì tính chất hóa thành quyền lực được phát huy. Cho nên tinh hệ này khi Tử vi hóa Khoa trở thành có trí tiến thủ, và năng lực quyết đoán cao được phát huy, đây là điều mà tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" vốn không có.

    Như tinh hệ này lại có đặc điểm là ưa lộ sự sắc xảo, luôn muốn khoe tài năng, vì vậy mà thường bị người ta công kích. Còn cần đặc biệt lưu ý khi đến đại hạn hoặc lưu niên "Liêm trinh Thiên tướng" đừng cố xuất đầu lộ diện mà mang họa vào thân.

    Nhóm tinh hệ này khi gặp ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có bản chất này (?), chỉ chủ về bộc lộ những biểu hiện cá nhân, mà cần lưu ý không được nóng nảy.

    Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội cung với "Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.

    Tinh hệ này vốn có sắc thái không ổn định, nhưng Tử vi hóa Khoa chỉ có tính chất nhờ thay đổi cải cách mà người ta biết tiếng, thậm chí ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

    Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Khoa, ắt sẽ đồng thời gặp Kình dương đồng độ, hoặc Kình Đà giao hội, có Phá quân độc tọa ở đối cung, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài và Liêm trinh độc tọa ở cung Sự nghiệp.

    Nhóm tinh hệ này Tử vi rất ưa được hóa Khoa, vì Thiên tướng đồng độ với Tử vi nên Thiên cơ hóa Lộc và Thiên lương hóa Quyền tất sẽ giáp cung, chủ về người có tài năng đặc biệt. Ngoại trừ trường hợp Tử vi độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đây cũng là nhóm tinh hệ lợi về nghiên cứu học thuật.

    Liên quan đến khuynh hướng của tài năng, phải xem xét các sao hội hợp có tính chất mạnh yếu như thế nào mà định. Nếu "Vũ khúc Thiên phủ" có lực mạnh thì giỏi quản lý tài chính, nếu Liêm trinh có lực mạnh thì có tài năng văn nghệ, nhưng có lúc cũng chủ về làm việc trong chính giới, lấy thỏa hiệp làm sở trường, chưa chắc đã có lập trường nhất định.

    Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên phủ, tam phương hội cung có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Sự nghiệp, và "Vũ khúc Tham lang" ở cung Tài.

    Tử vi và Thất sát đồng độ đã có sắc thái quyền lực, khi Tử vi hóa Khoa khiến cho quyền lực và danh dự đều được vẻ vang, rực rỡ, do đó đây cũng là kết cấu tinh hệ có tính chất tốt lành.

    Khi quyền lực và danh dự vẻ vang rực rỡ, thì lại có khuyết điểm là: lý tưởng của đời người đặt ở vị thế quá cao, thế là theo đuổi lý tưởng không ngừng nghỉ, đời người khó tránh vất vả và khổ lụy. Ở tuổi vãn niên có lúc bỗng cảm thấy cuộc đời là hư ảo, rồi sinh buồn rầu, thích bàn luận triết lý.

    Ngoài ra tinh hệ này cũng chủ về tình cảm vợ chồng thường có tì vết, nhưng mệnh tạo lại thích che dấu, không cho người ngoài biết.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tính hệ này, thường thường chủ về biến đổi quyền lực, thông thường là ở vận tốt.

    23- Văn Xương - can Bính hóa Khoa

    Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn học nghệ thuật, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

    Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải cái được là hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

    Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong thi cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được thuyết trình phát biểu tác phẩm chuyên đề, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, mà trước thi cử một năm cũng có lợi.

    24- Thiên Cơ - can Đinh hóa Khoa

    Thiên cơ hóa Khoa không chủ về nghiên cứu học thuật, chỉ khi gặp Xương Khúc Khôi Việt hội hợp, mới có ý vị nhiên cứu học thuật. Cũng có thể khi Thiên cơ hóa Khoa có một số biểu hiện nhưng không liên quan đến học thuật, nhưng vẫn khiến cho người ta trọng dụng. Ví dụ như thắng một giải đua xe, đây là do ở xã hội hiện đại xem trọng về mức độ học lực có chuyên nghiệp và chuyên sâu hay không? cho nên bản chất của Thiên cơ hóa Khoa cũng được phát huy khá lớn.

    Thiên cơ thuộc nhóm sao hiếu động, trôi nổi, tuy hiếu học nhưng không thiết thực, thậm chí thường hay có kỹ xảo, hoặc thường phô trương thái quá, thường thiếu và ít có những trải nghiệm thực tế,.v.v... tất cả đều là những khuyết điểm cơ bản của nó. Nhưng sau khi Thiên cơ hóa Khoa, có thể khiến cho những nghiên cứu trở thành thiết thực, mà còn có thiên hướng về khoa học kỹ thuật, toán học. Nhưng bất kể như thế nào, Thiên cơ hóa Khoa chỉ lợi về vạch kế hoạch, mà bất lợi về thực hành, cho nên có lợi nhất khi trở thành vai trò người tham mưu hay người cố vấn, hay môi trường các cấp cục, vụ, viện, phòng, ban, có chức năng tổng hợp và phân tích tin tức.

    Thiên cơ hóa Khoa còn có tính chất xu phụ quyền thế, thấy sang bắt quàng làm họ, hễ có cơ hội thì liền làm quen, đầu tư quan hệ rất nhiều với những người nổi tiếng hay người có vị thế quyền lực cao, để bản thân cũng được nhiều người biết.

    Lúc Thiên cơ hóa Khoa có tứ Sát tinh đồng độ, thì thích hợp nghiên cứu về khoa học tự nhiên như toán lý, khuynh hướng công nghệ thông tin, máy tính,.v.v... cuộc sống thường ngày cũng hay bộc lộ tính cách hướng theo những trào lưu mới.

    Thiên cơ hóa Khoa có sao Văn hoặc sao "Không" đồng độ, thì có khuynh hướng tìm đến những vấn đề thần bí, nên thích hợp nghiên cứu tôn giáo, triết học, thuật số, hay những bộ môn học thuật mang tính "tương cận."

    Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Cự môn sẽ đồng thời hóa Kị. Tam phương hội cung có Thái âm độc tọa cũng hóa Lộc ở cung Sự nghiệp, và "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài. Đây là kết cấu tinh hệ hội tụ đủ tứ hóa diệu.

    Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị, cho nên tính chất của "Lộc Quyền Khoa hội cách" sẽ phát huy biến thành cách "dùng lời nói để kiếm tiền". Cự môn ở cung Ngọ thì Thái dương ở cung Tuất không có năng lực giải "ám". Cự môn ở cung Tý thì Thái dương ở cung Thìn, lại có năng lực giải "ám" khá tốt. Do đó có thể nói Thiên cơ hóa Khoa ở cung Tý chuốc nhiều thị phi hơn ở cung Ngọ. Nhưng ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" thì ở hai cung đều như nhau.

    Phàm là Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, cần phải quan sát nhóm sao "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Tài bạch, xem chúng có năng lực sáng tạo hay không?, hay có sắc thái lưu lạc, rời xa người thân hay không?. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của Thiên cơ hóa Khoa ở cung Mệnh.

    Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương, có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Tam phương hội hợp là Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp, và Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch.

    Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp và hội với Sát tinh, Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung này chỉ thích hợp với những ngành nghề như công nghệ, quảng bá. kế, thiết kế. Có điều là dù trước hay sau, thì vẫn thiếu khí khái của người "một mình đảm trách công việc".

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, có lúc chỉ là biểu hiện khi được xu nịnh ắt sẽ trổ tài vặt. Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ cũng có tính chất này, nhưng biểu hiện khá tốt, hơn nữa còn có nhiều điểm mang lại lợi ích thực tế, còn Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi thì không được như vậy.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hau cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Lộc. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Lộc".

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Cự môn đồng thời hóa Kị, lại còn gặp Sát tinh. Tam phương hội hợp có Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch, và phải vay mượn mượn tinh hệ "Thái dương Thái âm" để nhập cung Sự nghiệp, có Thái âm hóa Lộc.

    Tinh hệ kết cấu dạng này cũng tụ lập đủ tứ hóa diệu, nhưng do Thiên cơ và Cự môn đồng độ, có Hóa Khoa và Hóa Kị cùng bay đến, do đó có khác với Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Ngoại trừ việc phải nhấn mạnh tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền" ra, thì vẫn rất khó tránh khỏi thị phi, hao tâm tổn thần, phải vất vả nói năng cũng là đặc trưng của nó.

    Tinh hệ này cũng có sắc thái trôi nổi, không thiết thực, cho nên nhất là phái nữ không nên có mệnh cục này thủ Mệnh.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tổ hợp sao này, cần phải đề phòng điều tiếng thị phi, "khoa trương" và "điều tiếng" sẽ cùng đến, nhất là "khoa trương" có tính chất xu phụ thường bị người ta chỉ trích.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên cơ hóa Khoa, tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, trong đó chia nhau một hóa Quyền một hóa Lộc, và phải bị vay mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp, mà Cự môn lại hóa Kị.

    Nhóm tinh hệ này cũng hội đủ tứ hóa diệu, nhưng do cung Sự nghiệp bị buộc phải vay mượn "Thái dương Cự môn" có Cự môn hóa Kị, cho nên ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" càng mang đậm sắc thái này, khi theo những ngành nghề luật sư, pháp luật, pháp lý, tư pháp,.v.v... thì trái lại sẽ chủ về có danh vọng. Nếu theo nghiên cứu chuyên về học thuật, thì chỉ nên theo những ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ, đối với các ngành chuyên nghiệp mang tính chuyên sâu cao sẽ rất khó thâm nhập.

    Do Thiên cơ hóa Khoa, cũng có thể làm công tác kế hoạch, lập chương trình, vẫn phù hợp với sắc thái "miệng lưỡi", như lập chương trình quảng bá, quan hệ công cộng, nghệ thuật biểu diễn,.v.v...

    Tinh hệ này bất lợi về hôn nhân, thường chủ về thông hôn với người ở nơi xa (do phải đi việc ở nơi xa mà nảy sinh tìm cảm) hay với người ngoại quốc, hoặc chủ về gia thế của người phối ngẫu không tương xứng, mà người phối ngẫu cũng có sắc thái "dùng lời nói để kiếm tiền" tương hợp.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cần phải chú ý cung "Thái dương Cự môn" đồng độ, xem có gặp các sao Hình Hao hay không? nếu có, thì có thể vì kế hoạch sai lầm mà chuốc điều tiếng thị phi rất nghiêm trọng.

    Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ đồng thời có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Lộc. Tam phương hội cung có "Thiên đồng Cự môn" ở cung Tài bạch, phân ra một sao hóa Quyền một sao hóa Kị, và vay mượn "Thái dương Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.

    Nhóm tinh hệ này có cách cục cao hay thấp, là do tính chất của Thái dương và Thiên lương đồng độ quyết định, ở cung Mão thì tốt hơn ở cung Dậu, sẽ gây ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Tị cũng tốt hơn cung Hợi.

    So sánh hai cung độ, thì cung Hợi chỉ chủ về hư danh, cung Tị được thiết thực hơn. Tam phương hội "Thiên đồng Cự môn", nên không chủ về "dùng lời nói để kiếm tiền", mà chỉ chủ về "có điều thầm kín khó nói về tình cảm" ràng buộc rất sâu đậm.

    Tinh hệ này biểu trưng cho hiện tượng "chậm phát", nhất là ở cung Hợi thì càng nghiệm. Then chốt chủ yếu là ở vận trình Phá quân nhập cung Mệnh của vận hạn. Do vì Thiên cơ có tính chất hiếu động, trôi nổi, còn Phá quân thì chủ về khai sáng, có thể khai sáng thành công hay không? phải xem các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp mà định.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thông thường chủ về danh dự và tài lộc song thu, nhưng phải không gặp các sao Sát - Hình thì mới đúng.

    25- Thái Dương - can Mậu hóa Khoa

    Thái dương chủ về "Quý" nên ưa hóa Khoa. Có điều phải ở cung miếu vượng mới chủ về có danh dự và địa vị trong xã hội. Nếu Thái dương hóa Khoa nhập cung hãm địa, thì chỉ có hư danh, nhất là dễ vì chính cái "hư danh" mà bị gây liên lụy.

    Hóa Khoa làm tăng năng lực hướng ngoại của Thái dương, do đó thường làm người ta để ý và đố kị. Vì vậy, cần xem xét cung Huynh hệ và cung Giao hữu gây ảnh hưởng như thế nào đến mệnh tạo? sẽ quyết định là Cát hay là Hung đối với Thái dương hóa Khoa thủ Mệnh.

    Nếu Thái Dương hóa Khoa hội Thiên lương, mà còn có các sao Sát - Kị - Hình hội chiếu, thì cổ nhân định lệ đây là tổ hợp tinh hệ "phục độc" (dùng độc dược). Ở thời hiện đại, có thể nhuyễn hóa thành sử dụng ma túy, mua bán ma túy, hoặc bị bệnh mà uống nhầm thuốc, thậm chí phác đồ điều trị còn bị sai lầm. Cần phải quan sát toàn Cục để định tính chất cụ thể.

    Thái Dương thủ Mệnh hóa Khoa, cung Phúc đức ắt sẽ là Thiên Cơ hóa Kị, do đó có thể biết, khi cầu danh sẽ bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt tinh thần. Lúc luận đoán nên xem xét tính chất của tình trạng bị quấy nhiễu gây khó khăn này. Kết cấu tốt nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt nghiên cứu học thuật. Kết cấu xấu nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn do điều tiếng thị phi.

    Chỉ khi gặp Văn Xương và Văn Khúc giao hội, thì Thái Dương hóa Khoa mới có lợi về "điển thí", cổ nhân gọi đây là cách "đan trì". Nhưng dù không gặp Xương Khúc, thông thường Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về thông minh, nhân sinh đắc ý là do cảm giác thành tựu và được nhiều người biết đến mà có.

    Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Lương xung chiếu, tam phương tương hội Cự môn độc tọa ở cung Sự nghiệp, và phải mượn "Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài bạch để hội hợp, mà Thiên Cơ hóa Kị và Thái Âm hóa Quyền.

    Thái Dương sau khi hóa Khoa, sẽ làm mạnh thêm năng lực giải "ám" của Cự Môn và bản chất "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương, đồng thời còn mang lại danh tiếng. Nhưng những tác dụng này, lại có sự khác nhau giữa hai cung Tý và Ngọ.

    Thái Dương hóa Khoa ở cung Tý, tác dụng lớn nhất chỉ là giảm bớt tính "thị phi" của Cự Môn và giảm bớt tính "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương. Ví dụ như tính chất bất lợi ban đầu đối với người cha có thể là "tử biệt", thì sau khi Thái dương hóa Khoa sẽ biến thành "sinh ly", còn tác dụng mang lại tiếng tăm thì chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.

    Thái Dương hóa Khoa ở cung Ngọ, cũng có thể giảm bớt tính "thị phi" và tính "cô độc và hình khắc" của Cự môn và Thiên lương, nhưng tác dụng lớn nhất mang lại đó là danh tiếng có tính chất quảng đại công chúng. Có điều, lúc nổi tiếng sẽ làm cho sự nghiệp có vẻ lớn lao, nhưng thực ra bên trong lại trống rỗng. Đây chính là khuyết điểm của Thái Dương hướng ngoại một cách thái quá.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà có Thái dương hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa quyền".

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Khoa, tam phương tương hội mượn "Thái âm Thiên đồng" có Thái âm hóa Quyền để nhập cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" để nhập cung Tài bạch có Thiên cơ hóa Kị. Tổ hợp tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

    Thái Dương hóa Khoa ở hai cung này, tác dụng chủ yếu chỉ làm tăng mạnh sức thuyết phục của ngôn từ, và khiến cho Hóa Kị của tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Tài bạch chủ về lao tâm tổn thần, mà không chủ về "thị phi" hoặc phạm sai lầm, do đó cũng làm mạnh thêm tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền".

    Tinh hệ này có lúc còn biểu trưng cho "thiên tài về ngôn ngữ", chủ về học nói tiếng nước ngoài và tiếng địa phương khác rất dễ dàng (nhưng chỉ về "nghe nói", chứ không phải "đọc viết" tiếng nước ngoài).

    Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tinh hệ này, cần chú ý đến cơ hội khi thuyết phục người khác, và thường thường nhờ vào đó mà gặp được hoàn cảnh thuận lợi.

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái Dương hóa Khoa (Mệnh ở cung Dậu có thể gặp Lộc Tồn ở cung Tị). Tam phương tương hội với Thái Âm hóa Quyền ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

    Kết cấu tinh hệ này chỉ chủ về làm tăng độ danh tiếng, và khiến cho phạm vi nổi tiếng mở rộng. Ví dụ như một vị Giáo sư, danh tiếng của ông vốn chỉ được biết đến trong nội bộ, nhiều lắm cũng chỉ được biết đến trong giới học thuật. Nhưng khi gặp Thái Dương hóa Khoa lại có thể khiến cho danh tiếng của ông lan tỏa rộng ra xã hội, cho dù không phải là người trong nghề, thậm chí không ở trong giới học thuật, cũng biết có vị giáo sư này. Đây là tác dụng của Thái Dương hóa Khoa.

    Thái Dương hóa Khoa ở cung Mệnh tương hội Thái Âm hóa Quyền, thì Thái Âm không còn chủ về "tài khí", mà chỉ chủ về lợi ích do danh tiếng mang lại, còn Hóa Quyền chỉ làm tăng tính ổn định của nó.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường có lợi về thi cử, hoặc có lợi khi cạnh tranh, nhờ vào đó mà mang lại lợi ích (ví như đoạt giải thưởng).

    Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Quyền, tam phương tương hội với Cự môn độc tọa ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.

    Hai cung Thìn và Tuất vốn là "Thiên la Địa võng", khi Thái Dương hóa Khoa thì không cần đột phá, đối với ánh sáng chói lọi của Thái Dương thì "thiên la địa võng" cũng không thể làm lu mờ. Vì vậy thường thường có cơ hội thoát ra khỏi những cảnh ngộ không hay.

    Thái dương ở cung Thìn là mặt trời mọc, lúc Hóa Khoa thì càng thêm chói lọi, cho nên những biểu hiện mong muốn bộc lộ ra bên ngoài được thuật lợi và dễ dàng hơn, nhưng cũng dễ chuốc lấy đố kị. Thái dương ở cung Tuất là mặt trời lặn về Tây, dù có Hóa Khoa, thì muốn biểu hiện cũng chỉ được cái nhỏ, hơn nữa những cái mong muốn biểu hiện này, cũng chỉ thuộc về hư danh. Vì vậy cũng chỉ có thể lợi dụng vào hư danh để mưu cầu phát triển.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chỉ chủ về có những biểu hiện được bộc lộ ra bên ngoài và nhờ vào đó mang lại lợi ích.

    Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng cung hoặc vây chiếu, đối cung là Cự Môn. Tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa hóa Quyền ở cung Quan, và hội hợp với Thiên lương độc tọa ở cung Tài bạch.

    Do đối nhau với Cự Môn, nên Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về "thiên tài ngôn ngữ", nhưng lại không chủ về ngôn từ có sức thuyết phục, chỉ biểu hiện là giỏi biện luận. Nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể phát triển thành tài ăn nói ở các phương diện như ca xướng, người điều khiển dẫn chương trình, nghệ thuận biểu diễn,.v.v...

    Thái dương hóa Khoa ở cung Tị thì thanh danh khá thực tế, hóa Khoa ở cung Hợi thì chỉ có hư danh (ví dụ như giáo sư thâm niên, thanh danh vốn chỉ nhờ lâu năm, chứ không phải nhờ có biểu hiện đặc biệt).

    Cự Môn đồng thời còn mang lại điều tiếng thị phi, khi Thái Dương hóa Khoa ở cung Tị cũng được hóa giải một cách dễ dàng hơn.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, cũng chủ về có biểu hiện lý tưởng, và nhờ vào đó mà thu được lợi ích.

    26- Thiên Lương - can Kỷ hóa Khoa

    Thiên lương là sao sang quý, Hóa Khoa khá hợp với khí chất của nó. Vì vậy có thể làm mạnh thêm khí chất hành động một mình, tuyệt đối không bị cuốn theo dòng nước.

    Thiên Lương hóa Khoa còn làm tăng thêm trí tuệ, khiến khả năng lãnh ngộ có thể được tăng lên, do đó cũng làm tăng năng lực quan sát, nên cũng có lợi về thi cử, nhất là phạm vi thi cử chuyên nghiệp.

    Sau khi Thiên Lương hóa Khoa, lại có nguy cơ tự sùng bái cá nhân mình, vì vậy chẳng thể mang lại lợi ích một cách thực tế, hoặc chỉ thu được lợi ích một cách có giới hạn.

    Thiên Lương vốn có bản chất "tiêu tai giải nạn", sau khi Hóa Khoa, bản chất này càng rõ nét, có thể chuyển nguy thành an khiến cho vấn đề được giải quyết tận gốc, từ đó quét sạch những phiền phức kéo dài lâu ngày. Ví dụ người hay bị đau dạ dày, vì bị xuất huyết nên được điều trị triệt để, nhờ vậy không bị đau dây dưa nữa.

    Lúc Thiên Lương "tiêu tai giải nạn", thường thường khó tránh phải dùng biện pháp mạnh, khiến cho người ta cảm thấy đau khổ. Nhưng sau khí Hóa Khoa, biện pháp sẽ ôn hòa, đau khổ cũng ít hơn.

    Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh thích hợp với những ngành về y học, trị liệu, công tác xã hội, đây là mưu sinh bằng cách "tiêu tai giải khó" cho người khác, nhờ vậy cũng giảm bớt những khó khăn của bản thân.

    Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Thái Dương vây chiếu, tam phương tương hội có Thiên đồng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và "Thiên cơ Thái âm" ở cung Tài bạch. Thiên Lương ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, vì vậy có thể thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

    Người thành cách "Dương Lương Xương Lộc", do Thiên Lương hóa Khoa sẽ làm mạnh thêm bản chất "Dương Lương Xương Lộc". Cho nên có lợi về thi cử, có lợi về cạnh tranh. Dù không gặp Văn xương Văn khúc mà không thành Cách, thì vẫn có lợi về thi cử và cạnh tranh, nhưng mức độ thì không bằng người thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

    Tinh hệ này cũng thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh vốn đã có bản chất phục vụ, một khi có địa vị xã hội cao tất nhiên sẽ rất quý danh dự, chỉ ngại nhất khi xử sự trong quan hệ giao tế, lại thường sử lý quá nguyên tắc một cách không cần thiết.

    Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên Cơ, tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch, và Thái Dương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Cung độ của thiên Lương ắt sẽ gặp Kình Dương.

    Thiên Lương bị ảnh hưởng của Thiên Cơ ở đối cung, tâm trạng vốn không ổn định, sau khi hóa Khoa tâm trạng sẽ biến thành ổn định.

    Do Thái Dương và Thái Âm cùng chiếu, có lúc sẽ khiến Thiên Lương biến thành hay do dự hoặc ở trong tình cảnh phải lưỡng lự.

    Nhưng vì ảnh hưởng của Kình Dương, khi Thiên Lương hóa Khoa nhiều khi sẽ biến thành không câu nệ vào nguyên tắc, cho nên không tốt bằng Thiên Lương hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội Thiên cơ độc tọa ở cung Sự nghiệp, và Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch. Đây là cách thuần túy "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Dần được hội Lộc tồn.

    Do Thiên Lương đồng độ với Thiên Đồng, khiến cho Thiên Lương hóa Khoa tăng thêm phong cách cá nhân, hoặc có phong thái tiêu sái của bậc danh sỹ, cho nên rất thích hợp làm cố vấn, có địa vị mà không cần phải làm hay phụ trách công tác thực tế, hoặc thích hợp với những nghề nghiệp tự do có tính chuyên nghiệp.

    Nếu gặp Văn Khúc hóa Kị cùng bay đến, có thể là văn sỹ giang hồ hay "hào môn thanh khách" (kẻ làm khách của nhà giầu thời xưa).

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội có Thái âm độc tọa ở cung Tài bạch, mượn "Thiên đồng Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp. Kết cấu này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh, không cần thành cách "Dương Lương Xương Lộc" đã có tính chất cạnh tranh, đồng thời do Thiên Lương sau khi hóa Khoa đã giảm bớt tính "cô độc và hình khắc", vì vậy sức mạnh của Thái Dương càng được phát huy, giúp cho sự tăng thanh danh và biểu hiện bản thân.

    Tinh hệ này thích hợp cho giới nghiên cứu học thuật, bởi vì bản thân "Thái dương Thiên lương" đã có sắc thái giữ nguyên tắc, mà nghiên cứu học thuật là xác lập nguyên tắc hoặc xác lập định nghĩa. Cho nên "Thái dương Thiên lương" không thiên về văn nghệ, dù gặp Văn Xương cũng chỉ nâng cao năng lực lý giải và khảo cứu.

    Nếu có Văn Khúc hóa Kị đồng độ, thì nên nghiên cứu học thuật một cách khách quan, nếu không ắt sẽ nảy sinh nhiều tranh luận.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Lương hóa Khoa (ở cung Tuất được hội Lộc tồn), tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, vay mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

    Do đồng độ với Thiên Cơ, với tính chất do dự và không ổn định, cho nên tinh hệ này trái ngược với tinh hệ "Thái dương Thiên lương" chủ về hướng ngoại mà không hướng nội. Vì vậy thích hợp với ngành nghề như quảng bá, quan hệ công cộng, ngoại vụ,.v.v... Hóa Khoa chủ về "danh khí", giúp cho biểu hiện về công việc.

    Nếu theo những ngành nghê như nội vụ, quản lý, thiết kế,.v.v... thì cần phải phát huy phong cách cá nhân một cách đầy đủ, thì mới có thành tựu.

    Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Thiên Đồng, tam phương hội "Thái dương Thái âm" ở cung Tài bạch, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp. Cung Mệnh ắt dẽ gặp Đà La.

    Tinh hệ này có kết cấu phức tạp, cho nên sắc thái quảng bá và văn nghệ giảm nhiều, tính chất của Thiên lương nhuyễn hóa thành mạo hiểm. Hóa Khoa chỉ làm tăng danh vọng trong nội bộ, không nên dương danh ở bên ngoài, nếu không ắt sẽ mang lại tai nạn và nguy hiểm.

    Nhưng do Thiên Lương hóa Khoa, nên cho dù có tai ách cũng dễ chịu đựng, còn có thể chuyển "nguy" thành "an".

    28- Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

    Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

    Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

    Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

    Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

    Các tính chất còn lại tham khảo ở mục "Văn Xương hóa Khoa"

    29- Thiên Phủ - can Nhâm hóa Khoa

    Phái Trung Châu định lệ Thiên Phủ hóa Khoa, còn các phái khác thì Thái Dương và Thiên Phủ không hóa Khoa, mà thay vào đó là Tả phụ và Hữu bật.

    Sự truyền thụ nào thì cũng có nguồn gốc lịch sử của nó, do đó tốt nhất là giải quyết theo cách: để cả hai thuyết cùng lưu truyền tùy theo môn phái.

    Thiên Phủ hóa Khoa có uy tín như giới ngân hàng, uy tín là điều tối trọng yếu của ngân hàng, cho nên phái Trung Châu cho rằng khi Thiên Phủ hóa Khoa cũng không phải là vô lý.

    Do đó, ý nghĩa của Thiên Phủ hóa Khoa cực kỳ đơn giản, nó không giống như các Sao khác, thông thường sau khi Hóa Khoa sẽ có bản chất "lưỡng trùng", đó là vừa cải thiện khuyết điểm, vừa làm tăng năng lực cho sự biểu hiện. Nhưng bản chất của Thiên Phủ hóa Khoa chỉ có một, đó là làm tăng mức độ của uy tín. Thực ra đây cũng đã bao gồm bản chất "lưỡng trùng" đã thuật ở trên. Bởi vì "kho tiền" mà có uy tín thì đương nhiên phải rất ít khuyết điểm, đồng thời phải có biểu hiện tốt thì mới tạo dựng được uy tín.

    Cho nên, Thiên Phủ thuộc vào loại "kho trống", "kho lộ" vốn chủ về gian xảo, nhưng sau khi hóa Khoa, thì dù là "kho lộ" hay "kho trống", cũng biến thành không thể gian xảo.

    Tinh hệ "Vũ khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Vũ khúc ắt sẽ hóa Kị, còn đồng độ với Kình dương hoặc có Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội là Liêm trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Tử vi hóa Quyền.

    Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Vũ Khúc hóa Kị chủ về "nhập xuất" tài chính gặp khó khăn và nhiều nan giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được người ta tín nhiệm, do đó kinh doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến thành mối quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ thích hợp làm việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được thượng cấp tin tưởng đề bạt. Có điều không nên ở vị trí cao nhất, nếu không sẽ dễ thất bại. Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi công việc có tính liều lĩnh, mạo hiểm có hệ số nguy hiểm cao.

    Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về hôn nhân, thường ít có lạc thú phòng the đối với chồng (nhưng vẫn thích lạc thú phòng the đối với nhân tình).

    Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là "Liêm trinh Thất sát", tam phương tương hội là Thiên tướng ở cung Sự nghiệp, và mượn "Tử vi Tham lang" nhập cung Tài bạch để hội cung mà Tử vi hóa Quyền.

    Do Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ về tốt, vì ảnh hưởng của "Tử vi Tham lang" ở cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu thuẫn. Có trí tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế, nhưng vẫn giữ tác phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ "tín".

    Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ có lợi khi ở địa vị " cấp phó". Thích hợp với những nghề mang tính chuyên nghiệp, trong lúc làm việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều trợ lực.

    Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm tinh hệ này là rất quan trọng, thường thường sẽ biểu hiện khi đến các cung hạn như "Từ vi Tham lang", "Vũ khúc Phá quân", "Liêm trinh Thất sát", những hành động thuộc hậu thiên ở vào thời điểm này, có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn biến thực tế.

    Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này cũng có khuyết điểm, nhất là nữ mệnh, hoặc người phối ngẫu có những khiếm khuyết đáng tiếc, nên dốc tâm vào việc giáo dục con cái.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có những bản chất đã thuật ở trên, nhưng nên lưu ý đến cơ hội thăng chức, hoặc nguồn tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận thế thuận lợi toại ý nhưng vẫn rất bảo thủ.

    Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên phủ hóa Khoa thì Tử vi ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung với Vũ khúc hóa Kị độc tọa ở cung Tài bạch, và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp.

    Khi Tử vi và Thiên phủ đồng độ, thì sức mạnh của Thiên Phủ thường khó phát huy, có lúc biến thành gây liên lụy phản tác dụng. Nhưng trong kết cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh, tức có sao Lộc mà còn Hóa Khoa, sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử vi tuy bị giảm thấp, nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định. Tinh hệ này có sở trường thích bàn luận về chính trị, binh pháp.

    Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về không hợp tính cách với người phối ngẫu, nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối quan hệ hôn nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm kín.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chủ về được tăng quyền lực một cách thầm kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng lên.

    Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát tinh, đối cung là "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, tam phương tương hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Liêm trinh Tham lang" để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được gặp Lộc tồn.

    Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng "Liêm trinh Tham lang" ở cung Phúc đức thường thường lại khiến mệnh tạo phải rời xa quê hương mới phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột ngột. Nếu cố thủ ở nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp phát triển nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp, nên thường ở vào tình cảnh bị ép phải tham gia những cuộc thù tạc giao tế mà bản thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn, do đó tạo thành những phiền phức khó xử trong lòng.

    Cung Thiên Di có "Vũ khúc Thất sát" mà Thiên phủ hóa Khoa tương hội, cho nên sau khi trải qua gian khổ ở xứ người, thì có thể tạo dựng được sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay chuyển được tình thế công việc đúng lúc cần thiết nhất, đây là đặc điểm của tinh hệ này khi Thiên Phủ hóa Khoa. Ngoài ý vị thích hợp với những ngành nghề mang tính mạo hiểm có mức độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ thường, ở lại quê nhà thì không nên tự kinh doanh làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân viên hưởng lương.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, không nên mở rộng việc kinh doanh làm ăn, chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ vang.

    Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên phủ hóa Khoa, đối cung là Thất sát, (ở cung Thìn mệnh tạo được Lộc tồn hội chiếu), tam phương hội cung có Tử vi độc tọa ở cung Tài bạch, và "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Vũ khúc hóa Kị. Cung Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.

    Tinh hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.

    Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi nhất là các công việc hay nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp vụ ngân hàng, không được đầu cơ vì có đầu cơ thì cũng thất bại, nếu làm việc hưởng lương thì cũng không được quản lý tiền bạc.

    Về phương diện hôn nhân, thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ "ngó đứt mà tơ vương".

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, người kinh doanh làm ăn phải đề phòng vấn đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn, trắc trở về sự nghiệp.

    Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền, tam phương tương hội với Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Vũ khúc Tham lang" nhập cung Tài bạch có Vũ khúc hóa Kị.

    Tinh hệ dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần nhiều đều có thanh thế lớn bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may mà có tín dụng chống đỡ, nên vẫn có thể vững bước phát triển sự nghiệp.

    Thiên Phủ hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo "xu cát tị hung" là cần phải kinh doanh thiết thực và sống có tiết chế một cách thích đáng.

    Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở trên.

    30- Thái Âm - can Quý hóa Khoa

    Trong các tình hình thông thường, Thái Âm hóa Khoa là biểu trưng cho sự tu dưỡng phát triển tài năng "nhân văn", thiên hướng nghiêng về văn học nghệ thuật, khí chất nhàn nhã, thông minh tài trí.

    Thái Âm nhập miếu mà Hóa Khoa, còn chủ về uy tín và danh tiếng, nếu có Văn tinh hội hợp, ắt sẽ xuất thân từ điển thí mà có Danh; nếu có các Sao đào hoa hội hợp, thì danh tiếng thuộc lĩnh vực giải trí, vui chơi, văn nghệ biểu diễn; nếu có các Sao tiền tài hội hợp, thì có danh vọng và uy tín trong giới làm ăn kinh doanh.

    Thái Âm lạc hãm mà Hóa Khoa, ắt sẽ mang lại khuyết điểm, như bất lợi đối với người thân phái nữ, vẫn có những tính chất giống như nhập miếu mà Hóa Khoa, nhưng danh vọng thì nhỏ hơn.

    Nữ mệnh gặp Thái Âm hóa Khoa thì thích hợp hơn nam mệnh, có thể làm tăng tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, quan tâm chăm sóc đến gia đình nhiều hơn, đối với nam mệnh thì giảm bớt tính cách hướng nội mà tăng khả năng hướng ngoại.

    Thông thường, Thái Âm hóa Khoa cũng có lợi về hôn nhân; nam mệnh lấy được vợ xinh đẹp; nữ mệnh lấy được chồng có năng lực làm việc, quan tâm chăm sóc đến vợ con hơn, hoặc chồng có tài hoa chói lọi. Nhưng Thái Âm hóa Khoa thì Tham Lang ở cung Phụ Mẫu ắt sẽ hóa Kị, là biểu trưng cho hiện tượng thông thường "tài cao thì chuốc đố kị". Cho nên cần phải quan sát các đại hạn xem có rơi vào tình huống bị áp chế hay không? Nếu thấy gặp phải nhiều tình huống này, thì có tài mà không gặp thời.

    Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu; tam phương tương hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.

    Trong tinh hệ này, Thái Âm hóa Khoa có sao Lộc là kết cấu tốt lành, nếu lại được Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, thì đây là cách "Lộc Văn củng mệnh", chủ về có vợ đẹp, khoa cử công danh thuận lợi. Ở thời hiện đại thì thích hợp nghiên cứu học thuật.

    Người có tinh hệ này thủ Mệnh, nam chủ về phong thái nho nhã, nữ chủ về thích trang điểm làm đẹp. Cho nên đều tạo được "hảo cảm" với người khác, nếu có tinh thần sung mãn thì toàn mỹ.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chủ về tài lộc thuận lợi toại ý, nhưng không biểu trưng cho việc sáng lập sự nghiệp.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội với Kình dương Đà la; tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.

    Do Thái Âm đồng độ với Thái Dương, nên lực của Hóa Khoa có biểu hiện kém hơn, không hiển hách bằng Thái Dương hóa Khoa, vì vậy chỉ có hư danh về mặt danh nghĩa, mà không có lợi ích thực tế.

    Thái Dương ở cung Sửu có sức ảnh hưởng nhỏ, do đó Thái Âm hóa Khoa ở cung Sửu tốt hơn ở cung Mùi, ở cung Sửu khi Thái âm hóa Khoa sẽ được thực tiễn hơn. Mượn "Thiên cơ Cự môn" để hội hợp mà Cự Môn hóa Quyền, cho nên thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền", có thể phát huy năng lực phục vụ của tài nói chuyện.

    Nhưng nữ mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này thì bất lợi về hôn nhân, đối với nam mệnh có thể mượn lực của Thái Âm hóa Khoa để bổ khuyết.

    Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Âm hóa Khoa (ở cung Thân còn hội Lộc tồn). Tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp.

    Trong tổ hợp này, nếu Thái Âm không Hóa Khoa, thì đây là mệnh rời xa quê hương, sau khi Hóa Khoa sẽ khiến cho bản chất vốn hiếu động trôi nổi của hai sao Thiên cơ và Thái âm trở thành ổn định, có thể phát triển ở bản địa, mà còn tạo lập được danh tiếng. Có điều, nguồn tiền tài vẫn gặp nhiều sóng gió, trắc trở, ở cung Thân thì tốt hơn.

    Thái Âm hóa Khoa làm mạnh thêm sắc thái thích hợp về công việc nội vụ, vì vậy nên làm về ngạch hành chính.

    Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, Thái Âm sau khi Hóa Khoa đều có thể cải thiện tính chất vốn bất lợi ở cung Phu Thê.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về được người ta tán thưởng những biểu hiện của bản thân mệnh tạo, quan trọng nhất là nắm bắt được cơ hội để phát vượt lên.

    Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thiên Đồng; tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Kết cấu tinh hệ này, "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

    Thái Âm hóa Khoa ở cung Mão không bằng ở cung Dậu, vì ở cung Mão thì lạc hãm, và không thành cục "phản bối" (không gặp sao Lộc, Thái dương ở cung Hợi lại đồng độ với Đà la). Cho nên Thái Âm hóa Khoa ở cung Dậu dễ được người ta trọng dụng, còn ở cung Mão thì trở thành tự sùng bái cá nhân mình.

    Tinh hệ có một ưu điểm, bất kể ở cung Mão hay ở cung Dậu, đều chủ về làm tăng phong thái của mệnh tạo, có phong cách cá nhân đặc biệt. Nhưng ở thời hiện đại, nhóm sao này, lại thường có khuynh hướng "đồng tính luyến ái", khi Thái Âm hóa Khoa sẽ làm tăng lực hấp dẫn càng mạnh thêm.

    Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về tâm tình vui vẻ.

    Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn gặp Lộc tồn), gặp Thái Dương ở đối cung độc tọa; tam phương tương hội với Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài bạch, và "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Sự nghiệp.

    Thái Âm nếu không hóa Khoa, thì ở cung Tuất ưu hơn ở cung Thìn. Nhưng sau khi Hóa Khoa có thể chủ về nắm quyền về hình pháp, quân đội hay cảnh sát, ở cung Tuất vẫn tốt hơn.

    Thái Âm hóa Khoa ở cung Tuất thì cung Di là Thái dương ở cung Thìn, hội Lộc tồn và chia ra một sao Hóa Quyền một sao Hóa Khoa, kết cấu này vận trình sáng sủa hơn xa Thái Âm ở cung Thìn, vì vậy nên rời xa quê hương để phát triển chủ về dễ được quý hiển. Đây là sự khác biệt rất quan trọng giữa hai cung Thìn và Tuất.

    Nhưng bất kể trong tình huống nào, Thái Âm ở "thiên la địa võng" đều ưa Hóa Khoa, có thể đột phá "thiên la địa võng" mà tỏa ánh sáng, dẫn tới đời người ắt sẽ có biểu hiện tốt, hơn nữa còn có thể cải thiện sự bất lợi về hôn nhân.

    Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Đà la đồng độ hoặc hội Kình dương Đà la; đối cung với Thiên Cơ, tam phương hội hợp với "Thái dương Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Tài bạch có Cự môn đồng thời hóa Quyền.

    So sánh hai cung, ở cung Tị không bằng ở cung Hợi, Hóa Khoa chỉ hơi cải thiện khuyết điểm lúc lạc hãm. Ở cung Hợi có thể theo ngành nghề chuyên về kế hoạch, vạch kế sách, thiết kế, phần nhiều đều có biểu hiện tốt, cũng thích hợp với kế hoạch tài vụ, có thể thành danh.

    Nhưng Thái Âm ở hai cung này đều rất dễ xảy ra đau khổ vì tình, nhất là nữ mệnh gặp Thái âm thủ Mệnh ở cung Tị, thường thường nỗi đau khổ trong lòng suốt đời sẽ không thể quên

    Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, ở cung Hợi thì có lợi ích thực tế, ở cung Tị thì chỉ được hư danh.

    31- Thái Dương - can Giáp hóa thành sao Kị

    Lúc Thái Dương và Thái Âm hóa Kị đều có biểu hiện tổn hại các mối quan hệ nhân tế. Thái Dương chủ về người thân phái nam, Thái Âm chủ về người thân phái nữ.

    Ở một phương diện khác, do Thái Dương chủ về "quý", Thái Âm chủ về "phú". Cho nên Thái Dương hóa Kị sẽ gây ảnh hưởng đến địa vị, ví dụ như bất hòa với thượng cấp, bị thượng cấp đè ép. Thái Âm hóa Kị thì ảnh hưởng đến tài lộc, ví dụ như vì ly hôn mà tổn thất tiền của.

    Về phương diện tổn hai nhân tế, biểu hiện cụ thể bao gồm: ly biệt, bệnh tật mà chết, thị phi, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau, kiện tụng,.v.v...

    Về phương diện sự nghiệp, biểu hiện cụ thể là lo lắng mất ăn mất ngủ và tranh chấp.

    Thái Dương ở cung lạc hãm rất ngại hóa thành sao Kị, lúc miếu vượng thì có tốt hơn. Lấy bất lợi về Cha để làm ví dụ, miếu vượng thì có thể là "sinh ly", lạc hãm thì có thể chuyển thành "tử biệt", hoặc có hai dòng Họ (vì cha mất, mẹ có chồng khác).

    Do Thái Dương chủ về "quý", cho nên lúc Hóa Kị còn chủ về danh dự bị tổn hại. Theo quan điểm của cổ nhân, phụ nữ lấy "trinh liệt" làm danh dự, cho nên Thái Dương hóa Kị thường chủ về bị lừa dối về tình cảm, hoặc bị kẻ cường bạo cưỡng hiếp.

    Thái Dương cũng đại biểu cho sức khỏe của bản thân, khi Hóa Kị thì sức khỏe không tốt, cần xem xét các tổ hợp tinh hệ mà định tính chất cụ thể.

    Thái Dương hóa Kị ở bản cung là cung độ ít gặp tai nạn nhất, chỉ chủ về dễ bị người ta áp chế làm cho tâm tình không vui. Nam mệnh cần lưu ý đại hạn thứ hai, dễ mang lại họa hoạn nhỏ, về sức khỏe nên phòng bệnh tim mạch và bệnh về mắt.

    Thái Dương hóa Kị ở cung Tý là lạc hãm, hóa Kị có tính chất không tốt, nên giấu bớt tài năng, chọn sách lược thủ thành, hơi lộ sự sắc xảo lập tức bị trắc trở. Lúc chưa gặp thời cơ nên tự ngầm tu dưỡng (như tự bồi dưỡng trình độ để có cơ hội thăng chức, chuyển nghề). Về sức khỏe nên đề phòng bật tật ở mắt, đầu choáng mắt hoa, tuổi già đề phòng bệnh phủ tạng.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Sửu, khi gặp Thái Dương hóa Kị thì đời người lên xuống vô thường, tuổi trẻ ít có duyên với Cha, ít được thượng cấp quan tâm và đề bạt. Còn ngại có Đà La đồng độ, dễ biến thành tiêu cực, hoặc chần trừ lần nữa mà làm mất cơ hội. Nếu cung Phụ mẫu gặp Cát tinh, thì nên đề phòng vì đối với cha mẹ nuông chiều mà thành ỷ lại.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Dần, có Lộc tồn đồng cung, lúc Thái Dương hóa Kị chủ về đời người gặp nhiều điều tiếng thị phi, thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", cũng là Đạo "xu cát tị hung" vậy. Cuộc đời sau khi trải quan nhiều trắc trở mới ổn định, hơn nữa còn bị một trận tai nạn nghiêm trọng, và không có duyên với cha mẹ.

    Tinh hệ "Thái Dương Thiên lương" ở cung Mão, có Kình dương đồng độ, lúc Thái Dương hóa Kị là "biến cảnh", chủ về tuổi trẻ phải trải qua gian nan trắc trở mới thành hữu dụng, nhưng vẫn không có duyên với cha mẹ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp "biến cảnh" lại có lợi về cạnh tranh, có thể thắng lợi vào lúc cuối.

    Thái Dương hóa thành sao Kị ở cung Thìn, là rơi vào "Thiên la Địa võng", chủ về có khoảng ngăn cách giữa hai đời rất sau nặng, mà mệnh tạo còn phải tự lập không được Cha Mẹ che trở. Lúc trẻ còn gặp thêm Văn xương Văn Khúc hóa thành sao Kị ở lưu niên hay đại hạn, thường thường chủ về bỏ dở việc học hành.

    Thái Dương hóa Kị ở cung Tị, gặp Đà la, cũng chủ về dùng "lời nói để kiếm tiền".

    Thái Dương hóa Kị ở cung Ngọ, bất lợi đối với Cha, phần nhiều là "sinh ly" hay "tử biệt", còn khó được cấp trên tin tưởng đề bạt. Ngoài ra còn chủ về nội tâm tróng rỗng, dễ đau khổ về tình cảm. Sự nghiệp lớn lao nhưng trống rỗng. Theo đạo "tìm cát tránh hung" là phải phát triển một cách thiết thực, không được khoa trương, nhất là lúc đến đại hạn hoặc lưu niên có Thái Dương song hóa Kị, thường dễ bị thất bại. Về sức khỏe thì nên đề phòng bệnh tật ở mắt, huyết áp cao, tắc nghẽn mạch máu (vascular thrombosis), trúng phong.

    Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Mùi, có Kình dương Đà la giao hội, mà Thái âm lạc hãm còn Thái Dương thì lại hóa Kị, kết cấu này ít duyên phận với cha mẹ, gặp thêm Hỏa tinh Linh tinh thì dễ bị cha mẹ bỏ rơi. Nữ mệnh chủ về trưởng tử yểu mạng, hoặc sinh không đủ tháng, vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Thái Dương hóa Kị ở cung này, còn chủ về quan hệ giao tế phần nhiều không được như ý, cần phải tự tìm lối đi, không được sinh tâm lý ỷ lại.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Thân, có Lộc tồn vây chiếu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về hôn nhân bất lợi, cũng bất lợi về đời sống tình cảm. Nữ mệnh càng dễ bị đàn ông gây phiền lụy, nên kết hôn với người ở nơi xa hay người ngoại quốc. Về phương diện sự nghiệp có oán trách rất lớn, cho dù theo những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền" cũng gặp nhiều thị phi rắc rối không thể tự giải quyết, mức độ ảnh mang tính cộng đồng xã hội.

    Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về rất chủ quan và thiếu nguyên tắc, tuy có Thiên Lương hóa giải, cũng dễ vì tính chủ quan mà gây nên rắc rối rất phiền phức. Theo đạo "tìm cát tránh hung" thì nên theo nghiên cứu học thuật đối với bộ môn ít được chú ý, hoặc những nghề mà ít người làm, thì có thể thuận lợi toại ý hơn.

    Thái Dương hóa Kị ở cung Tuất là cung độ rất yếu, lúc còn nhỏ có thể "sinh ly" hay "tử biệt" với cha, đường đời nhiều gập gềnh, thường hay bất đắc trí. Về sức khỏe nên phòng bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh về mắt.

    Thái Dương hóa Kị ở cung Hợi chủ về không có duyên với cha mẹ, trước 30 tuổi cuộc đời nhiều chìm nổi, sau 30 tuổi mới phát vượt lên, thường thường có thể tay trắng làm lên. Về sức khỏe dễ mắc bệnh ở mắt và ở khoang miệng. Nữ mệnh không nên lấy chồng trong giới kinh doanh làm ăn, nếu không chồng dễ thay đổi tình cảm.

    32- Thái Âm - can ẤT hóa thành sao Kị

    Thái Âm hóa Kị, ý nghĩa phổ biến nhất là bất lợi đối với người thân phái nữ, nhất là ở cung vị lạc hãm thì càng đúng.

    Nói "bất lợi" ở đây, không nhất định là bệnh tật hay tử vong, có lúc chỉ biểu hiện là thiếu duyên phận với nhau, hai bên khó thông cảm cho nhau, hoặc vì hoàn cảnh khách quan mà hai bên ít có cơ hội gặp nhau. Cần phải xem xét kỹ các sao Sát - Hình - Kị hội hợp thực tế mà định.

    Gặp Thái Âm hóa Kị, cũng biểu trưng cho tình huống rắc rối về tình cảm, thường chủ về trong lòng có ẩn tình khó sử. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, Văn xương, Văn khúc, thì đây là điềm tượng tình yêu không bình thường, nam mệnh phần nhiều chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến ái".

    Thái Âm hóa Kị ở cung miếu vượng, thì ảnh hưởng đến tình hình lợi lộc, thường thường biểu hiện là trong đời người có một thời kỳ cảm thấy mình rất có tài mà không gặp thời. Nếu Thái âm hóa Kị ở cung lạc hãm, thì đây là điềm tượng không tốt; trái lại, sẽ ưa gặp Sát tinh "kích thích", chủ về có thể theo ngành công nghệ. Cổ nhân gọi là "thợ", nhưng ở thời hiện đại, cũng chủ về những ngành khoa học kỹ thuật.

    Thái Âm hóa thành sao Kị ở cung Tý, đồng độ với Thiên Đồng. Đối với nữ mệnh thì rất ưa trang điểm, chải chuốt, làm đẹp, nhưng tính cách điệu nghệ thuật không cao, thường dễ bị người ta phê bình cách thức trang điểm của bản thân đương số.

    Đối với nam mệnh thì có nội tài, dễ được người khác giới để mắt, nhưng lại thiếu duyên phận. Về hôn nhân, nam mệnh và nữ mệnh đều nên nhờ người giới thiệu, và nên kết hôn muộn, nếu không sẽ chủ về duyên phận không đủ.

    Khi gặp hoặc Văn xương, hoặc Văn khúc, thì thường là văn sỹ nghèo nàn, thất chí, nhưng cũng có chút thanh danh.

    Về sức khỏe phần nhiều chủ về bệnh ở mắt, như bệnh nốt ruồi bay, nếu có thêm các sao Sát Hình nặng, thì có thể bị mù.

    Thái Âm hóa Kị ở cung Sửu, là Thái âm và Thái dương đồng cung. Vì Thái Âm hóa Kị nên gây lụy cho Thái Dương, khiến tăng thêm vất vả khổ lụy, và không có duyên với cha mẹ.

    Cuộc đời và sự nghiệp có tính lưu động khá lớn, dễ thay đổi nghề, mà nghề thường thường cũng là loại "lao tâm tổn thần", cũng chủ về có lúc cuộc sống dễ chịu thì lại không có tinh thần làm việc, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp.

    Thái Âm hóa Kị ở cung Dần, là "Thiên cơ Thái âm" đồng độ với Đà la, Thiên cơ đồng thời hóa Lộc. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì tình hình tiền bạc trong tương lai khá nghiêm trọng. Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên cơ hóa Lộc".

    Thái Âm hóa Kị ở cung Mão, khá bất lợi về hôn nhân, tình hình dễ xuất hiện nhất là vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, nhất là đối với nữ mệnh, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì phần nhiều sự nghiệp chìm nổi thất thường, chỉ thích hợp làm công hưởng lương, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, tự kinh doanh làm ăn sẽ dễ xảy ra trắc trở và thất bại.

    Thái Âm rất ngại hóa Kị ở cung Thìn, hội Sát tinh, cần phải rời xa quê hương để phát triển, nếu ở bản địa sẽ gặp nhiều áp lực. Nếu có các sao Sát - Hình đồng độ, thì có lợi khi rời xa quê hương có thể làm những ngành nghê thủ công để mưu sinh, ở thời hiện đại có thể làm những nghề về khoa học kỹ thuật. Nam mệnh và nữ mệnh, hôn nhân đều bất lợi, nên kết hôn muộn.

    Thái Âm hóa Kị ở cung Tị, cũng nên chủ động rời khỏi quê hương để phát triển. Cung Di là Thiên cơ hóa Lộc hội Thiên mã, là cách "Lộc Mã giao trì", nếu xuất ngoại ắt sẽ sáng sủa phát đạt.

    Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, an Mệnh tại cung Tị này đều bất lợi đối với người thân phái nữ. Cho nên nam mệnh hôn nhân không tốt đẹp, thường thường phải tái hôn mới sống đến bạc đầu.

    Tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" đồng độ ở cung Ngọ, mà Thái Âm hóa Kị, cần phải xem xét tình hình của tinh hệ hội hợp mà định. Nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, sẽ chủ về rời xa quê hương, hoặc chủ về "song trùng phụ mẫu".

    Thái Âm hóa thành sao Kị ở bản cung, thường thường bị ảnh hưởng về sự nghiệp, chủ về có biên độ lên xuống thất thường rất lớn, vì vậy nên làm những công việc có tính thiết thực, cũng chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến ái" như Thái Âm hóa Kị ở cung Tý.

    "Thái Âm đồng cung với Thái Dương" ở cung Mùi, mà Thái Âm hóa Kị, còn Thái dương cũng bắt đầu ngả về chiều, cho nên bất lợi đối với cha mẹ, bất lợi nhất là người thân phái nữ. Nếu Sát tinh quá nặng, cũng chủ về Mẹ sống cảnh góa bụa.

    Người có tinh hệ này thủ Mệnh, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, thường thường đều có tính bên ngoài thì "cương" mà bên trong thì "nhu", cho nên phần nhiều đều gặp trắc trở về sự nghiệp và tình cảm (ngược lại: ngoại nhu nội cương?).

    "Thái âm Thiên cơ" đồng độ ở cung Thân, mà Thái Âm hóa Kị, cũng có tình hình "cọp mà ăn thức ăn của mèo". Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên Cơ hóa Lộc".

    Thái Âm hóa Kị ở cung Dậu, nữ mệnh rất bất lợi về tình cảm, thường chủ về làm "nhị phòng" hay "kế thất", nếu không khó có thể sống với nhau đến bạc đầu. Đối với nam mệnh chủ về lang bạt tha hương rồi mới tay trắng làm nên, nhưng vẫn chủ về "danh" lớn hơn "lợi", mức độ thu nhập tăng theo địa vị xã hội, và không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Dễ được phái nữ yêu thích, nên cũng gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm, do vậy lãng phí rất nhiều thời gian của đời người.

    Thái Âm hóa Kị ở cung Tuất, không có ảnh hưởng xấu, Thái Dương ở Thìn đối cung là ánh sáng đang hiển lộ, Thái Âm đối nhau ở xa xa, là cách ưu mỹ. Nên Thái Âm hóa Kị chỉ chủ về thiếu phúc ấm của cha mẹ, nhưng lại biểu trưng cho "tay trắng làm nên".

    Thái Âm rất ưa hóa Kị ở cung Hợi, là "biến cảnh". Thái Âm lúc này tỏa sáng, khi Hóa Kị chỉ chủ về đời người phải trải qua một giai đoạn đau khổ, nhờ vào đó mà thành tựu được sự nghiệp.

    Nhưng "tam phương tứ chính" có các sao hội hợp phần nhiều có tính "lưu động", cho nên bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về dễ gặp rắc rối khó xử về tình cảm, thường vì có khuynh hướng yêu đương lãng mạn (nên gia đình khó tránh khỏi sứt mẻ hay đổ vỡ).

    33- Liêm Trinh - can Bính hóa thành sao Kị

    Trong Đẩu Số, Liêm Trinh hóa thành sao Kị là sao có sức ảnh hưởng khá lớn, tính chất khi hóa Kị cũng khá phức tạp.

    Liêm Trinh hóa Kị, chủ về biểu trưng cho tình cảm trắc trở, bao gồm tình cảm đối với lục thân và tình cảm nam nữ. Hơn nữa, nói "trắc trở" là do Liêm Trinh khi hóa Kị thường có tính chất ảnh hưởng lâu dài và không gì hóa giải được.

    Đồng thời, Liêm Trinh hóa Kị còn biểu trưng cho tâm trạng "đau buồn", nếu gặp các sao "khoa văn" thì đây là nỗi đau buồn có tính văn hóa tư tưởng, thường diễn hóa ở mức độ thâm sâu. Nhưng lúc có Sát tinh cùng bay đến, thì trở thành là không đắc ý về tư tưởng nhân sinh.

    Do tính chất diễn hóa đã thuật ở trên, nên Liêm trinh hóa Kị còn là điềm tượng bị lừa dối, đặc biệt là khi bị "lục thân lừa dối", cho nên nói Liêm Trinh hóa Kị biểu trưng cho tình cảm trắc trở. Trong đó tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị thì chủ về tình cảm trắc trở càng lớn. Lúc gặp thêm các sao Sát - Hình tụ tập, có thể có khuynh hướng tự sát.

    Mở rộng tính chất về tình cảm trắc trở, lại thường bị "làm ơn mắc oán", hoặc do bản thân không tự lượng sức mình khiến cho lòng tự tôn bị tổn thương.

    Một tính chất quan trong khác của Liêm Trinh hóa Kị là: bệnh tật có liên quan đến máu, còn chủ về vì tai nạn bất ngờ hay do phẫu thuật mà gây ra chảy máu. Ở nữ mệnh là biểu trưng vào lúc mang thai hoặc vào lúc sinh con. Ở cung Tật Ách thì biểu trưng cho bệnh về máu hoặc bệnh về tính dục.

    "Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị, đồng độ với Kình dương, hoặc hội với Kình Dương Đà la, đối cung là Phá Quân, tam phương tương hội với "Tử vi Thiên phủ" và Vũ khúc độc tọa.

    Liêm Trinh hóa thành sao Kị ở tinh hệ này chủ về trắc trở và bị người ta kiềm chế, tuyệt đối không nên cố tự xuất đầu lộ diện, nếu không ắt sẽ tổn thất hoặc phá tán, thất bại. Rất ngại có Hỏa tinh đồng độ, chủ về tình cảm bị trắc trở nghiêm trọng mà nảy sinh ý định tự sát. Có lúc cũng vì bản thân sai lầm mà gây hậu quả trọng đại. Đặc biệt không nên hợp tác với người khác.

    Nhưng tinh hệ này lại chủ về có được nguồn tiền tài toại ý. Đại khái là, không những có thể kiếm tiền mà còn có thể tích lũy. Cho nên, người gặp tinh hệ này, rất nên chọn sách lược thủ thành, không thể quá gấp cầu thành công, đồng thời cần phải biết mức độ nặng nhẹ nhiều ít của cá tính "tự ái", thì mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được. Có thể vì tính "tự ái" không đúng lúc đúng chỗ, mà biến thành "hợp lực" đạp đổ kết quả thành tựu đã đạt được.

    "Liêm trinh Thất sát" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, tứ chính đối nhau với Thiên Phủ, tam phương hội hợp với "Tử vi Tham lang" và "Vũ khúc Phá quân".

    Do Liêm Trinh hóa thành sao Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở cung Mùi không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên", vì vậy ở cung Sửu là tốt hơn, đời người khá thuận lợi toại ý.

    Cũng do Liêm Trinh hóa Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở hai cung độ này không thích hợp theo võ nghiệp, nếu theo võ nghiệp e rằng bất trắc. Tinh hệ này rất kị các sao Sát - Hình, chủ về đời người gặp nhiều gian khổ, rất thích hợp trong lĩnh vực sản xuất, làm việc hưởng lương, nếu tự kinh doanh làm ăn thì sẽ sinh phá tán thất bại.

    Tinh hệ này cũng chủ về tính "giao du thù tạc", thường chịu lãng phí tiêu tiền và lãng phí thời gian về phương diện này, nhưng sự lãng phí này không mang lại hiệu quả gì như dự liệu. Phần nhiều tốn tiền chỉ do ưa thích, ví dụ như mua sắp quần áo thời trang không cần thiết, đây là đặc điểm của tinh hệ này.

    Liêm Trinh độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình dương hoặc Đà la, tứ chính là Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp là "Vũ khúc Thiên phủ" và "Tử vi Thiên tướng".

    Do Liêm Trinh hóa Kị, nên Liêm Trinh của cung Thân cũng không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên".

    Tinh hệ của bản cung có sắc thái "ưu uất", nhưng trưng diện khá sa hoa, thường ứng xử vui vẻ lấy tiền bạc giúp bạn bè, mà không xem trọng việc tích lũy tiền bạc cho gia đình, vì vậy bị người phối ngẫu oán trách.

    Bất lợi về hôn nhân, tính cách của người phối ngẫu không hợp với bản thân mệnh tạo, trong cuộc đời dễ nảy sinh tình yêu đối với người đã có gia thất bất kể là nam hay nữ, có tình mà không có duyên là đặc điểm của tinh hệ này.

    "Liêm trinh Phá quân" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Tử vi Thất sát" và "Vũ khúc Tham lang".

    Tinh hệ này có tính chất suy sụp nhanh chóng, ở cung Mão nghiêm trọng hơn ở cung Dậu. Cho nên đạo "tìm cát tránh hung" là phải xem xét Lưu niên để tiến thoái hợp thời cơ.

    "Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu có Thiên Hình đồng độ, thì nên đề phòng sự cố giao thông, cũng chủ về gông cùm, hay thú dữ cắn. Cung Thiên Di mà gặp tinh hệ này lúc đi xa nên phòng xảy ra bất trắc. Xem xét các sao của Lưu niên để định tình hình cụ thể, mức độ nặng nhẹ.

    Tinh hệ này còn có một sắc thái đặc biệt khác, đó là cuộc đời ắt có một thời kỳ tiền bạc qua tay rất nhiều, nhưng khi vận thế qua rồi thì lại buồn rầu lo lắng vì túng thiếu. Do đó nhân sinh quan có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh.

    "Liêm trinh Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Đà La đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội với Tử vi độc tọa và "Vũ khúc Thiên tướng".

    Liêm Trinh hóa Kị ở 12 cung, hai cung Thìn và Tuất là khá tốt, vì Hóa Kị trong "Thiên là Địa võng" sẽ chủ về làm tăng ý chí phấn đấu, tuy cuộc đời thành bại bất nhất, nhưng tâm cảnh vẫn giữ được sự cởi mở, tốt nhất là ở cung Tuất, thường dễ vượt hơn nhiều người.

    Do đối cung là Thất Sát, nên cũng phải đề phòng sự cố giao thông.

    Tinh hệ này bất lợi về tình cảm, vợ chồng tính cách không hợp nhau, nên phần nhiều có ngoại tình, nhưng không dễ vợ chồng nói lời chia tay.

    "Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tương hội "Tử vi Phá quân" và "Vũ khúc Thất sát".

    Tinh hệ này có sắc thái ưu uất rất nặng, nếu không gặp thêm các sao "văn" nhuyễn hóa trở thành có tính văn nghệ, thì cuộc đời phần nhiều sẽ tự đi tìm sự phiền phức, nhất là rắc rối về tình cảm, mệnh tạo thường lấy đau khổ làm niềm vui, thường ảo tưởng bắt chước phong cách của người phi thường. Có thêm Địa không Địa kiếp thì càng nặng.

    Sắc thái đặc biệt của tinh hệ này là không có khả năng quản lý tài chính một cách hiệu quả, do đó thường có hiện tượng tiền vào tay trái rồi ra bằng tay phải.

    Trong số các tinh hệ Liêm Trinh, thì tinh hệ này (Liêm Tham) mang sắc thái bôn ba phiêu bạt nhất. Cho nên không thích hợp với nữ mệnh, đời người quá nhiều sương gió, không ổn định.

    34- Cự Môn - can Đinh hóa thành sao Kị

    Cự Môn không ưa hóa thành sao Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi". Sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất này, khiến cho một đời người thêm nhiều rắc rối trắc trở.

    Cự Môn sau khi Hóa Kị, cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra rắc rối phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự Môn hóa Kị tại Mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê có hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiêu sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

    Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không như lý tưởng hằng mong ước. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự toàn mỹ, vì vậy sinh ra sự thất vọng bất mãn. Hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển, thì mệnh tạo thường trong tình cảnh rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà la đồng độ, khuynh hướng này càng bộc lộ rõ hơn.

    Cự Môn hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên Cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền.

    Cự Môn hóa Kị trong tinh hệ này, có một đặc điểm là thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực "kích phát". Sự cố trắc trở đang trong quá trình phát triển thì bỗng nhiên ngưng lại, nhưng mỗi lần gặp trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục được hoàn thiện và hoàn mỹ hơn. "Thấy hung nhưng thực ra là cát" là một đặc điểm của tinh hệ này.

    Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài, hoặc lúc tình cảm trở thành sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly.

    Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại thành sức mạnh "kích phát".

    "Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự môn hóa Kị thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Quyền. tham khảo ở đoạn thuật "Thiên đồng hóa Quyền".

    "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, tam phương mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" trong đó một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền.

    Tinh hệ này thành cách "Tứ Hóa hội hợp", nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, cho nên không thích hợp với nữ mệnh đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thiếu duyên với Cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp.

    Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ có "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

    "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Kị ắt Thiên cơ hóa Khoa. tham khảo ở mục "Thiên cơ hóa Khoa".

    Cự Môn độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Tuất ắt sẽ gặp Lộc tồn), Thiên Đồng của đối cung hóa Quyền, tam phương tương hội với Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa.

    Cự Môn hóa Kị ở "Thiên la Địa võng" lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy hung mà thực ra là cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, rắc rối, thị phi, nhưng kết cục lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh khỏi phải trải qua gian khổ, tâm tư nhiều lo nghĩ.

    Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Địa không Địa Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo lại ưa giải quyết khó khăn giúp cho người khác, nên sự nghiệp tuy ổn định có chiều hướng tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh.

    Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

    Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương tương hội với Thiên Đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa.

    Thông thường tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, khi Cự môn hóa Kị ở cung Hợi càng nhẹ hơn. Nhưng tình trạng điều tiếng thị phi, sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng.

    Nam mệnh ắt lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt lấy được chồng có sự nghiệp tốt. Bàng nhân thiên hạ nhìn bề ngoài đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng bên trong họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên.

    35- Thiên Cơ - can Mậu hóa thành sao Kị

    Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.

    Thiên Cơ có tính chất kế hoạch, sau khi Hóa Kị sẽ biến thành kế hoạch sai lầm.

    Thiên Cơ vốn có tính chất suy nghĩ, sau khi Hóa Kị thì biến thành lo toan nghĩ ngợi, thậm chí thành ra lo lắng. Vì vậy lúc Thiên Cơ hóa Kị ở cung Tật Ách, có đặc trưng mất ngủ, suy nhược thần kinh, "Can vị bất hòa", "Tâm Thận bất giao", tình hình nghiêm trọng là "trúng phong".

    Lúc Thiên Cơ hóa Kị có Sát tinh đồng độ, đặc biệt dễ mắc bệnh mang tính thần kinh, như co dật thần kinh mặt, kinh phong,.v.v...

    Đối với nữ mệnh, Thiên Cơ hóa Kị phần nhiều chủ về vì tâm trạng xung động nhất thời mà xa chân lỡ bước.

    Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho sự cố bị người ta phỉ báng, nói xấu, bêu rếu, hai bên công kích lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh, nếu mệnh tạo "hao thần tổn khí" quyết đối phó, thì càng khiến sóng gió dễ nổi lên, tốt nhất nên "dĩ bất biến ứng vạn biến" thì tự nhiên sóng yên biển lặng.

    Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình dương Đà la chiếu xạ, ở cung Ngọ thì đồng độ với Kình dương), tứ chính đối cung là Cự Môn độc tọa, tam phương tương hội với "Thiên đồng Thiên lương" và Thái Âm độc tọa hóa Quyền.

    Tổ hợp tinh hệ của hai cung này, chủ về cách suy nghĩ của mệnh tạo khó giải quyết vấn đề, một sự cố đơn giản có thể biến thành cục diện phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai lầm. Do tính chất này, còn có thể mở rộng thành tình trạng "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", hoặc làm việc không có phương pháp, thiếu mạch lạc, lớp lang.

    Thương thường, khi Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho là "kinh sợ", hoặc bị uy hiếp, trong thương trường thì đột nhiên bị cạnh tranh không lành mạnh, trong chính giới thì hai bên công kích lẫn nhau.

    Lúc có các sao Sát - Hình cùng chiếu, chủ về điềm tượng di chứng của bệnh tật, như bán thân bất toại, tứ chi tổn thương tàn tật. Ở cung Ngọ nặng hơn ở cung Tý.

    Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc tọa và Cự Môn độc tọa.

    Do đối nhau với Thiên Lương, nên tinh hệ này chủ về tình trạng gặp rắc rối, phiền phức, tuy nhiên cuối cùng cũng hóa giải được, nhưng phải hao tổn tinh thần rất nhiều.

    Liên quan đến sự cố phiền phức đột nhiên xuất hiện, thường thường có liên quan đến việc vạch kế hoạch sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo lắng.

    Tinh hệ này còn chủ về những rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn nhân. Nam mệnh thì người phối ngẫu ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất hòa với chồng.

    "Thiên cơ Thái âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Thiên cơ hóa Kị thì Thái âm hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Quyền".

    "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp Lộc tồn), tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa, và mượn "Thái dương Thái âm" để nhập cung, trong đó Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa Khoa.

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ vốn đã có tính chất "phá phách", khi Thiên Cơ hóa Kị sẽ làm mạnh thêm tính chất "phá phách" này. Do đó chủ về không theo đuổi một ngành nghề nào chuyên nhất, đứng núi này trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy mình có tài mà không gặp thời.

    Tinh hệ này còn chủ về trong quan hệ giao tế, thường hay "nói năng lỡ lời", mà thường thường bị thất thố vào những lúc quan trọng.

    Do "Thiên cơ Cự môn" đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất "nhờ miệng lưỡi để kiếm tiền".

    "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Kị đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Thái âm" mà Thái Âm hóa Quyền, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

    Do có Thái Âm và Thái Dương hóa thành sao Cát hội chiếu, các Sao hội hợp lại không phải là "vô lực" (Cơ Lương ở cung Thìn thì càng tốt), cho nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương phải hao tổn sức lực để hóa giải những gì Thiên Cơ hóa Kị gây ra. Biểu trưng cụ thể là có sắc thái "rời xa người thân", "lưu lạc", "tính hiếu động trôi nổi", "do dự không quyết đoán", "xử sự sai lầm gây nên sóng gió trắc trở",.v.v...

    Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng lực "dự cảm", nhưng sau khi Thiên Cơ hóa Kị, sẽ rất dễ vì quá "dự cảm" mà biến thành quá lo lắng, dẫn đến quyết đoán sai lầm, nhất là ở cung Tuất thì càng đúng.

    Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Cự môn", và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

    Tinh hệ này thường chủ về "cơ quan dùng lầm", bao gồm sự nghiệp và tình cảm. Cho nên hễ tâm bình thường mà xử sự, thì không xảy ra sóng gió, trắc trở. Nếu tâm không bình thường, thì sẽ nổi sóng gió ngoài dự liệu của mọi người.

    Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó khăn.

    Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về dễ bị uy hiếp, và bị áp lực vô hình. Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ với Thiên Cơ hóa Kị, thì nên đề phòng lúc vãn niên sẽ bị "trúng phong".

    36- Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

    Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

    Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

    Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

    Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

    Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

    Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

    Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

    Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

    Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

    Trên là thuật những nguyên tắc cơ bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống cụ thể.

    37- Thiên Đồng - can Canh hóa Kị

    Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là "tâm trạng không ổn định", nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai vạ.

    Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua gian khổ của cuộc đời.

    Thiên Đồng còn là sao "tình cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về "tình cảm", có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.

    Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho "Lý tưởng vượt quá hiện thực", vì vậy mà đời người theo đuổi "lý tưởng" rất lao khổ. Nếu có các sao Sát - Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu nhiều lo lắng.

    Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường thường biểu trưng cho hội chứng "suy nhược thần kinh", cũng tức là nói "âm hư", "khí hư" mà cổ nhân đã nói.

    "Thiên đồng Thái âm" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Thiên lương", và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.

    Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.

    "Thiên đồng Thái âm" ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng "suy nhược thần kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.

    Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.

    Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi, có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.

    "Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với Thiên Cơ độc tọa, và "Thái dương Thiên lương" mà Thái Dương hóa Lộc.

    Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị "trúng phong", thậm chí có thể "bán thân bất toại".

    Do có tinh hệ "Thái dương Thiên lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.

    "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

    Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự ổn định của cuộc sống.

    Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.

    Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

    Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng "suy nhược thần kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ này.

    Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng với câu nói "càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.

    Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và "Thái âm Thiên cơ".

    Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến thành lực kích phát, do đó thường là cách "phản bối", có thể không thành cách "phản bối" nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.

    Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu, liễu xanh um".

    Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.

    Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Cự môn", và mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc. Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Kình dương hoặc Đà la.

    Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn định".

    Nhưng có lúc "tâm trạng không ổn định" này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.

    38- Văn Xương - can Tân hóa Kị

    Văn xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư,.v.v... đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

    Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

    Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

    Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

    Trên là những ý vị phổ biến và khái quát của Văn Xương hóa Kị, cần phải xem xét các sao hội hợp thực tế mà định tính chất cụ thể.

    39- Vũ Khúc - can Nhâm hóa Kị

    Vũ khúc là sao "tiền tài", lúc hóa thành sao Kị sẽ biểu trưng cho tình trạng xoay chuyển tiền bạc khó khăn, hoặc vì người khác mà phải ngưng dừng nửa chừng, có lúc vì hoàn cảnh khách quan thúc đẩy mà phải mở rộng việc kinh thương buôn bán đến nỗi không dự toán được, khiến tiền bạc tổn thất. Đây là ý nghĩa cơ bản của Vũ Khúc hóa Kị.

    Vì vậy có lúc cũng chủ về bệnh tật dây dưa kéo dài, hoặc tiến hành một sự kiện nào đó vượt quá dự liệu, do đó ảnh hưởng đến tình hình chi tiêu. Ví dụ như Vũ Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch đồng độ với Tham Lang, chủ về vì sửa sang nhà cửa vượt ngoài dự toán ban đầu, để hoàn thiện thì phải cố thu xếp, dẫn đến tiền bạc trống rỗng.

    Vũ Khúc chủ về "quyết đoán", sau khi Hóa Kị nhuyễn hóa thành "quyết liệt", có nghĩa là khi phải giải quyết vấn đề rắc rối phức tạp thì thường quá cứng rắn, nên dễ bị trắc trở. Tinh hình như vậy rất dễ xuất hiện trong vấn đề tình cảm, cho nên hôn nhân trở nên bất lợi. Cổ nhân cho rằng đây là tinh hệ "không có lạc thú phòng the", ở thời hiện đại đây là điềm tượng hôn nhân đổ vỡ.

    Vũ Khúc hóa Kị cũng bất lợi về sức khỏe, chủ về phẫu thuật. Lúc hội hợp các sao không tốt, thì chủ về khối u, phù thũng. Khi hội hợp với Tạp diệu chủ về các bệnh có tính hao tổn, nếu còn gặp thêm các sao Sát - Hình, có lúc biểu trưng cho bệnh ung thư.

    Do Vũ Khúc hóa Kị có đặc tính "quyết đoán", do đó còn có thể biểu trưng cho rụng răng, đau răng.

    Nói chung Vũ Khúc hóa Kị ở 12 cung đều có ý vị không cát tường.

    "Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ khúc hóa Kị thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên phủ - can Nhâm hóa Khoa.

    "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì gặp Lộc tồn), mà Vũ Khúc hóa Kị, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Phá quân" và "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền.

    Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá cao mà "lực bất tòng tâm" (bao gồm cả năng lực tài chính), vì vậy xảy ra thất bại. Cho nên có lúc cũng chủ về việc sắp thành lại hỏng.

    Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu diễn, giải trí, vui chơi, v.v... thì lại có thể phát huy. Nếu có Sát tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật. Việc theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc hóa Kị, nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.

    Nếu có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách đột ngột sẽ dễ bị suy sụp nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên để tìm cách "xu cát tị hung".

    "Vũ khúc Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa Kị, đối cung là Phá Quân, tam phương là "Liêm trinh Thiên phủ" mà Thiên phủ hóa Khoa, lại hội Tử vi hóa Quyền.

    Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều hội Sát tinh.

    Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn nhân dễ sóng gió, trắc trở trọng đại; Hai là, ưa hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp, nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị tổn thất, thất bại.

    Đạo "xu cát tị hung" là kết hôn muộn, rất nên thận trọng trong việc lựa trọn bạn đời. Phải suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác, và định rõ các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến hành.

    Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh doanh, trái lại có thể nên một mình đảm trách công việc, nguy cơ thất bại cũng nhỏ hơn.

    "Vũ khúc Thất sát" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể gặp Lộc tồn), đối nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với "Liêm trinh Tham lang" và "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền.

    Tính chất cơ bản của tinh hệ này là "cô độc và hình khắc", cho nên không thích hợp với nữ mệnh, chồng và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện đại chủ về không có hôn lễ chính thức.

    Đời người thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đặc điểm của tinh hệ này, cho nên mưu sự thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất nặng. Ở cung Mão thì đỡ hơn.

    Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về thích tiêu sài, nữ mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ Liêm đồng độ, thì mua sắp cuồng nhiệt, nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.

    Vũ Khúc độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham Lang, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thiên tướng", và "Tử vi Thiên phủ" mà Tử vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa. Ở cung Thìn thì bị Kình dương Đà la hội chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà la.

    Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", Vũ Khúc hóa Kị ở đây dễ biến thành suy nghĩ nông cạn. Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử lý sự vụ lại gây thêm phản ứng ngược, dẫn đến tình hình càng thêm rắc rối khó khăn và phiền thức.

    Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại thường có phải ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do đó dễ biến thành thất chí.

    Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà thường không thấy được báo đáp.

    Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn, nhất là nữ mệnh.

    "Vũ khúc Phá quân" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thất sát" và "Tử vi Tham lang" mà Tử vi hóa Quyền.

    Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác với người khác sẽ có kết cục xấu.

    Vũ Khúc hóa Kị ở cung Hợi, thì Kinh dương và Đà la sẽ giáp cung, thành cách "Kình Đà giáp Kị", tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tị. Ngoài việc không nên hợp tác với người khác, còn chủ về cuộc đời phần nhiều đều bị kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị kinh tế giới hạn, khiến không thể đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, thì đây là hiện tượng sụp đổ, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Gặp Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy nhược, bệnh hoạn.

    Hễ Vũ Khúc hóa Kị, thì Tử vi trong nhóm "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hóa Quyền, vì vậy tình hình khó khăn kinh tế thường do ham muốn quyền lực gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng "lực bất tòng tâm" và khuynh hướng lãng phí.

    Vũ khúc hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, nam mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.

    40- Tham Lang - can Quý hóa Kị

    Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa thành sao Kị là "đoạt tình". Vì vậy, nhẹ thì không như lý tưởng, nặng thì cảm thấy trắc trở về tâm lý. Nhưng thông thường không bị tổn thất về vật chất.

    Tham Lang hóa Kị mang lại bất lợi có tính chất khá ôn hòa, thường chỉ là tranh cãi ồn ào, hoặc tâm trạng không yên, tâm trạng không yên có lúc kéo dài, vì vậy mệnh tạo dễ đi tìm kiếm sự kích thích.

    Tham Lang vốn đã có ý vị trang sức, trang hoàng, làm dáng, khi Tham Lang hóa Kị sẽ làm mất đi phép lịch sự, hoặc có phần "đức" không tốt. Có lúc, cũng là trang sức, trang hoàng, làm dáng không được như lý tưởng, không tìm ra được cách sửa sang cho hợp sở ý, ví dụ như thích sửa sang cho đẹp chỗ ở nhưng khi trang trí, trang hoàng bố cục nội thất, thì việc lại rối tung rất khó thỏa mãn theo ý tưởng của chính mình.

    Lúc "giao tế thù tạc", ảnh hưởng của Tham Lang hóa Kị mang lại sẽ là tốn tiền một cách vô ích, dùng tiền chi phối "quan hệ thù tạc" mà không được ai để mắt đến, không được bạn bè chú ý, cũng không được người ta gọi là hào sảng.

    Lúc có các sao đào hoa, hoặc các sao "khoa văn" đồng độ, Tham Lang hóa Kị là biểu trưng cho biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thường biểu hiện bản thân trong giao tế, nhưng không xảy ra sự cố có tính chất đào hoa.

    Tham Lang hóa Kị cũng chủ về vất vả, có đặc tính "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", lòng ham muốn tạo dựng sự nghiệp cực nặng, thường không lo nghĩ quan tâm đến gia đình, còn ưa mở rộng kinh doanh nhiều phương diện, khiến càng vất vả khổ lụy, lúc thu hoạch kết quả thì lo lắng đến kết quả không được như ý tưởng ban đầu.

    Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Tử vi độc tọa, tam phương hội hợp với Phá Quân hóa Lộc và Thất Sát độc tọa.

    Tham Lang hóa Kị ở hai cung này lại chủ về "tài nghệ", nhưng bất lợi về tình cảm. Nhất là nữ mệnh dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, dù hôn nhân có sự cố thay đổi, nhưng vẫn có khuynh hướng "ngó đứt mà lòng còn tơ vương", không thể dứt khoát được.

    Trong 12 cung Tham Lang hóa Kị ở cung Tý là tốt nhất, cung ngọ là kế đó, sự nghiệp và tiền bạc đều tốt, chỉ tại mệnh tạo luôn cảm thấy không được như lý tưởng mà thôi.

    "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tham Lang hóa Kị ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương tương hội với "Liêm trinh Phá quân" mà Phá quân hóa Lộc, và "Tử vi Thất sát".

    Tham Lang hóa Kị ở bản cung, chủ về sự nghiệp và tiền bạc không có gì đáng ngại, chỉ chủ về đời người khó đạt tới lý tưởng, nhưng thông minh tài trí vẫn được phát huy, phần nhiều phát huy trong nghề nghiệp. Tuy vẫn khó tránh rắc rối về tình cảm, nhưng rốt cuộc vẫn giải quyết được.

    Tham Lang hóa Kị độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần thì gặp Lộc tồn), đối cung là Liêm Trinh, tam phương tương hội với Phá Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

    Tham Lang hóa Kị ở hai cung này, nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cũng chủ về có tiền của bất ngờ. Nhưng nếu hội Kình dương và Đà la, cổ nhân cho rằng đây là điềm tượng "bị lưu đầy", thời cổ đại khi "bị lưu đầy" còn bị săm đóng "dấu chữ" lên mặt, do đó ý vị mở rộng là "phá tướng" hoặc có thẹo, có lúc là giải phẫu thẩm mỹ. Nữ mệnh gặp tổ hợp tinh hệ này chủ về bị người có gia đình theo đuổi.

    "Tử vi Tham lang" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với "Vũ khúc Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Liêm trinh Thất sát".

    Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

    Tham Lang hóa Kị sẽ giảm bớt ý vị "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về làm tăng năng lực phát triển sự nghiệp. Khi gặp hóa Kị chỉ là không được như ý tưởng, có lúc cũng chủ về sự nghiệp phát triển chậm.

    Tinh hệ này còn có sắc thái "tham việc" do đó thường kiêm nhiều nghề, hoặc có ý thích cùng một lúc hai việc, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng gian khổ trong đời người.

    Nếu so sánh thì tinh hệ này ít có rắc rối về tình cảm.

    Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), đối cung là Vũ Khúc, tam phương tương hội với Pha Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

    Tinh hệ này ở cung Thìn thì "Lộc trùng điệp" có thể thành Cách. Ngoại trừ cách "Hỏa Tham" và "Linh Tham", có không chủ về phát lên một cách đột ngột, mà là điềm tượng dùng tài trí và kỹ năng của bản thân để tạo dựng sự nghiệp. Ở cung Tuất tuy không có "Lộc trùng điệp", nhưng cũng có thể thành phúc cách. Nhưng bất kể ở cung nào cũng đều khó tránh vất vả. Về phương diện tình cảm, nhất là nữ mệnh, thường không lãng phí thời gian, tinh thần chỉ chuyên chú lo cho sự nghiệp mà thường làm lỡ mất lương duyên.

    "Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi (ở cung Hợi có Đà la đồng độ, ở cung Tị có Kình Đà hội chiếu), Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Vũ khúc Thất sát".

    Tham Lang hóa Kị ở tinh hệ này, do có Liêm Trinh đồng độ, nên thường biểu trưng cho đau khổ về tình cảm. Tinh hệ này còn là biểu hiện của nghệ thuật. Tổng hợp hai tính chất này sẽ thành nỗi thống khổ trong nghệ thuật, hoặc chủ về nghệ nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.

    Người có tinh hệ này thủ Mệnh, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, phần nhiều đều có tính xung động trong kinh doanh làm ăn, do đó thường gây ra trắc trở. Lúc đầu tư, thường thường có khuynh hướng mạo hiểm, dễ thành phá tán thất bại, cần phải chú ý phép "xu cát tị hung".

    (Sưu tầm)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

    Ứng dụng ngũ hành trong chọn màu sắc cho nhà ở

    Dựa vào quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc theo quan niệm về phong thủy mà sử dụng các loại màu sắc phù hợp với bản mệnh mỗi người.
    Ứng dụng ngũ hành trong chọn màu sắc cho nhà ở

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



    Bên cạnh các yếu tố như bố cục, phương hướng, bố trí không gian, chức năng… thì màu sắc của ngôi nhà cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường nhà ở và cá nhân con người sinh sống. Theo quan điểm phong thủy, màu sắc hình thành các trường năng lượng khác nhau, là tương sinh hoặc tương khắc với bản mệnh của mỗi người theo ngũ hành. Nếu là trường năng lượng tích cực sẽ giúp cân bằng hài hòa âm dương, từ đó phát huy những điều thuận lợi và hạn chế các bất lợi từ môi trường đến cuộc sống của người sử dụng và ngược lại.
      Dựa vào quy luật ngũ hành tương sinh và tương khắc theo quan niệm về phong thủy, khi xây dựng hoặc cải tạo màu sắc cho tường nhà, đồ nội thất… cần phải lưu ý những điểm dưới đây.   1. Hành Kim
     
    - Biểu trưng của hành Kim trong phong thủy
     
    Hành Kim thường biểu trưng cho những hình tượng liên quan đến mùa thu, sức mạnh tinh thần, sự quyết tâm. Người mệnh Kim thường có óc tổ chức và kỉ luật tốt, tinh thần tập trung cao độ và tư duy sắc sảo. 
     
    - Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Kim
     
    Dựa vào quan hệ tương sinh: Trong ngũ hành, Thổ sinh Kim, khi chọn màu sắc ngôi nhà theo ngũ hành nếu chủ nhà mệnh Kim có thể dùng các màu như: nâu, vàng đất, cam đất của hành Thổ để trang trí cho ngôi nhà. Ngoài ra các màu bản mệnh: trắng, vàng và các sắc ánh kim cũng phù hợp. Ngoài ra, nên sử dụng kết hợp các loại vật liệu xây dựng bằng kim loại, thủy tinh, đá hoa cương, đá cẩm thạch, gốm sứ…để tăng hiệu quả cân bằng ngũ hành trong ngôi nhà.
     
    Dựa vào quan hệ tương khắc: Vì Kim khắc Hỏa, do đó tránh sử dụng các màu của mệnh Hỏa: đỏ, hồng, tím.

    Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh
    Ảnh minh họa
     
    Lưu ý: Phong cách nội thất phù hợp với người mệnh Kim là đương đại hoặc tối giản. Vì những phong cách này mang đến sự ngăn nắp, đơn giản nhưng sang trọng và tinh tế y như đặc trưng tính cách của người mệnh Kim.   2. Hành Mộc
     
    - Biểu trưng của hành Mộc trong phong thủy
     
    Hành Mộc là biểu trưng cho thế giới tự nhiên, năng lượng sinh ra từ hành Mộc có tính sinh sôi, mềm dẻo và phát triển không ngừng. Người thuộc mệnh Mộc có tính cách hướng ngoại, thích khám phá, du lịch, yêu thiên nhiên, nhiệt tình, cởi mở và có mục tiêu sống rõ ràng.
     
    - Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Mộc
     
    Dựa vào quan hệ tương sinh: Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn màu xanh nước biển, đen của hành Thủy để trang trí cho ngôi nhà, vì Thủy sinh Mộc. Hoặc có thể dùng màu bản mệnh là xanh lá. Bên cạnh việc lựa chọn màu sắc, gia chủ nên chọn các loại vật liệu xây dựng phù hợp như: mây tre lá, giấy, gỗ, vài, các yếu tố cây xanh…
     
    Dựa vào quan hệ tương khắc: Vì Kim khắc Mộc, nên tránh sử dụng các màu thuộc hành Kim như: trắng, vàng, các sắc ánh kim.

    Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 2
    Ảnh minh họa
     
    Lưu ý: Phong cách nội thất phù hợp cho người mệnh Mộc là xu hướng thô mộc pha trộn hiện đại để làm nổi bật sự mộc mạc chân phương, tính ngẫu hứng, cuộc sống yên bình và sự sống hồi sinh như cá tính tiềm ẩn của người mệnh Mộc.   3. Hành Thủy
     
    - Biểu trưng của hành Thủy trong phong thủy
     
    Hành Thủy là biểu tượng của mùa Đông, các yếu tố liên quan đến tính vật chất và tính hình tượng của nước. Người mệnh Thủy thường linh hoạt trong cuộc sống và công việc, có tư tưởng cấp tiến, đề cao sáng tạo, có khiếu nghệ thuật, tài ngoại giao và khả năng ứng biến, thích nghi tốt.
     
    - Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Thủy
     
    Dựa vào quan hệ tương sinh: Vì Kim sinh Thủy, nên gia chủ mệnh Thủy có thể chọn các màu: trắng, vàng, các sắc ánh kim trang trí cho ngôi nhà. Hoặc các màu bản mệnh Thủy: xanh nước biển, đen. Ngoài ra, nên phối kết hợp các loại vật liệu liên quan đến hành Kim và Thủy như thủy tinh, kim loại, gạch kính sáng bóng hoặc có tính phản chiếu…
     
    Dựa vào quan hệ tương khắc: Thổ khắc Thủy, nên tránh sử dụng các màu của mệnh Thổ: nâu, nâu đất, cam đất.

    Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 3
    Ảnh minh họa
     
    Lưu ý: Xu hướng đương đại, giải tỏa kết cấu, dòng chảy, hữu cơ là những phong cách phù hợp để thiết kế không gian nội thất cho người mệnh Thủy. Bởi chúng mang lại tính sáng tạo cao, hướng đến phong cách biến hóa đa dạng, không gian mang tính uyển chuyển, sự sáng tạo về hình khối, truyền tải cảm xúc mạnh mẽ và thư giãn.
     
    4. Hành Hỏa

    - Biểu trưng của hành Hỏa trong phong thủy
     
    Hành Hỏa thường là biểu trưng cho những hình tượng liên quan đến lửa, sức nóng, mùa hè, sự may mắn, hạnh phúc, danh vọng và thành công. Nguồn năng lượng được sinh ra từ hành Hỏa luôn hồi sinh liên tục, bùng nổ và sáng tạo không ngừng. Người có mệnh tương ứng với  hành Hỏa thường có khả năng lãnh đạo, tự lập tự chủ, tư tưởng cấp tiến, làm việc nhiệt huyết và giàu tính khôi hài.
     
    - Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Hỏa
     
    Dựa vào quan hệ tương sinh: Chủ nhà mệnh Hỏa nên chọn màu sắc theo bản mệnh của Hỏa như đỏ, tím, hồng. Hoặc chọn theo mối quan hệ tương sinh Mộc sinh Hỏa, với những màu của hành Mộc là xanh lá. Ngoài ra, nên sử dụng kết hợp các loại vật liệu thuộc hành Mộc như gỗ, giấy, vải…để tăng mức độ hài hòa theo ngũ hành cho ngôi nhà.
     
    Dựa vào quan hệ tương khắc: Vì người mệnh Hỏa khắc với hành Thủy (Thủy khắc Hỏa), nên tránh sử dụng các màu đặc trưng của mệnh Thủy như xanh nước biển, đen. 

    Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 4
    Ảnh minh họa
     
    Lưu ý: Không nên sử dụng các gam màu quá nóng ấm với mật độ dày đặc, mà chỉ nên nhấn nhá vào một vài vị trí nhỏ, tránh gây phản tác dụng.
     
    Phong cách nội thất phù hợp với người mệnh Hỏa là theo xu hướng đương đại, công nghệ cao hoặc hướng thô mộc để làm nổi bật không gian chứa đầy cảm xúc, đam mê, kích thích giác quan và tạo ấn tượng mạnh như tính cách đặc trưng của người mệnh Hỏa.
     
    5. Hành Thổ
     
    - Biểu trưng của hành Thổ trong phong thủy
     
    Hành Thổ là biểu tượng của trái đất, có tính trung tâm, nguồn gốc của sự nuôi dưỡng, phát triển, hướng đến sự vững chãi, nguồi cội của sự sống. Người mệnh Thổ có tính cách ôn hòa, điềm đạm, trân trọng và sâu sắc. Đồng thời còn kiên trì, thủy chung và trung thành.

    - Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Thổ
     
    Dựa vào quan hệ tương sinh: Vì Hỏa sinh Thổ, do đó chủ nhà mệnh Thổ nên lựa chọn màu: đỏ, hồng, tím của mệnh Hỏa, hoặc các màu của bản mệnh như: nâu đất, nâu, cam đất. Bên cạnh đó, nên kết hợp sử dụng các loại vật liệu mang tính chất của 2 hành này như đất, đá, gạch, sỏi, sành sứ, bê tông…
     
    Dựa vào quan hệ tương khắc: Trong ngũ hành, Mộc khắc Thổ, do đó tránh sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc cho người mệnh Thổ.

    Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 5
    Ảnh minh họa
     
    Lưu ý: Không gian nội thất dành cho người mệnh Thổ đơn giản, mộc mạc, ít phá cách và nên được bài trí tự nhiên, gọn gàng. Do đó, phong cách thô mộc hoặc thô mộc kết hợp hiện đại là phù hợp với tính cách của người mệnh Thổ hơn cả.   ST  
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Ứng dụng ngũ hành trong chọn màu sắc cho nhà ở

    Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Sửu

    Nam tuổi Sửu kết hợp với nữ tuổi Mão tuy không phải mối nhân duyên tốt, nhưng cả hai có thể cùng chung sống, bởi nữ giới là người kiên nhẫn, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh.
    Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Sửu

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-suu
    Sửu - Tý Sửu - Sửu Sửu - Dần Sửu - Mão
    Sửu - Thìn Sửu - Tỵ Sửu - Ngọ Sửu - Mùi
    Sửu - Thân Sửu - Dậu Sửu - Tuất Sửu - Hợi

    Maruko (theo QQ)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Sửu

    Từ bi và trí tuệ

    Người tu nếu thiếu hai phần trí tuệ và từ bi thì không xứng đáng là người tu. Vậy mà có nhiều người tha thiết vào thất tu suốt đời, tu tới chết.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.

    Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.

    Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.

    Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.

    Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.

    Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.

    Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.

    Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.

    Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.

    Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.

    • Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
    • Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
    • Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
    Phật
    Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.

    Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.

    Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.

    Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.

    Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.

    Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.

    Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.

    Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.

    Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.

    Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.

    Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.

    Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.

    Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:

    – Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?

    Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:

    – Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?

    Các vị Bà-la-môn đáp:

    – Được.

    Lúc đó Phật nói thí dụ:

    – Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?

    Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:

    – Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?

    Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:

    – Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.

    Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.

    Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.

    Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.

    Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.

    Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:

    1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.

    Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.

    2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.

    Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.

    Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?

    Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.

    Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.

    Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.

    Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.

    Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.

    Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.

    Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.

     trả nợ
    Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.

    Trả nợ có hai cách:

    Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.

    Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.

    Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.

    Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.

    Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.

    Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.

    Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.

    Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.

    Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?

    Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.

    Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.

    Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.

    Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.

    Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.

    Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.

    Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.

    Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.

    Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.

    Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.

    Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Từ bi và trí tuệ

    Top 3 con giáp khó tự lập

    Danh sách này gồm người tuổi Thìn, tuổi Tỵ và tuổi Ngọ.
    Top 3 con giáp khó tự lập

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    No.1 Tuổi Thìn

    Thiếu tính sáng tạo, cuộc sống của người tuổi Thìn thường rập khuôn theo những cái gì có sẵn. Thậm chí, trong nhiều vấn đề, họ luôn cần người vạch sẵn kế hoạch, “điểm mặt, chỉ tay” những gì cần làm thì mới hoàn thành nhiệm vụ. Tất nhiên, không ai có thể phủ nhận được sự chăm chỉ, nỗ lực của con giáp này trong công việc, cuộc sống sau khi đã nhận trách nhiệm.

    Thin-4583-1426774316.jpg

    Kết quả là mọi thứ diễn ra với người tuổi Thìn vẫn suôn sẻ. Hơn nữa, họ gặp nhiều may mắn nên ít ai nhìn nhận ra bản chất thật của con giáp này. Nếu để “tự lực cánh sinh”, người tuổi Thìn sẽ gặp nhiều khó khăn, hoặc chỉ làm được những cái đã đi vào lối mòn. 

    No.2 Tuổi Tỵ

    Đa phần người tuổi Tỵ được sinh ra trong gia đình có điều kiện khá giả hoặc không thì cũng được bố mẹ tạo điều kiện tốt nhất để học hành, sinh hoạt thường nhật. Ngay từ nhỏ họ đã nhen nhóm tâm lý sống trong nhung lụa, luôn có người hậu thuẫn để phát triển.

    Ty-7861-1426774319.jpg

    Dù sau này, người tuổi Thìn gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp, không phải lo toan tới kinh tế, họ vẫn cần ai đó làm chỗ dựa tinh thần hoặc tư vấn trước những quyết định lớn. Tính cách này sẽ gây ra nhiều rào cản khi họ làm ở vị trí cao. 

    No.3 Tuổi Ngọ

    Cuộc sống của người tuổi Ngọ thường gặp nhiều bất trắc. Một trong những lý do là vì bản tính không thể tự lập được của họ. Trước những quyết định, họ quá cầu toàn và luôn dựa vào sự trợ giúp của người khác, nên con giáp này không chủ động kiểm soát được nhiều hoàn cảnh. Điều này dẫn tới khó khăn chồng chất khó khăn.

    Ngo-7608-1426774320.jpg

    Đến độ tuổi chín muồi, những bài học, tổn thương từ quá khứ mới giúp họ ngộ ra được việc phải tự đứng vững trên đôi chân của mình mới gặt hái được thành công. Từ đó, thắng lợi liên tiếp sẽ đến với người tuổi Ngọ.

    Mr.Bull (theo Dyxz)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Top 3 con giáp khó tự lập

    Sinh mổ để chọn ngày lành tháng tốt cho con liệu có phải cách hay?

    Hiện nay, nhiều người chọn cách sinh mổ vì muốn chọn thời điểm sinh con đẹp. Tuy nhiên, xét về tử vi, liệu đây có phải là phương pháp cải thiện số mệnh tốt hay
    Sinh mổ để chọn ngày lành tháng tốt cho con liệu có phải cách hay?

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Hiện nay, nhiều người chọn cách sinh mổ vì muốn chọn thời điểm sinh con đẹp. Tuy nhiên, xét về tử vi, liệu đây có phải là phương pháp cải thiện số mệnh tốt hay không?


    Sinh mo de chon ngay lanh thang tot cho con lieu co phai cach hay hinh anh
     
    Ngoài nguyên nhân y tế liên quan tới sức khỏe của mẹ và bé thì nhiều người chọn sinh mổ để có thể quyết định được ngày sinh tháng đẻ, bát tự của con với mong muốn cuộc đời đứa trẻ sẽ hanh thông, may mắn. Trên phương diện tử vi, việc này có ảnh hưởng tới vận thế của đứa trẻ như thế nào, hãy cùng tìm hiểu.
    1. Vận thế muốn tốt phải xem mệnh lý   Giống như thân thể, muốn biết khỏe mạnh hay không thì cần kiểm tra sức khỏe, vận thế của một người muốn biết là tốt hay xấu cần xem thời gian sinh ra, cũng chính là xem bát tự.   2. Phân tích mệnh lý chính là xem bát tự   Xem bát tự là đem thiên can và địa chi của giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh của một người sắp hàng, hai chữ một trụ, cộng thành bát tự tứ trụ.Thông qua tổ hợp bát tự này phân tích tình hình xem phạm phải các trường hợp hình, hại, sinh, hợp như thế nào rồi từ đó suy ra vận thế, tương lai.
    Những người chắc chắn sinh quý tử trong năm 2016 Sinh con tháng nào tốt nhất năm Bính Thân 2016? Những phương pháp sinh con trai con gái theo ý muốn

    3. Sinh mổ có thể cải biến được số mệnh? 
      Nếu trường hợp khó sinh hoặc do tình hình sức khỏe mà khi bắt đầu quá trình sinh nở mới quyết định sinh mổ thì không gọi là thay đổi bát tự. Nhưng nếu vì ngày lành tháng tốt, tiến hành phẫu thuật sinh mổ trước ngày tự nhiên thì tức là đã thay đổi bát tự của đứa trẻ. 
    Sinh mo de chon ngay lanh thang tot cho con lieu co phai cach hay hinh anh
     
    4. Thay đổi bát tự nhờ sinh mổ không có hiệu quả
      Nếu sinh mổ do khách quan thì bát tự vẫn có công dụng như thường, giống như đứa trẻ được sinh ra tự nhiên. Nhưng nếu sinh mổ vì ý muốn chủ quan, trái lại quy luật tự nhiên thì bát tự của đứa trẻ không phải tiên thiên bát tự, không thể dựa vào đó để đoán định tương lai.    5 Sinh mổ ảnh hưởng tới vận thế của mẹ   Trừ khi bất đắc dĩ còn không sinh mổ sẽ ảnh hưởng tới vận thế của người mẹ vì đã tự mình tạo ra một biến đổi không tự nhiên trong cuộc đời. Có thể vì bước ngoạt này mà tương lai của người mẹ sẽ rẽ sang hướng khác. 
    ► Tham khảo thêm: Cách đặt tên cho con theo phong thủy
    2016 sinh con tháng nào cho trẻ mạnh khỏe? Sinh con trai con gái như ý muốn theo phương pháp Thanh Cung Thời điểm sinh con đẹp nhất năm 2016
    Trần Hồng

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Sinh mổ để chọn ngày lành tháng tốt cho con liệu có phải cách hay?

    SAO KÌNH DƯƠNG TRONG TỬ VI

    kình dương (Kim) *** 1. Ý nghĩa cơ thể: Kình Dương chỉ bộ phận sinh dục của phái nam. 2. Ý nghĩa tướng ...
    SAO KÌNH DƯƠNG TRONG TỬ VI

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    kình dương (Kim) 

    ***

    1. Ý nghĩa cơ thể: Kình Dương chỉ bộ phận sinh dục của phái nam.

    2. Ý nghĩa tướng mạo: Người có Kình đơn thủ thì thân mình cao và thô, mặt choắt, da xám, hầu lộ, mắt lồi, có sức khỏe.

    3. Ý nghĩa bệnh lý: Là hình tinh, Kình đi chung với bộ phận nào sẽ gây bệnh hay tật cho chỗ đó. Kình Vượng: lưng tôm, lưng gù, đi cong lưng Kình Long Trì: mũi sống trâu Kình Phượng Các: cứng ta, lãng tai Kình Nhật, Nguyệt: kém mắt, đau mắt

    4. Ý nghĩa tính tình: Kình là sao võ nên ý nghĩa mạnh bạo, thích hợp với phái nam hơn phái nữ, đặc biệt là tuổi Dương.
    a. Nếu Kình đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi:             - tính khí cương cường, quả quyết, nóng nảy             - thích mạo hiểm, làm những chuyện táo bạo, bí mật             - nhiều mưu trí             - hay tự đắc, kiêu căng, bất khuất             - sỗ sàng, ngang tàng Đi cùng với Thiên Tướng, Thất Sát hay Kiếp Sát, Thiên Hình, Kình Dương càng lộ tính nóng nảy, giận dữ, hay sát phạt, dễ bị khích, tự ái rất lớn.
    b. Kình hãm địa:             - hung bạo, liều lĩnh, bướng bỉnh, ngỗ ngược             - gian trá, độc ác hay phá, giết, chọc, tính của tiểu nhân và đạo tặc             - dâm dật, khắc chồng con (nữ)             - bệnh tật Nếu gặp sát tinh thì sự hung càng mạnh.
    c. Kình ở Ngọ, Dần, Thân, Mão, Dậu:             - ở Ngọ: rất độc, có nghĩa như yểu, chết bất đắc, bị tai nạn dữ và bất ngờ hoặc tàn tật.             - ở Dần, Thân: rất tai hại cho tuổi Giáp, Mậu: thường phá tán tổ nghiệp, mang tật, lao khổ, có xa nhà mới sống lâu.             - ở Mão, Dậu: cũng nguy khốn cho tuổi Giáp, Mậu.

    5. Ý nghĩa của kình dương và một số sao khác ở các cung:
    a. ở Mệnh: Kình Linh Hỏa: lưng gù, có bướu hay chân tay có tật; nghèo khổ, chết thê thảm (nếu cùng hãm địa) Kình, Không, Kiếp, Binh : côn đồ, đạo tặc, giết người Kình, Hình, Riêu, Sát : gái giết chồng Kình, Nhật hay Nguyệt đồng cung : bệnh hoạn liên miên, có tật lạ (nếu thêm Kỵ); trai khắc vợ, gái khắc chồng. Kình, Liêm, Cự, Kỵ: có ám tật; nếu cùng hãm địa thì ngục hình, kiện cáo, thương tích tay chân, nhất là tuổi Thìn, Tuất Kình, Tuế, Khách : sát phu/thê, xa cách cha mẹ Kình, Mã: truân chuyên, thay đổi chỗ ở luôn hoặc nếu là quân nhân thì phải chinh chiến luôn. Kình Lực đồng cung: có sức khỏe địch muôn người, bất đắc chí về công danh, có công nhưng bị người bỏ quên. Kình Hỏa miếu địa: số võ nghiệp rất hiển hách.
    b. Giáp Mệnh: giáp Kình Đà: có tiền nhưng phải chật vật vì sinh kế giáp Kình Liêm Tướng: khó tránh được tù tội. Nếu có quan chức thì bị truất giáng, suốt đời bất đắc chí.
    c. ở Quan: Kình đắc địa gặp Mã chiếu: có võ chức nhưng trấn ở xa Kình Lực: bất mãn, bất đắc chí, bất đắc dụng ở quan trường; có xin nghỉ gia hạn hay bị ngồi chơi xơi nước; công danh chật vật, nhọc nhằn và nhục nhã
    d. ở Tài: - nếu đắc địa: dễ kiếm tiền lúc náo loạn. - nếu hãm địa: thiếu thốn và phá tán, dùng bạo cách
    e. ở Phu Thê: - nếu đắc địa thì vợ chồng hay bất hòa, gián đoạn 1 dạo - nếu hãm địa thì hôn nhân trắc trở, hình khắc dễ xảy ra, vợ ghen, chồng bất nghĩa.
    f. ở Hạn: Kình Hình ở Ngọ: bị tù, có thể chết nếu gặp lục Sát. Kình Vũ Phá : bị hại vì tiền.

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: SAO KÌNH DƯƠNG TRONG TỬ VI

    Văn khấn Gia tiên mùng một tết

    Văn khấn Gia tiên ngày mùng một tết âm lịch, sắm lễ rước gia tiên tiền tổ ông bà về cùng với con cháu trong 3 ngày tết tỏ lòng hiếu thảo nhớ về cội nguồn
    Văn khấn Gia tiên mùng một tết

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Văn khấn Gia tiên ngày mùng Một Tết đầu năm âm lịch

    Theo phong tục ngày Tết cổ truyền, thì ngày 30 Tết (hoặc ngày 29 Tết, nếu tháng thiếu), thì nhà nhà đều sắm lễ “Rước Ông bà” về cùng với con cháu trong 3 ngày Tết, để tỏ lòng hiếu thảo của con cháu với Tổ tiên.

    Trong 3 ngày Tết này, thông thường con cháu đều cúng Gia tiên tiền tổ, ông bà, mỗi ngày 1 lần.

    Sắm lễ cúng Gia tiên năm mới

    Lễ vạt dâng cúng trong lễ tạ năm mới gồm:

    • Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả).
    • Trầu cau;
    • Rượu;
    • Đèn, nến;
    • Lễ ngọt, bánh kẹo;
    • Mâm cỗ chay: xôi, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.

    Văn khấn Gia tiên năm mới

    Nam mô A Di Đà Phật
    Nam mô A Di Đà Phật
    Nam mô A Di Đà Phật

    Kính lạy: Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh, và các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.

    Hôm nay là ngày mùng một Tết, tháng Giêng, năm ………

    Chúng con là: ………………
    Tuổi: ……………………………….

    Hiện cư ngụ tại số nhà …….. Đường…….. Khu phố ……

    Phường ……………Quận………..Thành phố……………..

    Nay theo tuế luật, âm dương vận hành tới tuần Nguyên đán, mồng một đầu xuân, mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân. Do đó, chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng trước án.

    Kính mời các cụ Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, bá thúc đệ huynh, cô di tỷ muội, nam nữ tử tôn nội ngoại, cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng về linh sàng, phù hộ độ trì con cháu, năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông, bốn mùa không hạn ách nào xâm hại, tám tiết có điềm lành tiếp ứng.

    Tín chủ lại mời các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong đất này cùng về hâm hưởng.

    Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám.

    Phục duy cẩn cáo!


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Văn khấn Gia tiên mùng một tết

    Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu –

    Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu là gì? Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Nhóm máu A, B .. Thì sao? Củ thể như thế nào các bạn cùng đọc bài viết sau để có câu trả

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu là gì? Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Nhóm máu A, B .. Thì sao? Củ thể như thế nào các bạn cùng đọc bài viết sau để có câu trả lời một cách chính xác nhất nhé!

    Nội dung

    • 1 Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu
      • 1.1 Nhóm máu A: Cần những cô gái ấm áp
      • 1.2 Nhóm máu B: Cần những cô gái chỉ đường
      • 1.3 Nhóm máu AB: Cần những cô gái chín chắn
      • 1.4 Nhóm máu O: Cần những cô gái biết đồng cảm

    Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu

    Nhóm máu A: Cần những cô gái ấm áp

    Những chàng trai nhóm máu A luôn giúp đỡ người khác, thích cho đi, biết hy sinh và có tinh thần trách nhiệm. Họ không giỏi trong việc biểu đạt những nhu cầu của bản thân. Mặc dù nhìn họ rất kiên cường, cởi mở và điềm tĩnh nhưng thực ra họ vô cùng mong muốn người khác hiểu và quan tâm tới mình.

    Nếu có một cô gái thiện lương, thật lòng yêu họ xuất hiện, dùng sự vui tươi và ấm áp chiếu rọi cuộc sống của họ, khích lệ họ nói ra những nhu cầu chôn giấu ở trong lòng, khiến họ biết cách đáp ứng các nhu cầu đó thì cuộc sống của họ sẽ vui vẻ hơn rất nhiều.

    Nhóm máu B: Cần những cô gái chỉ đường

    Tư duy của các chàng trai thuộc nhóm máu B rất lung tung. Chẳng hạn như họ sẽ có cảm hứng bất tận với những thứ rộng lớn, không có giới hạn, nhưng cũng thường lãng phí sức lực của mình cho những thứ đó. Mặc dù họ cũng ý thức được điều này nhưng lại không thể khống chế được bản thân.

    Vì thế, các chàng trai nhóm B cần một người bạn đồng hành sáng suốt có thể dẫn họ thoát khỏi màn sương mù dày đặc, có thể chỉ hướng cho họ trên đại dương mênh mông, hoặc đưa họ trở về đúng hướng khi bị chệch khỏi đường ray.

    0-2268-1394011926

    Nhóm máu AB: Cần những cô gái chín chắn

    Trong tình yêu, mặc dù không nhất thiết sẽ thể hiện ra, nhưng những chàng trai thuộc nhóm máu AB có tính ỷ lại rất lớn. Bất kể ở độ tuổi nào, bên trong họ vẫn ẩn giấu một bộ mặt trẻ con và chưa hoàn toàn trưởng thành. Tư duy của họ khá nhanh nhạy, nhưng lại không được chắc chắn, thậm chí nhiều lúc còn mâu thuẫn với nhau.

    Nếu có một người bạn gái chín chắn, biết quan tâm, hiểu được rằng họ cảm thấy không an toàn với cuộc sống, bảo vệ, che chở, yêu thương họ thì họ sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

    Nhóm máu O: Cần những cô gái biết đồng cảm

    Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Mặc dù ăn ý với nhau nhưng hai bên vẫn phải cho đối phương những không gian riêng tư. Các chàng trai nhóm máu O ghét nhất là nói chuyện vòng vo, phiền phức. Với họ, nói chuyện hợp nhau là điều kiện quan trọng để bắt đầu mối quan hệ.

    Nếu thấy những người khác giới nói chuyện không suy nghĩ, dù các mặt khác có hấp dẫn thế nào đi chăng nữa thì họ cũng sẽ tìm cách tháo chạy. Các chàng trai thuộc nhóm máu này khiến người khác yêu thích bởi khả năng kiểm soát và làm chủ của họ, nhưng họ lại muốn mình và người yêu giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau vun đắp tình yêu.

    Xem thêm: 12 cung hoàng đạo


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu –

    Sáu thời kì lớn phát triển sự nghiệp cá nhân

    Một bài viết về áp dụng quẻ Càn trong kinh dịch cho phát triển sự nghiệp cá nhân rất hay. Đây là bài viết rất giá trị.
    Sáu thời kì lớn phát triển sự nghiệp cá nhân

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Sáu hào của quẻ Càn đều là long (rồng): tiềm long (rồng lận), kiến long (rồng hiện), thích long (rồng cảnh giác), diệu long (rồng vọt nhảy), phi long (rồng bay), cang long (rồng kiêu căng), biểu thị 6 thời kì trải qua của rồng từ dưới đất bay lên trời. Trên thực tế tất cả mọi sự vật đều không phải là bản thân của "sự vật" mà chẳng qua là mọi quá trình biến đổi mà thôi.

    Quẻ Càn trình bày, chính là quá trình biến đổi từ "tiềm long" đến "cang long". Cũng giống như chúng ta ngồi trong một toa tàu, bị đưa đi qua từng ga một, đây là quá trình chúng ta tiến dần đến nơi định đến.

    Quá trình thiên biến vạn hóa này là dùng thời gian để biểu thị, không có thời gian thì sự biến hóa cũng mất ý nghĩa. Không có biến hóa, thời gian cũng sẽ ngừng lại. Vì vậy, chúng ta hiểu thời gian là khoảng trống giữa các sự vật trước sau xảy ra.

    Quá trình vận hành của tự nhiên, luôn phải qua mấy giai đoạn như sau: tiềm tàng ấp ủ sức sống; nảy mầm mọc ra: trưởng thành khó khăn, lớn lên mạnh mẽ; nở hoa kết trái, hoa rơi là rụng. Sau đó, trở lại ban đầu, bắt đầu lập lại, tuần hoàn không ngừng. Đây chính là quy luật vận hành của giới tự nhiên.

    Quy luật của tự nhiên: lớn nhất, trung dung nhất, ngay thẳng nhất, có công năng to lớn nhất là tạo đặt nền móng, hanh thông (thuận lợi), tốt lành và kiên trinh quay trở lại tử đầu, đến vô cùng vô tận là điển hình hành vi của loài người đến "chí cao vô thượng" (cao nhất không có gì vượt qua).

    Chúng ta nên bắt chước quy tắc này, hiểu rõ đạo trời từ không đến có, từ được đến mất, như thế trong sự nghiệp mới có thể nắm chắc thời cơ biết tiến biết lui.

    Tác giả của "Kinh Dịch" từ quy tắc của đạo trời hiểu rõ được quy tắc xử thế của người quân tử. Cho rằng người quân tử trong phát triển sự nghiệp cũng có 6 thời kì:

    Thời kì ẩn náu của "tiềm long vật dụng" (rồng ẩn không phát huy tác dụng)

    Thời kì hiển hiện của "kiến long tại điền" (rồng xuất hiện tại ruộng).

    Thời kì trưởng thành của "chung nhật kiền kiền" (suốt ngày hiện rõ tư thái luôn luôn tự cường).

    Thời kì lớn mạnh của "hoặc diệu tại uyên" (hoặc vọt lên hoặc lặn xuống).

    Thời kì cực thịnh của "phi long tại thiên" (Rồng bay trên trời).

    Thời kì suy bại của "cang long hữu hối" (bay lên tột đỉnh, có hối hận).

    Khi ở thời kì ẩn náu, người quân tử phải nên giác ngộ, không để phát ra lực lượng mà cần kiên định niềm tin, nín lặng chờ đợi thời cơ, không được manh động.

    Khi ở thời kì hiển hiện, người quân tử nên lấy điều thành tín (chân thành tin tưởng) làm gốc kết hợp với sức lực tiếp gần quần chúng, như vậy mới có thể giành được chỗ đứng.

    Khi ở thời kì trưởng thành, người quân tử nên phải có hành vi mạnh mẽ, luôn luôn tự cường, làm phong phú, đầy đủ lực lượng. Đồng thời càng cần phải biết cảnh giác và biết sợ để tránh nguy hiểm dẫn đến bị tổn thất và hủy hoại.

    Khi ở thời kì lớn mạnh, người quân tử nên củng cố cơ sớ đoàn kết quân chúng, thận trọng nắm chắc thời cơ có lợi nhất, hành động một lần là thành công.

    Khi ở thời kì cực thịnh, người quân tử cần phải giữ nguyện ước ban đầu thực thi hoài bão, chọn người hiền tài giao công việc, tạo phúc cho quần chúng, làm cho từng người có được vị trí của họ và từng người đều thu được lợi ích của họ.

    Khi ở thời kì suy bại, người quân tử phải bình tĩnh đối xử, từng giờ từng phút phải cảnh giác, không được hấp tấp vội vàng, phải đề phòng và ngăn ngừa kiêu ngạo, thuận theo lẽ tự nhiên tùy cơ ứng biến, cứng rắn kết hợp mềm dẻo, tiến thoái hợp thời. Kiên trì giữ trong sáng tránh tà ác.

    Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy "Kinh Dịch" không chỉ là diễn giải đạo Trời, Đất mà còn giảng giải đạo làm người nữa.

    Đạo là để dùng cho người, cho nơi dùng, xét đến cũng là giảng đạo làm người. Mỗi người trong cuộc đấu tranh sinh tồn biến đổi, đều muốn có một năng lực phân rõ khoảng cách của thời gian, không có năng lực này sẽ không thể nắm chắc một cách chính xác thời thế, dẫn đến bỏ lỡ mất thời cơ.

    Những điều mà "Kinh Dịch" dạy chúng ta chính là năng lực này, gợi ý cho chúng ta bồi dưỡng năng lực này ra sao. Quẻ Càn dùng 6 tình huống của Rồng (long) biểu thị rõ người quân tử tiến thủ nên tung ra những cử động như thế nào trong từng thời kì khác nhau để đạt thành công.

    Ý nghĩa của việc học tập "Kinh Dịch" là ở chỗ:

    1. Làm cho chúng ta có thể biết chính xác mình đang trong thời kì lịch sử hoặc giai đoạn phát triển như thế nào?

    2. Giúp chúng ta đưa ra các chiến thuật, chiến lược tương ứng.

    3. Điều chỉnh phương hướng hoặc phương thức tư duy vốn có của chúng ta.

    Trên thực tế, bất cứ sự vật nào đều tồn tại 6 tình huống như thế. Chỉ có điều là người ta không rõ ràng hoặc không rõ ràng lắm. Nếu chúng ta có thể hiểu một cách sâu sắc ý nghĩa của quẻ Càn thì bất kể gặp tình huống sự việc gì đều có thể bình tĩnh xử lí. Nhìn rõ phát triển tương lai của sự việc, xác định được địa vị của mình. Vì thế, quẻ Càn không chỉ là chỉ một sự việc, một cá nhân riêng lẻ, nó thích hợp với tất cả mọi sự việc và mọi người. Nó là một loại triết học.

    (Trích từ cuốn sách Thiên Thời - Bạch Huyết)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Sáu thời kì lớn phát triển sự nghiệp cá nhân

    Tiktok channel

    Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd