Tính cách của người mắt lồi thường đa tình –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Người sinh năm 1973 mệnh gì? Cuộc đời người này trải qua những thăng trầm biến cố gì? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá những bí mật này nhé. Cuộc đời con người có vận mệnh ra sao phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Hôm nay, hãy cùng Lịch ngày tốt xem tử vi để tìm hiểu người sinh năm 1973 mệnh gì, họ có tính cách ra sao và có vận mệnh như thế nào nhé.
Nhiều bạn đang thắc mắc nằm ngủ hướng nào tốt? Theo phong thủy phòng ngủ thì Ngủ hướng Bắc sẽ giúp bạn tránh tình trạng mất ngủ; hướng Nam cực kỵ cho sức khỏe lẫn tài vận. Củ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây để chọn cho mình một hướng nằm ngủ tốt nhé!
Nội dung
Tư thế nằm đầu quay về hướng Bắc, chân về hướng Nam sẽ giúp bạn tránh được tình trạng mất ngủ và khó ngủ, chằn chọc. Đây là hướng nằm lý tưởng cho những ai thính ngủ vì nó khá yên tĩnh và thoải mái về cả phong thủy lẫn khoa học. Bởi nằm ngủ như vậy, từ trường sẽ đi qua cơ thể một cách ổn định, giảm tối đa sự can thiệp của từ trường trái đất.
Ngược lại, nếu nằm ngủ hướng đầu theo phương Đông Bắc, bạn sẽ khó ngủ và thường xuyên mơ thấy ác mộng. Tốt nhất bạn nên tránh nằm quay đầu về hướng này để có được giấc ngủ ngon lành, tốt cho sức khỏe.
Hướng Đông được coi là hướng ngủ lý tưởng cho tuổi trẻ bởi nó tràn đầy sinh khí, giúp người ngủ tăng cường ý chí phấn đấu vươn lên trong sự nghiệp, theo đó sự nghiệp sẽ thăng tiến không ngừng.
Ngoài ra, bạn có thể nằm chếch theo hướng Đông Nam nếu bạn đang cần sự sáng tạo trong công việc. Bởi đây là hướng thúc đẩy sức sáng tạo, đồng thời tăng cường các mối quan hệ xã giao, giúp bạn thuận lợi và thành công hơn trong sự nghiệp.
Ngủ quay đầu về hướng Tây sẽ giúp bạn nhanh chóng rơi vào giấc ngủ cũng như có được giấc ngủ sâu, ngon và đầy thơ mộng. Tuy nhiên, hướng ngủ này không phù hợp với những ai chưa có sự nghiệp ổn định bởi nó khiến bạn trở nên lười biếng, chậm chạp và thường rơi vào thế thụ động. Nó sẽ là rào cản vô hình cản trở sự thăng tiến trong sự nghiệp của bạn.
Theo Ngũ hành, hướng Nam chứa Hỏa khí cực mạnh, không tốt cho việc nằm ngủ. Năng lượng Hỏa quá mạnh chứa đựng nhiều sự bất hòa mặc dù hướng này giúp khơi gợi niềm đam mê và hứng thú với công việc, cuộc sống.
Xem thêm: Xem hướng nhà tốt theo tuổi
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác |
Khi người đã trút hơi thở cuối cùng, lấy một chiếc đũa để ngang miệng vào giữa hai hàm răng đợi giờ phạm hàm, lấy tờ giấy trắng đắp lên mặt người chết Phạn hàm và chiêu hồn Theo tục lệ xưa, họ hàng hoặc con cháu lấy một nấm gạo nếp vo sạch, ba đồng tiền kẽm mài cho sạch rồi bỏ vào miệng của người chết.Tục này gọi là phạn hàm. Nếu nhà khá giả thì bỏ vàng và châu báu vào miệng người chết để chứng tỏ sự hiếu thảo của mình. Việc làm này ngụ ý không muốn để người chết mà miệng phải trống rổng và thèm muốn. Làm lễ phạn hàm xong, thì trãi chiếu dưới đất, đem người chết xuống nằm nơi ấy (theo phong tục cổ truyền có nghĩa là người ta sinh ra từ đất và khi chết lại trở về đất) Để được một lát lại rước người chết đặt lên giường. Người con cầm cái áo của người chết từng mặc, tay trái cầm cổ áo, tay mặt cầm lưng áo, rồi từ phía trước nhà treo lên nóc, dùng tên gọi của người, chiêu hồn ( gọi hồn người chết ) ba tiếng, có ý cầu mong cho người đó sống lại, sau đó mới lấy chiếc áo đắp lên thi thể người vừa mới chết - Con cháu trong nhà phải yên lặng, cầu nguyện hoặc là rước Thầy về tụng kinh độ vong, Người trong gia đình đều phải đi chân không, không mang nữ trang, không trang điểm son phấn. Con cái trong nhà và những người thân thuộc phải bịt khăn tang trắng cho đến khi thành phục Khâm liệm và nhập quan Những gia đình giàu có thì dùng vóc nhiễu tơ lụa, nhà nghèo thì dùng vải trắng may thành đồ tiểu liệm và bốn cái túi để bao tay, bao chân người đã mất. Đồ tiểu liệm có thể là một tấm chăn nhỏ bọc lấy thi thể rồi đến một đai buộc dọc, và một đai buộc ngang, bên ngoài đồ tiểu liệm đến đồ đại liệm là một tấm chăn lớn bọc kín thân thể, có một đai buộc dọc và năm đai buộc ngang. Ngoài hết là tấm tạ quan,Nhà ai nghèo không đủ tiền mua sắm những vật như thế thì cũng cố kiếm một tấm vải mỏng để bọc,Khi khâm liệm, người ta lấy giấy sạch chèn vào những chổ trống để cho thi thể được ngay ngắn,Sự khâm liệm này có ý trân trọng, tiếc nhớ và giữ gìn di hài người đã khuất, Đúng vào giờ đã chọn, con cháu vào khâm liệm xong, rước thi thể đặt vào quan tài, kê đệm cho ngay ngắn,Quan tài bao giờ cũng phải đặt chính giữa nhà, nếu người trong nhà còn sống tuổi tác lớn hơn người đã chết, thì quan tài có thể đặt khiêm nhường qua một bên, đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân, trước trời đất, Sau đó đập nắp quan tài, sơn và gắn kỹ càng trên nắp quan tài luôn luôn thắp bảy ngọn nén ( thất tinh ) đặt ly hương, một chén cơm, một đôi đũa và một hột trứng gà chín đã bóc vỏ để thờ, Giờ nhập quan, người ta hay tránh và kiêng cử tuổi vong và tuổi trưởng, Từ đây con cháu thường trực quanh linh cữu để cúng lễ hoặc tạ lạy những khách đến phúng điếu Đặt linh sàng, linh toạ Nhà rộng rãi khi có đám tang thì được đặt linh sàng,Linh sàng thì thường là một cái giường kê ở bên linh cửu về phía tay mặt, cung phụng như chổ ngủ lúc người còn sống, có mùng màn, chăn chiếu, gối nệm tử tế Linh tọa là bàn thờ vong linh, đặt trước quan tài, Trên linh tọa có đèn cầy, đặt chân dung người quá cố hoặc có thêm bài vị nữa, Phía ngoài cùng thì kê hương án bàn độc
Lễ thành phục
Lễ thành phục còn gọi là lễ phát tang. Sau khi đã làm từ linh sàng, linh tọa xong và sắm đủ tang phục dùng một ít dâng lên linh tọa, thì con cháu bắt đầu xỏa tóc, mặc đồ tang theo thứ tự, ngôi bậc trong gia đình, sắp hàng trước hương án khóc lạy người quá cố, Có đám tang mời thầy đến tụng kinh siêu độ, và trống phách đưa tiễn vong linh người mất. Đồ tang phục Con trai, con gái, con dâu thì đều bịt khăn sô, đội mủ kết bằng sợi chuối, trong mặc áo quần bằng vải thô xấu, bên ngoài mặc áo xô, ngoài cũng quàng sợi dây chuối, thắt lưng bằng chạc hay cũng bện bằng sợi chuối, đi giầy kết bằng cỏ gai hoặc rơm rạ. Nếu người cha chết, thì áo quần may bỏ xổ gấu, mẹ chết thì may áo có vén gấu, có ý là cha hơn mẹ một bực, nên tục ngữ ta có câu : " Cha buông, Mẹ vén " là theo tục ấy, Nhưng nếu người mẹ mất sau cha thì tang phục cũng không cần phải phân biệt như trên, Áo phải khâu đường sống lưng lộn mép vải ra ngoài và giữa lưng có một miếng vải khâu bám vào, người xưa gọi là " phụ bản " tỏ ý cõng trên lưng mình một sự đau xót tiếc thương, Con gái đã xuất giá ( lấy chồng ) thì chỉ mang áo vén gấu để tang cha mẹ đẻ mà thôi. Con Trai phải chống gậy, việc này đối với người xưa hệ trọng lắm. Người có gia thất rồi mà khi mất không có con trai chống gậy đưa tang thì gia quyến tự coi là điều sĩ nhục đau đớn. Gậy tang cha thì bằng trúc, gậy tang mẹ thì bằng vông, bề dài lên ngang ngực nơi chổ trái tim của người chống gậy, Sỏ dỉ có tục lệ này vì người xưa cho rằng : Gậy tang cha bằng trúc, trúc hình tròn tượng trương cho Trời, trúc bốn mùa không đổi tiết cũng như tấm lòng con thương cha vì thế mà không thay đổi,Gậy tang mẹ bằng vông, nữa trên tượng trưng cho Trời, nữa dưới vuông tượng trưng cho Đất ( 1 ) Cả hai thứ gậy tang đều phải chống xuống đất, Bề dài của gậy tang phải ngang với quả tim ngừoi cầm, ý rằng người con hiếu thảo, khóc thương quá độ mà sinh ra đau ốm, phải có cây gậy chống đỡ, Đau ốm từ tim phát ra, nên gậy tang phải ngang để chống đỡ với nỗi đau con tim ấy, Riêng con rể và cháu thì đội mũ mấn khăn áo trắng, Nếu như người con cả chết trước cha mẹ mình, mà có sinh được con trai để lại thì lúc cha mẹ chết, đứa con trai ấy phải thay mặt cha mình chống gậy để báo hiếu ông bà và phải đứng chủ các việc tế lễ gọi là cháu đích tôn thừa trọng tang phục cũng như người con trai vậy Chuyển linh cửu Nữa đêm hoặc sáng sớm hôm cất đám thì làm lễ chuyễn linh cửu - nghĩa là di chuyễn quan tài, Xưa kia những gia đình có nhà thờ riêng, thì nhất thiết phải rước linh cửu đến triều bái tổ tiên, tức là chào từ biệt tiên tổ để về nơi chín suối, Nhưng lễ này rắc rối và phiền hà, nên về sau người ta bỏ dần, Trước khi động quan con cháu xúm xít quanh quan tài nhắc lên đặt xuống ba lần để cho người chết cáo vong, cáo tổ trước khi về cõi âm Cất đám Cất đám, tức là rước linh cửu đi an táng, Sáng sớm trước khi cất đám phải làm lễ cáo vễ việc này cho họ hàng bà con thân thiết được biết, đến giờ, những đô tuỳ vào rước linh cửu đặt lên linh dư, đầu quan tài cũng bao giờ đi trước, việc này có hàm ý là người chết đi từ chổ tối ra chổ sáng,Linh cửu dần dần chậm rãi chuyễn đi, con cháu, anh em, họ hành thân thiết tay bám vào quan tài mà khóc than, tiếp đến bạn bè thân hữu đi sau, Trong khi đưa đám, nếu người con trai nào đi vắng xa không về kịp tang lễ thì cây gậy của người ấy phải đem treo ở đầu đòn khiêng, con gái, con dâu thỉnh thoảng phải nằm lăn ra mặt đường, con gái nằm ngoảnh mặt tới trước, con dâu nằm ngoảnh mặt trở lại sau, Ý nghĩa của việc nằm lăn ra đường này để chứng tỏ rằng mình đem thân ra nằm trên những chổ đường lồi lõm, cao thấp cho linh cửu của cha, mẹ mình ra đi được êm đềm, và tỏ lòng đạo hiếu của con cái
Nghi lễ đi đường
Đám tang thường có hai thần phương tướng đi đầu để trừ tà tịch, Ngày xưa hai người này đều đeo mặt nạ, cầm giáo mác, đóng vai Thần dẹp ôn tịch, trừ đạo tặc, Theo sau Phương Tướng là hai người rước một bức hoành tráng vả trắng có bốn chữ " Hổ sơn vân ám " ( cha mất ) hay " Dĩ lĩnh vân mê " ( mẹ mất ) sở dĩ có bức hoành tráng này dùng vào việc khóc thương cha mẹ quá cố bở người xưa có câu : " Trèo lên núi Hổ, ta trông thấy Cha Trèo lên núi Dĩ, ta trông ngóng Mẹ " Tiếp đến là miếng vải làm bằng vóc nhiễu the lụa hoặc bằng giấy đỏ cũng được để đề tên họ người quá cố, được treo vào cành tre như cây phướng, hoặc căng thẳng dựng đứng để lên bàn cho hai người khiêng, sau đó, mới đến hương án, giá hương, đồ tam sự và một mâm ngũ quả, lợn quay, bánh trái, giấy vàng bạc rãi suốt dọc đường linh cửu đi qua để tống tiền ma quỷ khỏi bám vào quan tài nặng nề khó đi Hạ huyệt Khi đám tang đưa đến huyệt, người ta đem hai thẫn phướng dạo bốn góc huyệt, đọan đưa quan tài xuống, Hạ linh cửu xuống huyệt, rồi mới tháo minh tinh rải lên mặt quan tài, đoạn con cháu khóc lạy, và bà con, bè bạn, mỗi người nắm một hòn đất, hoặc một cành hoa xuống huyệt, rồi mới bắt đầu lấp đất, việc này có ý cho người chết được ấm cúng bởi sự đấp đập của những người còn sống, trong khi lấp đất thì gia quyến bày lễ cúng Hậu thổ cầu cho người nằm dưới mộ được thảnh thơi yên ổn Cúng quy lăng Những người theo đạo phật, thì trước khi lấp đất thuỜng nhờ đến các sư, tăng làm lễ cúng phật độ, vừa niệm kinh vừa đi quanh mả gọi là " dong nhan " Sự khóc lạy Trong khi đám ma còn để trong nhà, con cháu và khách đến viếng chỉ lạy hai lạy, nghĩa là còn coi như người ấy đương sống, Mai táng xong mới lạy bốn lạy, tức là mới lấy đạo người chết mà thờ - Khách đến viếng, người thường thì lạy không, người thân thì khi lạy phải ô, hô ba tiếng để tỏ lòng thương tiếc - Khách đến viếng lạy, con cái vừa khóc, vừa lạy đáp, nhưng chỉ đáp lễ một lần, khách lạy hai thì mình lạy một, Con cái khi làm lễ trước linh toạ, hay khi đáp lễ khách, phải quỳ dưới đất, không được quỳ trên chiếu Tế ngu An táng người chết xong, về nhà lại cúng tế, gọi là " Tế ngu " Ngu có nghĩa là yên để cho vong hồn người khuất được yên ổn, Tuần lễ sau ngày an táng gọi là " sơ ngu " tế xong thì đem hồn bạch chọn một chổ đất vắng lặng sạch sẻ mà chôn xuống, sau tuần sơ ngu lễ còn đặt ra hai tuần lễ " tái ngu " và " tam ngu " ở những ngày hôm sau nữa, việc này thường những nhà khá giả mới tổ chức Cúng cơm ba ngày Ngày thứ ba sau khi an táng, gia quyến còn có lễ cúng cơm ba ngày ( hay gọi mở cửa mã ) buổi sáng con cháu đem trầm hương ra viếng mã, và sửa sang cho đẹp, xong về nhà cúng vái, mời bà con họ hàng ăn uống, tạ lễ Cúng cơm hằng ngày, hằng tuần An táng rồi thì ngày nào cũng phải cúng cơm hai bửa, thường là bát cơm với quả trứng luộc, hoặc khi người còn sống thích gì thì cúng nấy Chung thất ( 49 ngày ) Bốn mươi chín ngày gọi là cúng tuần chung thất, dịp này các gia đình đạo phật hay mời các vị sư tụng niệm, sám hối, cầu vong linh siêu sanh tịnh độ - Đây cũng là tuần thất cuối cùng Tốt khốc ( 100 ngày ) Một trăm ngày kể từ khi người chết đã khuất, thì gia đình phải cúng tuần " tôt khốc " có nghĩa là ngừng khóc, Cúng xong tuần này thì từ đây về sau không còn cúng cơm hằng ngày Tiểu tường ( giổ đầu ) Được một năm thì giổ đầu -thường gọi là " tiểu tường ", Đến kỳ lể này thì tất cả áo quần của ngày tang con cái, anh chị em, phải mang lại để làm lễ, trừ những đồ sô gai, mũ cũng bỏ cho nhẹ bớt và bắt đầu làm lễ lại như người thân vừa mới mất, kỳ lễ này người ta thường mua sắm đồ hàng mã, cúng kiếng rồi đốt cho người cõi âm Đại tường Được hai năm kể từ sau ngày người quá cố gọi là giổ hết ( mãn khó ) hoặc đại tường, Lễ này con cháu sau khi lễ xong thì bỏ hết đồ tang * ( 1 ) Người xưa quan niệm Trời tròn, đất vuông ( Sụ tích bánh dày, bánh chưng )
Lưu ý trước khi an táng, mai táng cần phải xem có bị trùng tang hay không, chọn ngày tốt để an táng. tránh những giờ xấu, giờ phạm.
Bài viết của tác giả Phong Nguyên
Trong thời gian tôi phụ trách về mục “Tạp ghi Tử vi” trên tờ KHHB này, nhiều độc giả có trực tiếp hoặc gián tiếp nêu những thắc mắc của mình về tử vi với tôi để nhờ giải đáp. Thú thực tôi tuy rất cảm động và thích thú khi thấy độc giả chú ý tới mình nhưng tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng vì dù sao, tôi chỉ là người học “ăn đong” về tử vi mà nay lại đóng vai thầy khoa này thì hơi lố bịch. Nhưng nếu cứ làm thinh lại phụ lòng tin của độc giả nên tôi đánh liều giải đáp với hy vọng, sẽ giúp ích được phần nào cho các độc giả liên hệ cũng như cho quý bạn, vì đa số những thắc mắc của độc giả đều hữu lý và khá đặc biệt, thậm chí còn có nhiều điều tôi không tài nào giải đáp nổi, đành phải bỏ qua, và nếu có dịp tôi sẽ nêu các điều đó ra, để nhờ các vị cao thâm trả lời giúp.
HỎI: Tại sao tôi gặp đại hạn Thiên Tướng gặp Kiếp Không hãm địa mà trong suốt 10 năm vẫn không hề bị gián đoạn công danh hoặc mất chức trong khi nhiều sách tử vi cho là bị “đái ấn triệt hồi”?
ĐÁP: Về điểm này, các nhà tử vi có hai ý kiến, nhóm thì đồng ý là “đái ấn triệt hồi” và nhóm thì cho rằng “Thiên Tướng bất kỵ Kiếp Không”. Riêng tôi chiêm nghiệm được rất nhiều lá số của những người thân thuộc bị Thiên Tướng gặp Không Kiếp mà họ đều không gặp trở ngại nào trên đường công danh. Theo thiển ý, Thiên Tướng tiêu biểu cho người có uy danh, ngang tàng khí phách thời làm sao lại bị Không Kiếp (tượng trưng cho côn đồ, du đãng)…áp đảo nổi, dù cho Thiên Tướng hãm địa và dù cho Không Kiếp đắc địa cũng vậy. Chỉ có đáng ngại là nếu Thiên Tướng đã gặp Không Kiếp rồi mà còn bị Triệt án ngữ ngay tại cung thì lúc đó mới thực là “đái ấn triệt hôi”, còn nếu gặp Tuần thay vì Triệt cũng vẫn chưa chắc Thiên Tướng chịu thua Không Kiếp vì Tuần chỉ có tính cách phong tỏa, bao vây chứ không chém chặt như Triệt. Ngoài ra, nếu không bị Tuần, Triệt án ngữ nhưng lại bị Kình Dương đồng cung hoặc xung chiếu thì cũng đáng ngại lắm vì Thiên Tướng rất sợ sao này, dù miếu, vượng hay hãm địa. Chắc ông không bị trường hợp này.
- HỎI: Về cách tính đại hạn thường thường bao giờ cũng khởi từ Mệnh nhưng cũng có sách cho rằng phải khởi đại hạn từ cung Huynh đệ hoặc Phụ mẫu (tùy theo thuận hay nghịch) như vậy theo ý ông cách nào chính xác?
ĐÁP: ông nêu ra điểm này vừa đúng lúc tôi cũng định viết một bài về vấn đề Đại hạn. Thực ra tôi cũng rất phân vân vì dù sao cách khởi đại hạn thông thường đã được đa số tuyệt đối áp dụng và cũng đã có nhiều vị đoán trúng phong phóc về vận hạn, nhưng khổ một nỗi là tôi đã kiểm lại rất nhiều lá số với đại hạn khác biệt đó thì thấy hầu hết đều đúng cả, đến nỗi có một vài lá số nếu đoán theo đại hạn thông thường thì hoàn toàn sai trật. Nhân tiện tôi xin đưa ra ngày giờ sanh của một người bà con bạn tôi, để quý độc giả KHHB cũng như ông thử chiêm nghiệm thì sẽ thấy rõ ngay. Đương số sinh này 20 tháng 3 năm Mậu Thìn, giờ Tý Dương Nữ, và đã mất năm 1950 (Canh Dần) vì bị lao phổi. Sau khi lập ra lá số, ai cũng phải thấy ngay đại hạn ở cung Phu quân thật là quá xấu, vậy nên chết năm Canh Dần (tức là 23 tuổi) thì phải tính đại hạn khởi từ cung Huynh đệ để cho năm 22 tuổi thuộc đại hạn ở cung Phu quân. Nói tóm lại, bây giờ chúng ta chỉ còn cách chiêm nghiệm thêm thực nhiều lá số có những sự kiện khác thường và rõ rệt, để tìm ra cách khởi đại hạn nào chính xác chứ không thể nào hấp tấp bác bỏ cách khởi thông thường một cách hồ đồ được.
- HỎI: Tại sao mạng tôi có Song Lộc mà chẳng thấy giàu có gì, mặc dù giờ sinh của tôi rất chính xác vì các điểm khác không sai trật gì cả.
ĐÁP: Nếu ông hỏi điểm đó mà không gửi lá số của ông, thì làm sao tôi có thể trả lời hợp lý và chính xác được. Tuy nhiên, nếu vì một lý do riêng ông không thể cho coi lá số của ông được, tôi cũng cố giải đáp một cách tổng quát như sau: Thông thường thì mệnh đã có Song Lộc (với điều kiện đừng có đồng cung, vì như thế giảm rất nhiều tài lộc) thế nào cũng có thời gian giàu có. Nếu ông chưa thấy giàu thì ông cần nhận định xem ông có thành công dễ dàng về học vấn hay không, vì nếu ông đậu đạt tới cao khoa một cách lỗi lạc thì vấn đề giàu có phải giảm đi mạnh mẽ hoặc đến rất trễ vì Lộc tồn tượng trưng cho cái kho chữ hoặc kho tiền chứ không thể chứa luôn cả hai thứ, cho nên hễ học giỏi và cao thì tiền kém hẳn đi để nhường chỗ cho chữ chất trong kho. Như vậy chỉ còn ăn được sao Hóa Lộc và khi chỉ dùng được sao này thì phải chờ đến đại hạn có Hóa Lộc mới giàu có, nhưng phải tránh được Không Kiếp, Tuần, Triệt, Đại Tiểu hao. Ngoài ra, ông thử coi lại xem những đại hạn đã qua và hiện tại có bị nhóm sao này xâm phạm hay không, rồi lại phải xem cả phi tinh Tuần, Triệt, Đại tiểu hao có nhập tiểu hạn nữa không, như thế mới có thể hiểu được tại sao mình chưa giàu vì Song Lộc rất sợ những sao kể trên. Sau hết, nếu ông đã có vợ thì ông cũng nên coi cả lá số của vợ nữa để bổ túc thêm cho chính xác vì nếu cung Mệnh của vợ ông có Không Kiếp hoặc cung Phúc có 2 sao đó rồi lại có cả Tuần, Triệt chẳng hạn thì ông đừng hòng giàu có mà thất vọng không lụn bại là may lắm rồi. Đấy là chưa kể trường hợp đại hạn của lá số vợ ông lại có cả Đại tiểu hao nữa, thì thật là con số không to tướng cho sự giàu sang của ông. Trường hợp ông học kém và không bị những yếu tố kể trên phá cách Song Lộc, thì ông chỉ việc chờ ngày hốt bạc, nếu ông tin chắc ngày giờ sanh của ông rất đúng. Nếu ông học giỏi mà sau này lại thật giàu có nữa thì chắc cung Phúc đức của ông phải tốt lắm, khiến ông được toại nguyện cả hai bề quan trọng nhất cho cuộc đời. Mong ông được cách tốt như vậy, để ông khỏi thắc mắc về Song Lộc nữa.
- HỎI: Tôi thấy trong sách của cụ Song An Đỗ Văn Lưu về tử vi có nói là đàn bà, con gái mà có sao Đào Hoa cư Nô bộc thì hư hỏng lắm nên tôi lo ngại cho người con gái út của tôi quá, vì cung Nô của cháu cũng có Đào hoa. Vậy xin ông vui lòng cho biết ý kiến sớm để tôi có một ý niệm dứt khoát.
ĐÁP: Trước hết xin bà đừng nghĩ là lời giải đoán của tôi có thể chính xác đến mức làm cho bà có một ý niệm dứt khoát. Tôi chỉ biết đem hết khả năng ra mà nói cho trung thực, còn vấn đề trúng hay trật tôi không thể chắc được. Bình thường đàn bà, con gái không nên có sao Đào hoa tại cung Nô bộc vì ít khi tôi thấy có trường hợp đứng đắn. Nếu đàn ông hoặc thanh niên có cách đó thì nhiều khi vẫn thấy họ đứng đắn vì dù sao họ cũng đóng vai chủ động, còn đàn bà thì phải chịu bị động cho nên dễ bị lôi cuốn. Tuy nhiên, đó mới chỉ là nói theo nguyên tắc thường cho cả 2 phái, vì thực ra còn phải xét cung Mệnh, Thân và Phúc đức (nhất là đối với Phái nữ) mới biết chắc được. Tỷ dụ Mệnh, người con gái có Khôi Việt, Quan Phúc, Hóa Quyền, Thiên hình và cung Phúc đức có Thiên Phủ rồi “Thân” có Thiên Tướng thì khó lòng đương số hư hỏng được, dù có lui tới nơi ăn chơi, khiêu vũ…cũng chẳng lay chuyển được tâm hồn đoan trang của đương số nhưng vẫn phải đoán là đương số thường hay giao thiệp với giới ăn chơi. Còn phái nam chỉ cần một hai sao đàng hoàng tại Mệnh thời cũng đủ tư cách rồi, chỉ trừ khi họ có Riêu, Mộc, Cái, Xương, Khúc, Tham Lang thủ mệnh chẳng hạn thì mới quyết đoán là họ trác táng, ăn chơi bừa bãi, không tôn trọng luân thường.
KHHB số 74F1
Ca dao Việt Nam ca ngợi tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình là một trong những chủ đề tiêu biểu của ca dao, dân ca. Những câu thuộc chủ đề tình cảm gia đình thường là lời ru của mẹ, lời của cha mẹ, ông bà nói với con cháu, lời của con cháu nói về cha mẹ, ông bà để bày tỏ tâm tình, nhắc nhở về công ơn sinh thành, về tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt.
Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
——-
Ai về tôi gửi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
———
Anh em cốt nhục đồng bào
Kẻ sau người trước phải hầu cho vui.
Lo là ăn thịt ăn xôi
Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng.
——–
Anh em ăn ở thuận hòa
Chớ điều chếch lệch người ta chê cười.
———
Anh em hiền thậm là hiền
Đừng một đồng tiền mà đấm đá nhau.
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận , hai thân vui vầy
Anh em trai ở với nhau mãn đại
Chị em gái ở với nhau một thời
Dù ai nói ngược nói xuôi
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Ân cha lành cao như núi Thái,
Đức mẹ hiền sâu tựa biển khơi,
Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sinh ta.
Anh đi vắng cửa vắng nhà
Giường loan gối quế mẹ già ai nuôi?
Cá rô anh chặt bỏ đuôi
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc,dở hay đỡ đần.
Ân cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Áo vá vai, vợ ai không biết
Áo vá quàng, chỉ quyết vợ anh.
Ba đồng một khía cá buôi
Cũng mua cho được để nuôi mẹ già.
Bao giờ cá lý hóa long
Đền ơn cha mẹ bỏ công sinh thành.
Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, trên trời chim bay.
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, tay này bắn chim.
Một tay tuốt chỉ luồn kim
Một tay làm ruộng, một tìm hái rau.
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một cầu cúng ma.
Một tay khung cửi, guồng xa
Một tay lo bếp, lo nhà nắng mưa.
Một tay đi củi, muối dưa
Còn tay van lạy, bẩm thưa, đỡ đòn.
Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Cầm cần câu cá ngược cá xuôi
Nấu canh rau bợ mà nuôi mẹ già
Cây khô chưa dễ mọc chồi
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Cha mẹ bú mớm nâng niu
Tội trời đành chịu, không yêu bằng chồng
Ai kêu ai hú bên sông,
Mẹ gọi con dạ có chồng phải theo.
Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi
Ngó không thấy mẹ ngùi ngùi nhớ thương.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt, nhớ ông bà bấy nhiêu.
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mộ mẹ ruột đau như dần.
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.
Cò bay xuống vũng trâu đằm,
Lấy rơm làm tổ cho con cò nằm.
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con con nói trầm trồ mẹ nghe
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đàn đứt dây
Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha mất gót con đen sì.
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.
Công cha nghĩa mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Con người có tổ, có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Chiều chiều ra đứng ngõ trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người.
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì
Chồng giận thì vợ làm lành
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa,chén trà ai dâng ?
Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm cho mẹ mẹ già yếu răng.
Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín lòng cha
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Dẫu rằng da trắng tóc mây
Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa
Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Đói no một vợ một chồng
Một miếng cơm tấm, giàu lòng ăn chơi.
Đôi ta là nghĩa tào khang
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.
Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
Em ơi nhớ về một đời người như nhớ về cả rẵng cây
Dì ruột thương cháu như con
Rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày mẹ thức đủ năm canh.
Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc
Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo.
Ngó lên nước xoáy ngùi ngùi
Nhớ ông Cao Tổ vua tôi một lòng.
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy
Lên chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
Lời kinh vang dậy ngân nga
Chạnh lòng nhớ nghĩ mẹ cha sinh thành.
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng
Thương thân goá bụa, phòng không lỡ thì
Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết còn gì là xuân
Mẹ già đầu tóc bạc phơ
Lưng đau con đỡ,mắt mờ con nuôi
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp mật, như đường mía lau.
Đường mía lau càng lâu càng ngát,
Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.
Ba hương lây lất tháng ngày,
Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.
Một mẹ nuôi được mười con
Nhưng mười con không nuôi được một mẹ.
Mẹ ơi! Đừng đánh con hoài,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi! đừng đánh con hoài,
Để con bắt cá, hái xoài mẹ ăn.
Mẹ ơi! Đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà mẹ đâu.
Chim đa đa đậu nhánh đa
Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa.
Một mai cha yếu mẹ già,
Chén cơm ai xới, kỷ trà ai dâng
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
Mỗi đêm con thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ ở đời với con
Mẹ già ở tấm lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Một ngày ba bữa cơm đèn
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng?
Mười làm chi, một làm chi
Sinh ra có nghĩa có nghì thời hơn
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con.
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền đáp khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.
Nuôi con mới biết sự tình
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa.
Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong.
Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao.
Ơn cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon.
Rương xe, chìa khóa em cầm
Giang sơn em gánh, nợ nần em lo.
Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi.
Thà ăn bắp hột chà vô
Còn hơn giàu có mồ côi mẹ già.
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già,
Thương con tần tảo sớm hôm,
Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn.
Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ,
Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi
Thuyền không bánh lái thuyền quầy
Con không cha mẹ ai bày con nên.
Tay nâng khăn gói sang sông
Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo.
Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Thương chồng phải lụy cùng chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu.
Từ ngày em về làm dâu
Thì anh dặn trước bảo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, bớt ngủ mà nuôi mẹ già
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà.
Tưởng rằng chị ngã em nâng
Ai ngờ chị ngã, em bưng miệng cười.
Trai mà chi, gái mà chi
Sinh con có nghĩa có nghì là hơn.
Trăm năm giữ vẹn chữ tòng
Sông sao thác vậy một chồng mà thôi.
Vẳng nghe con chim vịt kêu quạc quạc
Bâng khuâng nhớ mẹ ruột đau chín chiều
Thương thay cù lao chín chữ
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Ví dầu con phụng bay qua
Mẹ nói con gà con cũng nói theo
Vì chồng nên phải gắng công
Nào ai da sắt xương đồng chi đây.
Ví dầu cầu ván đóng đanh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Ví dầu mẹ chẳng có chi
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào rời.
Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi nhớ nghĩ những lời thiệt hơn.
Xin người hiếu tử lắng khuyên
Kịp thì nuôi nấng cho toàn đạo con
Kẻo khi sông cạn, đá mòn
Phú nga phú ủy có còn ra chi.
Xấu xa cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
Dọn dẹp nhà cửa đúng cách, đúng phong thủy vừa tiết kiệm thời gian, công sức, vừa đem lại nhiều may mắn, tài lộc cho gia đình.
Mùa xuân là mùa của sự đổi mới, sự trong sáng, kỷ niệm và đương nhiên là cả tình yêu. Bây giờ là thời gian để bạn vạch ra những bước đi táo bạo và thực hiện ước mơ của mình. Việc vệ sinh nhà cửa sạch sẽ có thể tạo ra điều kỳ diệu – nuôi dưỡng và tăng cường – năng lượng cá nhân. Phong thủy, như mọi khi, có thể giúp đỡ bạn làm việc này hoàn hảo với một loạt bí quyết mạnh mẽ, dễ dàng.
Hiện tại, nếu bạn vẫn đang cảm thấy trì trệ và thiếu hụt năng lượng sau một mùa đông dài, khắc nghiệt và đầy khó khăn, dưới đây là một số bước phong thủy đúng đắn, đã được chứng minh là có khả năng nâng đỡ nguồn năng lượng cho bạn.
Từ khóa chính bạn cần tập trung là làm sạch và loại bỏ sự lộn xộn, cố gắng bỏ đi tất cả những thứ không còn giá trị sử dụng, không phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của gia đình.
Vệ sinh và dọn dẹp nhà cửa làm cho không gian sống tươi mới hơn, đón nhận được nguồn năng lượng mới mẻ, đầy sức sống đến với ngôi nhà và cuộc sống.
Bí quyết 1:
Nếu bạn muốn cải thiện sức khỏe, hãy loại bỏ tất cả những thứ bẩn thỉu, lộn xộn đang “khóa chặt” dòng chảy năng lượng trong phòng bếp, đặc biệt là bên trong tủ bếp và tủ lạnh. Tình trạng của phòng bếp cũng chính là tình trạng sức khỏe của gia chủ, vì vậy, bạn nên ưu tiên giữ cho phòng bếp luôn sạch sẽ và thơm tho.
Sắp xếp lại tủ lạnh, vệ sinh bếp nấu và rửa lại toàn bộ nồi niêu, xoong chảo… là một vài công việc bạn cần thực hiện ngay tức thì. Nếu có thể, hãy chuyển sang sử dụng những phương pháp và công thức vệ sinh tự nhiên, an toàn và thân thiện với con người thay thế các loại hóa chất độc hại.
Lau dọn các ngăn kéo tủ, bề mặt bếp, hệ thống chiếu sáng… cũng tạo ra con đường mới để nguồn khí lưu thông và nuôi dưỡng năng lượng cho bạn tốt hơn.
Bí quyết 2:
Trang trí 3 chậu cây xanh tươi tốt để làm mới lại năng lượng của ngôi nhà. Một số loại cây xanh mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh phong thủy và năng lượng của sự khởi đầu mới.
Trường hợp bạn dự định đặt chậu cây trong bếp, hãy trồng những cây thảo mộc (cây gia vị) tươi tốt và có hương thơm như cây húng quê, cỏ thơm hoặc bạc hà… Ngoài ra, dành sự quan tâm cho lối vào (hành lang) và phòng bếp vì cả hai khu vực này đều có mối liên hệ chặt chẽ đến sức khỏe của bạn.
Bí quyết 3:
Tiếp theo, tiến hành vệ sinh, dọn dẹp phòng ngủ và phòng tắm. Bạn cần vứt bỏ bất cứ thứ gì không sử dụng đến trong suốt 6 tháng qua. Dọn sạch không gian bên dưới giường ngủ, lau cửa sổ và đừng quên trang trí lại căn phòng để phù hợp với mùa mới.
Bí quyết 4:
Nếu bạn mong muốn và thực sự hy vọng một mối quan hệ mới sẽ đến với mình, đừng chần chừ gì nữa mà hãy chuẩn bị ngay không gian riêng sẵn sàng cho “người ấy”. Sắp xếp lại tủ quần áo là cách làm mới dòng chảy và có thêm nhiều không gian để đồ hơn.
Bạn bắt buộc phải tạo ra một dòng chảy xuyên suốt, linh hoạt trong nhà để thu hút và nhấn mạnh được những gì đang tìm kiếm, mong mỏi. Và việc vệ sinh nhà cửa đem lại cơ hội tuyệt vời cho bạn để làm điều đó.
Bí quyết 5:
Cuối cùng, chắc chắn bạn hiểu rõ tầm quan trọng của việc dọn dẹp nhà cửa và cảm thấy thoải mái khi làm những việc này. Tốt nhất, tìm ra thời điểm thích hợp, chẳng hạn như thời điểm bắt đầu mỗi mùa mới trong năm để “thanh toán” nguồn năng lượng cũ và trì trệ trong nhà.
Sớm muộn còn báo hiệu tại Phối cung là các sao KÌNH chủ sớm, ĐÀ chủ muộn, HỶ THẦN tại Phối cũng báo hiệu niềm vui đến sớm từ cung này. Tuy nhiên từ vị trí HỶ THẦN cần có PHƯỢNG hay nhóm Tam Minh để thiên về niềm vui mừng sớm và tốt đẹp về sau. Nếu HỶ THẦN đi với nhóm TANG HƯ KHÁCH thiếu PHƯỢNG tất có bất trắc kèm theo về lâu dài không tốt đẹp. Dễ ở tình trạng chống đỡ với khó khăn (KÌNH) cản trở (ĐÀ) sau hôn nhân (từ vị trí HỶ THẦN luôn thấy KÌNH ĐÀ). Nếu cung Phu Quân xấu tất sinh chuyện phức tạp ở cung số này.
Bộ ÂM DƯƠNG quá sáng tại Phối cung cũng báo hiệu quá sớm.
Bộ Tam Minh tụ tập tại đâu báo niềm vui tại đó, nếu là Quan Cung công việc thuận lợi, Phối cung dễ có hỉ sự nếu chưa có gia đình, nếu có rồi báo hiệu 1 năm tình cảm tốt đẹp. Tử tức cung báo những tin vui do con cái mang lại. Nếu là Nô Cung là do bạn bè mang lại niềm vui đến cho ta….
2.5.2.Điều kiện về Chính tinh
Nam cần đi với nhóm ÂM DƯƠNG LƯƠNG (biểu tượng đôi nam nữ) hoặc nhóm CƠ ÂM LƯƠNG (hình tượng phụ nữ).
Nữ cần gặp nhóm SÁT PHÁ THAM (người đàn ông quấn quit bên tôi,phá… tôi).
Chung của cả nam nữ có thể gặp là PHỦ TƯỚNG chủ vỗ về, ve vuốt, thương yêu. Nói chung cả 3 nhóm sao kể trên đèu có dấu hiệu hôn nhân nhưng cần gặp các nhóm sao hàng Can và Chi, để quyết đoán.
2.5.3.Điều kiện về Bàng Tinh
Có thể gặp ít nhất một bộ Bàng tinh thuộc các nội dung từ “Mục a” đến “Mục c” sau đây
a.Bàng tinh hàng Chi cố định
Đại Hạn hay Tiểu Hạn có bộ Tam Minh (ĐÀO HỒNG HỶ), hoặc ĐÀO HỒNG cũng tốt hay Song Hỷ (THIÊN HỶ, HỶ THẦN) kế tiếp là bộ LONG PHƯỢNG, biểu tượng kết đôi của trai và gái, hai giới.
b.Bàng tinh hàng Can cố định
Đại Hạn hay Tiểu Hạn có bộ TƯỚNG BINH (hay nhất). Một sao chủ thương yêu gắn bó và 1 sao chủ phục vụ, và theo về. Bộ sao này hợp với chữ vu quy bên nữ. Tiếp theo là bộ HAO KÌNH ĐÀ có HỶ THẦN, chủ sự xây (ĐÀ) dựng (KÌNH) gia đình, tổ ấm.
c.Các bộ Bàng tinh Lưu động
Mỗi năm nhất định, ta luôn có bản đồ Phi Tinh cho cả Nam và Nữ. Từ bản đồ Phi Tinh của Nam hay Nữ kiểm tra cac bộ sao Lưu động giống như các bộ Bàng Tinh của hàng Can và Chi cố định. Cần lưu ý các bộ sao Lưu động tại năm lập gia đạo có thể lưu tại Mệnh Hạn, Tiểu Hạn và Phối Cung.
2.5.4.Kết luận
Hạn lập gia đạo cần thỏa mãn:
2.5.5.Tiếng sét ái tình, tình ảo
Một lá số có THIÊN TƯỚNG đi với KHÔI VIỆT hay từ vị trí THIÊN TƯỚNG có sao này dễ bị sét ái tình đánh te tua, nếu THIÊN TƯỚNG không có KHÔI VIỆT đánh thì sẽ đánh vào năm có lưu KHÔI VIỆT. Cho nên Mệnh có sao THIÊN TƯỚNG hội họp dễ bị sét ái tình.
Tương tự ta có cách Tình Ảo khi THIÊN TƯỚNG đi với TUẾ HƯ hay từ vị trí THIÊN TƯỚNG có TUẾ HƯ hội họp. Các năm TƯỚNG có TUẾ HƯ lưu vào cũng dễ bị tình ảo. Người TƯỚNG hội họi hay bị đặc điểm này vì 12 Chi khi xoay vòng tất có các năm TƯỚNG thấy TUẾ HƯ.
2.5.6.Các cách phản bội tình cảm
Mệnh có THIÊN TƯỚNG hạn đến CỰ MÔN. CỰ và THIÊN TƯỚNG luôn luôn kề nhau. THIÊN TƯỚNG qua hạn CỰ MÔN dễ gặp tình đã xa, CỰ MÔN đến hạn THIÊN TƯỚNG dễ phản bội tình cảm.
Mệnh có THIÊN TƯỚNG hay CỰ MÔN mà có TRIỆT đóng giữa hai sao này.
Mệnh đóng tại LƯƠNG hay TƯỚNG mà có TRIỆT đóng giữa hai sao này. Tình đi với Tiền, Tiền hết thì tình tan.
Đại Hạn hay Tiểu Hạn có CỰ MÔN đi với LỘC TỒN hay TƯỚNG QUÂN. Đó là cách Cát xứ tàng hung. Đó là cách dễ bi phản bội về tình cảm nhất.
Mệnh có CỰ MÔN có Lưu TỒN TƯỚNG ÂN hội họp cũng dễ xảy ra chuyện. Phối cung có CỰ MÔN hạn có TÔN TƯỚNG ÂN lưu vào cũng được kê là xấu.
Kỵ nhất là trường hợp có thêm KỴ cố định hay lưu động hội họp
2.5.7.Các cách đánh mất tình cảm
Mệnh, Hạn, Phối có SÁT PHÁ lại có TỒN TƯỚNG ÂN hoặc có TỒN TƯỚNG ÂN lưu vào dễ chịu cảnh thất tình, mất tình, bỏ tình kỵ nhất là trường hợp có KỴ cố định hay lưu động.
2.5.8. Cách dễ bị lộ chuyện trăng hoa (nếu có trăng hoa)
THIÊN TƯỚNG ngộ TRIỆT LỘ, TƯỚNG LỘ cách
Đây là cách mà các từ thường dùng là vạch măt tên phản bội, cháy nhà ra mặt chuột, bị lộ mặt… THIÊN TƯỚNG ngộ TUẦN dễ bị bắt. Rất kỵ gặp thêm THIÊN KHÔNG. Tạo thành cách Tam KHÔNG, kỵ cho toàn bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM.
Hay xảy ra với trường hợp TRIỆT đóng giữa TƯỚNG và LƯƠNG và TƯỚNG và CỰ. Và cũng chỉ có 2 trường hợp đó mà thôi.
Khi có hai cách trên thường có dấu hiệu ngoại tình đặc biết Mệnh có ĐÀO HOA hội họi. Nếu xảy ra chuyện trăng hoa, phản bội thì các năm bị Lưu TRIỆT dễ lộ mặt đặc biệt là bộ KỴ TRIỆT.
Các tuổi Dương sợ năm có TRIỆT lưu vào TƯỚNG lại có THÁI DƯƠNG thấy KỴ lưu. Các tuổi ÂM sợ năm có TRIỆT lưu vào TƯỚNG lại có THÁI ÂM thấy KỴ lưu.
Các năm LIÊM có KỴ cũng là năm ta dễ bị nghi ngờ về chuyện đó.
Trường hợp tình yêu quay lại ta hay gặp khi bộ KHÔI PHỤC cố định ở cung Phu Thê hay năm có bộ sao này lưu tại cung Phu Thê. Nếu Mệnh, Phu có dấu hiệu ngoại tình tất sinh chuyện “tình cũ không rủ cũng tới”.
2.5.9.Các bộ sao không nên gặp ở Hạn hôn nhân, tình cảm
Hạn hôn nhân, tình cảm rất kỵ Tiểu Hạn hay Phối cung có nhiều sao ám tinh nhất là bộ DIÊU ĐÀ KỴ lại đi với CỰ MÔN. Các Cách THAM ngộ KHÔNG, ĐỒNG ngộ KHÔNG, TRIỆT THIÊN TƯỚNG. Các bộ KỴ TRIỆT. Một số các tuổi Dần Thân Tị Hợi nữ vị trí sao HỒNG LOAN bị mất tác dụng. Ngoài ra ai ngại THIÊN KHỐC hay THIÊN HƯ hội họp với TƯỚNG hay THIÊN TƯỚNG.
Nếu cưới hay yêu trong các năm có những bộ sao đó rất bất lợi, hay bị cản trở, chuyện tình cảm phức tạp nếu Phối cung xấu về sau rất bất lợi và khó bền vững.
Hạn tình cảm có bộ KHỐC lại có KỴ đi với KHÔNG KIẾP rât xấu. Đây là cảnh OÁN HẬN RỒI RA TAY LÀM HẠI có các sao HỎA LINH KÌNH ĐÀ đi với KHÔNG KIẾP mới đoán xấu.
Nhìn chung các hạn về bỏ tình, thất tình, đánh mất tình cảm, phản bội tình, hay lộ về việc lăng nhăng bồ bịnh hầu hết có KỴ cố định hay lưu động.
2.5.10.Các trường hợp bất lợi trong tình cảm
Nếu các lá số có THIÊN TƯỚNG, TƯỚNG QUÂN đặc biệt là THIÊN TƯỚNG cố định tại Mệnh, Thân, Đại Hạn, Tiểu Hạn hay Phối rất bất lợi cho chuyện tình cảm. Sợ các năm có TRIỆT lưu, KHỐC lưu lại thêm KỴ rất khổ về tình cảm. Bộ THIÊN TƯỚNG THIÊN KHỐC là tiếng khóc trong tình yêu. Có thêm KỴ rất sợ có thêm KHÔNG KIẾP càng nguy hiểm. TƯỚNG có KHỐC là ta vừa thương vừa vận, có KỴ ta cộng thêm chữ oán, có KHÔNG KIẾP ta thêm cụm từ RA TAY LÀM HẠI, có KỴ HÌNH cũng xấu, có KỴ thêm KÌNH cũng xấu thiên về ĂN MIÊNG TRẢ MIẾNG, có KHÔNG KIẾP thêm KÌNH ĐÀ HỎA LINH xấu không thể nói hết.
Tuổi Dần có cung Sửu (HỒNG QUẢ) và cung Thìn (TANG KHỐC) rất bất lợi cho chuyện gia đạo kế đó là các cung Tị và Dậu, Thân và Tý.
Tuổi Thân có cung Mùi (HỒNG QUẢ) và cung Tuất (TANG KHỐC) bất lơi kế đó là các cung Mão, Mùi và Dần, Ngọ.
Nhìn chung ai có TANG ở Mệnh hay Phối đa phần bất lợi cho chuyện tình cảm. Có TANG ở Phối nếu không có PHƯƠNG dễ có chuyện bất chính hoặc không trên người tất có Tỳ vết hay cưới chạy tang hay phải có Tang mới có lâu dài. Cung Phối có TRIỆT mà Phối cung lại có các Chính tinh sợ TRIỆT như ÂM DƯƠNG sáng, TỬ VI, THIÊN TƯỚNG đa phần bất lợi hôn nhân. Xem thêm cách đa phối.
Với nữ còn sợ cách ĐÀO HỒNG SÁT PHÁ THAM tại Mệnh hay Phu là cách sat Phu và cách KIẾP PHÙ KHỐC KHÁCH đi với CỰ NHẬT tại Mệnh hay Phối hoặc Mệnh có KIẾP PHÙ KHỐC KHÁCH đáo hạn có CỰ NHẬT.
Mệnh CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG qua hạn CỰ NHẬT cũng dễ xảy ra chuyện.
Kỵ nhất cung Phu Thê có CƯ lại có THAI CÁO trong TỒN TƯỚNG ÂN thêm KỴ càng nguy hiểm. Là cách dễ đưa nhau ra tòa. Công thêm các Sát Tinh (lấy KHÔNG KIẾP làm gốc) và KỴ HÌNH để tăng thêm độ xấu.
2.5.11.VD Hạn hôn nhân năm Nhâm thìn
Đoán hạn hôn nhân năm (Nhâm Thìn) chỉ cần tập trung vào bộ Lưu tam Minh là chính, mạnh nhất tại cung Tị, nếu đó là cung Phối dễ động hôn nhân. Hai cung còn lại xếp hạng nhì, ba là cung Dậu, Mão. Và cứ thế Hỉ sự hằng năm thay đổi giành cho nơi khác. Năm nay lợi nhất là những người có hạn HỶ HỒNG ĐÀO cố định cùng lúc bộ lưu tam Minh hội họp đúng vào cung Phối.
Năm Nhâm Thìn lợi thế nhất với nữ. Là các tuổi Mão Dậu vì hạn đáo bộ tam Minh cố định. (Nếu cung Phối nằm ở vị trí tại Tị rất là hay nhì là vị trí Mão Dậu như đã nói.).
Nhưng cung Tị không phải là cung Phối lại là cung Đại Hạn vẫn dễ động hôn nhân.
Tất nhiên mạnh nhất là những người Tiểu Hạn đang có bộ tam Minh cố định, Đại Hạn lại đóng ở cung Tị, cung đó chính là cung Phối, trường hợp này duy nhất 1 lần trong đời. Nhì là. Đây là cung Phối, Đại Hạn đóng nơi khác lại đắc bộ tam Minh. Trường hợp này bất cứ tuổi nào cũng có thể gặp miến sao cung Tị là cung Phối, và Đại Hạn có tam Minh. Ba là. Đại Hạn đóng tại đây là cung Phối, nhưng Tiểu Hạn không đắc bộ tam Minh. Trường hợp này tuổi nào cũng có thể gặp.
Bốn là. Đây không không phải là cung Phối nhưng Tiểu Hạn đắc bộ tam Minh.
Tức là cả 2 hạn đều có Tam Minh.
Nói chung khi ai đó hỏi hạn hôn nhân. Bạn chú ý tìm bộ lưu tam Minh ở đâu, nếu không được tam Minh thì cần bộ Nhị Minh ĐÀO HỒNG, bộ lưu Song Hỉ không phải năm nào cũng có và tuổi nào cũng có, bộ này hợp với hôn nhân còn mạnh hơn cả bộ Hỉ Hồng Đào. Xem nó có hội nhập vào Phối cung hay không, nếu không thì cũng hội họp tại cung Mệnh hay Đại Hạn. Tức là nhắm vào bộ sao lưu động nhiều hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
Lý thuyết về âm dương là một tên gọi của Đạo. Hai lực này đối nghịch nhau và cùng nhau tạo nên mọi hình thái của đời sống. Âm thì mờ tối , Dương thì sáng sủa, Âm thụ động, Dương tích cực. Quan niệm Âm- Dương xem con người và môi trường làm một. Đó là nhà ở, chỗ làm việc, núi đồi, sông suối, quả đất và không gian. Nếu bạn hiểu được những gì phong thuỷ trình bày, thì bạn có thể gìn giữ được sự quân bình bên trong, để được may mắn và cải thiện số mệnh của mình.
Môn Phong thuỷ có nhiệm vụ tìm kiếm để tạo ra một nơi cho việc sinh sống được quân bình, hài hoà, người ngụ cư được sức khoẻ dồi dào. Ý nghĩa của sự cân bằng không thuần ở sự đối xứng bên ngoài. Nó sắp xếp nhà cửa và con người với các yếu tố thiên nhiên và nhân tạo để có được sự hài hoà và yên lành trong môi trường chung quanh.
Nếu căn nhà nào đó có toạ hướng không tốt, thầy phong thuỷ sẽ đề nghị gia chủ đổi cửa chính thành góc chéo hoặc mở cửa sang vị trí khác để thay đổi sơn hướng của căn nhà.
Nhưng cần nói rõ là tác dụng của việc thay đổi sơn hướng này chỉ duy trì trong một thời gian ngắn. Vì nó không thể thay đổi khí trường của toàn bộ toà nhà. Đương nhiên, nếu là một căn nhà độc lập thì sẽ không có vấn đề này. Một khi cửa chính của căn nhà thay đổi thì có thể thay đổi sơn hướng của cả nhà.
hì nên nằm ở những vụ trí khác nhau:
– Bể hình vuông hoặc hình chữ nhật: đặt ở xung quanh nhà, sát tường.
– Bể hình tam giác: đặt ở góc nhà.
– Bể hình vuông: đặt ở giữa nhà hoặc chỗ cạnh cửa ra vào.
– Bể hình lục giác: không nên dùng loại bể này vì có “sát khí” lớn.
– Bể hình bán nguyệt: đặt ở xung quanh nhà, sát tường.
Về độ cao thấp của bể cá cũng cần phải chú ý. Nếu tính theo kích thước của phong thủy thì bể cá cao nhất cũng chỉ có thể ngang với vị trí của tim, thấp nhất là ngang bụng. Nếu mực nước trong bể cao hơn vị trí tim của chủ nhà thì chủ nhà dễ bị bệnh tim, tư duy kém minh mẫn, tài vận không tốt. Còn nếu mực nước trong bể thấp hơn phần bụng của chủ nhà thì chủ nhà dễ bị các bệnh ở chân như tê phù hoặc nấm kẽ chân; ngoài ra thì nhà đó sẽ kém linh khí phong thủy, vận mệnh kém may mắn.
Giống như việc xem hướng nhà, chọn màu xe, chọn sim số điện thoại hợp phong thủy, đeo nhẫn ở ngón nào để đem lại may mắn và giàu có cũng là một nghệ thuật.
Bàn tay chúng ta có 5 ngón, đeo nhẫn ở mỗi ngón sẽ đem lại ý nghĩa đặc biệt khác nhau. Ví như đeo nhẫn ngón áp út chỉ dành cho những người đã kết hôn, ngược lại đeo nhẫn ngón trỏ chỉ dành cho người tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Ngoài những ý nghĩa đó ra, có thể các bạn sẽ khá bất ngờ khi biết được những ngụ ý sâu xa và đặc biệt mà việc làm đơn giản này mang lại.
Nội dung
Khi đeo nhẫn, điều đầu tiên cần làm là xác định tay đeo nhẫn.
Với người chưa kết hôn: Bạn đeo nhẫn theo nguyên tắc “nam tả, nữ hữu”. Với nam giới, tay trái đại diện cho bản thân chủ nhân, còn tay phải đại diện cho người yêu, người vợ. Còn nữ giới thì ngược lại, tay phải đại diện cho bản thân, tay trái đại diện cho người yêu, người chồng.
Với người đã kết hôn: Bạn theo nguyên tắc “nam hữu, nữ tả”, ngược lại nguyên tắc ở trên. Vì thế, nếu muốn đeo nhẫn để tốt cho bản thân và là người chưa kết hôn, bạn hãy đeo nhẫn ở tay phải. Còn đã kết hôn và mong muốn mang lại vận khí tốt cho chồng mình, bạn đeo nhẫn ở tay trái.
Trong Phong thủy, khi đeo nhẫn ở bàn tay phải có nghĩa là bạn đang mong chờ sự giúp đỡ từ năng lượng siêu linh; ngược lại, đeo nhẫn ở bàn tay trái lại mang ý nghĩa bạn đặt hy vọng vào các mối quan hệ giữa người với người.
Khi đeo nhẫn ở ngón này, bạn là người độc lập, mạnh mẽ, thách thức bất kỳ trở ngại nào. Có thể bạn sẽ là một Lãnh đạo tốt song sẽ khó tìm một tình cảm chân thành khi cần.
Người xưa cho rằng, ngón tay cái là đại diện cho vật chất và uy quyền. Điều đó lí giải tại sao giới vua chúa, quý tộc thời xưa thường đeo nhẫn ở ngón cái. Do đó, nếu muốn tăng vận thế, khí trường và uy quyền cho bản thân, bạn nên đeo nhẫn ở ngón cái.
Đeo nhẫn ở đây khiến bạn trở nên có nhiều tham vọng với năng lực của chính mình. Chân thực, trách nhiệm và phóng khoáng, bạn suy nghĩ mọi thứ theo cách riêng của mình và không ngại khi nói cho người khác về điều đó.
Trên bàn tay, ngón trỏ đại diện cho địa vị, công việc, sự nghiệp, học vấn của một người. Nếu muốn thăng chức, tăng lương hay chuẩn bị cho kỳ thi cử quan trọng, bạn hãy đeo nhẫn ngón trỏ để đem lại tác dụng thăng vận của ngón tay này. Do đó, đeo nhẫn ở ngón trỏ sẽ thúc đẩy sự nghiệp, chuyện học hành thêm thuận lợi và phát đạt.
Ngoài ra, ngón trỏ cũng là vị trí tốt dành cho khai vận tình yêu. Nhiều người cho rằng, nếu đeo nhẫn ở ngón trỏ có nghĩa là bạn đang “bật đèn xanh” cho đối phương cũng nhưng kích thích vận đào hoa của bản thân.
Nếu bạn đeo nhẫn ở ngón này, bạn rất quý trọng gia đình và bạn bè, gần như không có khúc mắc gì đối với họ vì bạn đối xử hết lòng. Bạn biết giữ cân bằng trong cuộc sống và khá kín tiếng về đời tư. Tuy nhiên, bạn thường gặp xung đột và rắc rối trong các mối quan hệ khác. Ngón giữa chính là bạn.
Ngón tay giữa chính là vị trí trung tâm của bàn tay, có ý nghĩa tụ hợp. Ngón giữa có thể tập trung sức mạnh của những bộ phận khác và không bị phân tán đi. Đeo nhẫn ngón này có thể giúp bạn hấp thu năng lượng cực lớn cho việc khai vận, tập hợp được sức mạnh, tăng cường vận may trong mọi phương diện của cuộc sống.
Bên cạnh đó, ngón này đại diện cho sự bình ổn và cũng chính là phúc phần tốt nhất. Vì vậy, nếu muốn duy trì niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống, bạn nên đeo nhẫn ngón tay giữa.
Đeo nhẫn ở ngón này nghĩa là bạn đang đặt hy vọng vào điều mà mình đang khát khao nhất bằng cả con tim. Bạn hăng say thực hiện để đạt mục đích một cách uyển chuyển và khéo léo. Bạn sống nội tâm và cũng mong người khác đối xử với mình bằng sự chân thật. Ngón đeo nhẫn tượng trưng cho người bạn đời của bạn.
Theo quan điểm phong thủy, ngón tay áp út là vị trí giúp tụ tài tốt nhất. Nếu đeo nhẫn ở ngón tay này sẽ tăng thêm tài lộc và gặp nhiều may mắn về tiền bạc. Bất luận là tài lộc chính hay phụ, bạn nên đeo nhẫn ngón áp út. Vị trí này giúp ích rất nhiều cho việc tích tụ tài lộc, thúc đẩy tài vận thịnh vượng, vận khí của bạn dần dần tốt lên. Ngoài ra, bạn đeo nhẫn ngón áp út còn có tác dụng tu thân và dưỡng tính.
Tuy nhiên, một vài quan điểm cho rằng, đây là ngón tay đeo nhẫn cưới, nếu vẫn độc thân mà đeo nhẫn ngón này sẽ dễ bị lỡ mất cơ hội kết thân với người khác giới. Do đó, với những người độc thân, có thể sử dụng các loại nhẫn có hình dáng khác với nhẫn cưới để giúp chiêu tài, tụ khí lại không làm lỡ mất cơ hội tình cảm.
Trên thực tế, trong thời gian đang yêu hoặc đã đính hôn, việc đeo nhẫn ở ngón tay này sẽ giúp tình cảm lứa đôi thêm gắn kết, sớm “ra hoa kết trái”.
Khi bạn đeo nhẫn ở đây, bạn có thể thân thiết với mọi người, cho dù đó là ai, thuộc tầng lớp nào. Bạn nhận được sự cảm thông sâu sắc từ mọi người và thành công nhờ lòng yêu mến của họ. Ngón út tượng trưng cho con cái.
Một vài người quan niệm rằng, đeo nhẫn ở ngón út là biểu hiện của người đã li hôn. Thông thường, rất ít người đeo nhẫn ngón út. Tuy nhiên, trong phong thủy, ngón út đại diện cho vận quý nhân của bạn. Mối quan hệ của bạn với những người khác có hòa hợp hay không, nhân duyên có tốt đẹp hay không thì việc đeo nhẫn ngón út ít nhiều sẽ hỗ trợ cho bạn..Vị trí đeo nhẫn này này cũng mang lại nhiều phúc khí cho bạn.
Đây là ngón đại diện cho quý nhân phù trợ, đeo nhẫn ngón tay này sẽ giúp bạn dễ dàng vượt qua khó khăn, hóa giải được mưu kế của kẻ tiểu nhân, từ đó vận thế hanh thông, đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.
Nhẫn thuộc Kim thường có hình dạng tròn, nhẫn trơn không có mặt lồi lên nạm bằng đá quý. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình tròn có màu vàng, trắng. Nhẫn phải được thiết kế đơn giản với màu trắng hoặc màu vàng và chất liệu thường làm từ vàng tây, bạch kim, bạc. Sự kết hợp giữa kim cương, vàng và bạch kim sẽ tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho mỗi chiếc nhẫn này.
Nhẫn thuộc hành Kim hợp cho những người mạng Thuỷ.
Nhẫn thuộc Mộc thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, vặn chéo, hoặc cách điệu thành hình chữ nhật, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, hình chữ L, có nạm những viên đá quý màu xanh. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu xanh.
Nhẫn thuộc hành Mộc hợp cho những người mạng Hoả.
Nhẫn thuộc Thuỷ thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, thân nhẫn mảnh khảnh, có thể có dạng hình chữ S, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, có nạm những viên đá quý màu xanh tím, xanh đen, màu lục hoặc màu đen. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu sẫm.
Nhẫn thuộc hành Thủy hợp cho những người mạng Mộc.
Nhẫn thuộc Hoả thường có hình dạng nhọn, được cách điệu với những nét nhô cao, thân nhẫn có thể cắt chéo các cạnh, có thể có dạng hình chữ V, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tam giác, đa giác, có nạm những viên đá quý màu hồng, đỏ hoặc màu da cam. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có gam màu đỏ, hồng.
Nhẫn thuộc hành Hoả hợp cho những người mạng Thổ.
Nhẫn thuộc Thổ thường có hình dạng vuông, được cách điệu với những nét vuông vắn, thân nhẫn có thể làm hình vuông, có thể có dạng hình chữ T, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình vuông, chữ nhật, có nạm những viên đá quý màu vàng. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý có gam màu vàng, xám, màu ghi.
Nhẫn thuộc hành Thổ hợp cho những người mạng Kim.
BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ NGHI NGHI TRẦN NHẬT TƯỜNG
Từ xưa đến nay, các sách viết về Tử vi những bài báo, những bài sưu tầm, khảo cứu nói về tử vi…chỉ thấy phần lớn đề cập đến vấn đề giải đoán hay nói về tính chất của các vị sao hoặc trình bầy về những đặc điểm của môn
Tử vi sau hai, ba, bốn chục năm kinh nghiệm mà không thấy có vị nào luận bàn về cách an sao, lập số…
Có chỗ nào thiếu sót? Đúng hay sai? Sao nào đúng, sao nào sai?
Sao này có phải của Tử vi không? Hay chỉ là sản phẩm của những tay thuật sĩ giang hồ bịa ra để kiếm chác?...
Chỉ thấy, riêng có cụ Cố Ba La là đưa ra thêm lối an của cặp Kình Đà thuận, nghịch tuỳ theo Âm Dương Nam Nữ mà hiện nay chúng ta đã áp dụng.
Có lẽ các cụ sợ rằng, nếu sửa đổi đi rồi mỗi người một ý, dần dà nó mất đi sự chính xác so với bản Tử vi mẫu của đức Trần Đoàn?
Hôm nay tôi mạo muội đưa ra bài này chỉ có một mục đích là ước mong được sự thuận thảo cũng được sự tham khảo ý kiến của quí vị độc giả, nhất là những vị uyên thâm, cao thủ về môn Tử vi hầu để môn Tử vi của chúng ta không bị sai lạc, do đó mới có thể giúp cho sự giải đoán chính xác được.
Trường hợp thứ nhất mà tôi muốn đề cập đến là cặp sao: Không Kiếp.
Địa không là gì?
Các sách Tử vi ở Việt Nam đều cho là có cặp: Địa Không, Địa Kiếp.
Cuốn Tử vi đẩu số toàn thư do La Hồng Tiên thời nhà Minh bên Tầu biên soạn (khoảng thế kỷ thứ 14), trong lời tựa, có nói: Đó là Tử vi đẩu số tập của Đức Hi Di Trần Đoàn mà tác giả muốn phổ biến ra khắp thiên hạ để trong thế gian này hiểu được cuộc đời là có mệnh số…mà trong tập sách Tử vi này chỉ thấy có cặp sao Thiên Không, Địa Kiếp và gọi tắt là Không Kiếp chứ không thấy có sao Địa không.
Khoa Tử vi ở Việt Nam hầu như chỉ lấy một cuốn sách này làm căn bản để khai triển (vì sách này cũng còn nhiều thiếu sót, có lẽ bị mất mát hay thất truyền) nhưng vì khai triển nhiều quá, người nào cũng muốn có một cái hay, cái lạ riêng cho mình nên nghiên cứu thêm, bổ túc thêm hay vì một lý do này hoặc lý do nọ mà thêm vào bản số của chúng ta rất nhiều cái kỳ quặc, làm cho nó một ngày một mất đi cái căn bản chính và đưa dần nó vào sự mù mờ, huyền hoặc của huyền bí…!
Tôi nhận thấy, trên bản số Tử vi của chúng ta còn rất nhiều điều “tà đạo” mà phải cần có sự rộng lượng của quý vị mới dám luận bàn đến…
Tôi nghĩ rằng: Nếu cứ ôm đồm một mớ sao, một lý thuyết “Lô Can” này thì có mà học Tử vi đến 2, 3, 40 năm cũng chẳng ăn thua gì…có loà cả mắt cũng chẳng được gì!
Tôi đã sưu tầm được qua sách vở, báo chí đến hơn một chục cách nói về hạn cưới hỏi, hôn nhân. Đem áp dụng vào các lá số của những người quen biết thấy chẳng đi đến đâu cả, trúng ít còn trật nhiều…và lúc giải đoán cũng chỉ nói rất hời hợt, gượng ép mà thôi.
Chẳng hạn như câu này:
Vũ Cơ Lộc, Mã, Quả, Loan
Hôn nhân thuở ấy mới tròn thất gia
Bảo là của cụ Bảng Lê Quí Đôn? Hội tụ được từng ấy sao trên một lá số đã là một chuyện hi hữu rồi huống chi lại có mặt của Vũ khúc, Quả tú (hai sao có tính cách lẻ loi, cô độc) nữa. Không hiểu làm sao mà lại thành gia thất được cũng tài. Chắc phải có sự huyền bí gì ở trong?
Trong khi rất giản dị và minh bạch là chỉ cần hạn hành (với điều kiện phải có lối tính hạn cho chính xác) được cặp Nhật Nguyệt (hình ảnh của vợ chồng) với bộ Đào Hồng Hỉ là có thể đưa lời tiên tri của ta đến mức độ “thần sầu” được rồi.
Cho nên, tôi đề nghị trường hợp thứ nhất ở loạt bài này là:
I- Khai tử sao Địa Không
Cái lỗi lầm lớn nhất của công việc soạn thảo, nghiên cứu, bổ túc thêm…là cho vào khoa Tử vi đẩu số sao Địa Không làm hỏng mất cặp Không Kiếp và làm lệch lạc mất đi vị trí của sao Thiên Không.
Người nào có nghiên cứu đẩu số cũng đều phải công nhận rằng lối an sao, lập số của Đức Hi Di Trần Đoàn luôn luôn dựa trên một nguyên tắc căn bản: sự điều hoà thuận nghịch rất nhịp nhàng của Âm, Dương.
Đây, nhìn vào vị trí của bộ Tử Phủ dưới đây sẽ thấy ngay điều đó:
- Vòng Tử vi thuộc Dương đi nghịch
-Vòng Thiên Phủ thuộc Âm đi thuận.
Cả hai bộ đều ở thế đối nghịch Âm Dương rất đều đặn, nhịp nhàng.
Hay lấy một cặp Tả, Hữu làm tiêu biểu.
Tả Hữu đều được khởi từ hai vị trí đối nghịch nhau là hai cung Thìn Tuất và luôn luôn được điều hoà bởi hai cung Sửu Mùi (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là mộ địa Tả Hữu thuộc thổ nên khai ở Thìn Tuất và thành ở Sửu, Mùi vậy).
Một Tả một Hữu
Một Âm một Dương
Một thuận một nghịch
…
Luôn luôn đều đặn, nhịp nhàng.
Hoặc có lối an theo phương vị của một sao như cặp Kình Đà được an theo sao Lộc tồn hay tứ Phi tinh Tang, Hổ, Khách, Phù đi theo sao Thái Tuế vậy (giống như trường hợp ngày nay: Muốn định sao Bắc đẩu phải tính theo phương vị của nhóm Đại Hùng tinh).
Vậy: Kình, Đà an như sau:
Nếu trước Lộc tồn là Kình Dương thì phải sau lộc tồn là Đà La (hoặc ngược lại).
Luôn luôn theo nguyên tắc thuận nghịch, điều hoà của Âm Dương.
Chú ý: Phải luôn luôn để ý triệt để đến nguyên tắc này mới hiểu được vị trí Miếu, Vượng, Đắc, Hãm của các tinh đẩu. Nếu xa rời nó sẽ bị mù mờ, lệch lạc, (chỉ nội vấn đề này không cũng chưa có ai hệ thống hóa cho chính xác được mà mỗi người một ý, một cách riêng). Chẳng hạn như: sao Thiên Cơ đóng tại cung Sửu, đắc hay hãm? Có sách cho là đắc địa (sách của cụ Thái Thứ Lang), có sách lại cho là hãm địa (Tử vi đẩu số Nguyễn Mạnh Bảo) hay, tại sao Liêm Trinh thuộc Hoả, lọt vào cung Tỵ là Hoả địa lại bị hãm. Thất Sát (Hoả đối Kim) vào Kim cung cũng bị hãm?
Tôi sẽ xin có một bài giải thích đầy đủ về vấn đề này.
Vì nhận xét cách an sao, lập số như trên nên ta thấy:
- Trường hợp thứ nhất: Cho sao Địa Không đi cặp với Địa Kiếp là sai hẳn. Địa không, Địa Kiếp cũng bởi địa mà thành nên cả hai sao đều thuộc âm, không thể đi cặp với nhau được.
Vả lại Thiên Không đối với Địa Kiếp mới có nghĩa. Còn Địa Không là gì? Đã gọi là Địa rồi thì chỗ nào là đất không, chỗ nào là đất trống?...Rất tối nghĩa trong khi trên trời chỗ nào cũng trống cả rất sát nghĩa với sao Thiên không.
-Trường hợp thứ hai: Làm lệch lạc cả vị trí của sao Thiên Không.
Nếu cứ theo lối an cũ, bây giờ ta tự hỏi:
-Trước Thái Tuế an: Thiên Không. Vậy sau Thái Tuế an cái gì? Không có gì hết! Cho nên vị trí của sao Thiên Không an trước Thái Tuế là sai.
Vậy cho nên tôi xin minh định lại thế này:
II- An lại sao Thiên Không
- Bỏ hẳn sao Địa Không, gạt ra ngoài khoa Tử vi đẩu số
- An lại sao Thiên Không, bỏ lối an cho đứng trước sao Thái Tuế
- Phải để sao Thiên Không cho đi cặp với Địa Kiếp (thay vào vị trí của Địa Không) để hợp thành bộ Không, Kiếp cho đúng nguyên tắc của Âm Dương Thiên là trời thuộc Dương, Địa là đất thuộc Âm. Một Âm, một Dương mới đi cặp với nhau được.
- Cặp Không Kiếp phải được khai, thành và điều hoà ở hai cung Tỵ, Hợi là chỗ cùng cực của Thiên Địa cho nên Thiên Không ở Hợi mới thành (Nguyệt lãng thiên môn ở đấy) và Địa Kiếp ở Tỵ mới đắc vậy.
Đây cũng là một trường hợp Hoả Tinh, Thiên Không vào Thủy địa Hợi cung lại đắc. Cho nên không thể lấy lối vận động biện chứng của Ngũ hành để giải thích sự miếu vượng, đắc, hãm của các tinh đẩu được mà nó chính là các nguyên tắc sinh, thành của Âm Dương mà có vậy.
Lối an của Thiên Không, Địa Kiếp sẽ như sau:
Cả hai đều được khởi từ cung Hợi và tính đến giờ sinh. Thí dụ, sinh giờ thìn thì Thiên Không an tại Mùi, Địa Kiếp an tại Mão…các giờ khác cứ thế mà tính
Có như vậy mới có thể giải thích chính xác được.
III- Trường hợp: Mệnh vô chính diệu đắc tam không
Ai cũng thuộc câu phú đoán sau:
“Mệnh vô chính diệu đắc tam Không phú quí khả kỳ”
Nhưng không hiểu tam Không đây là những sao gì? Nếu cứ để Địa không vào thì chúng ta có tất cả bốn Không lận. Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không. Và chính diệu đắc tứ “Không” cả. Có nói thì chỉ vì thấy có mà nói, chứ không dám giải thích nói có sách, mách có chứng.
Đa số các vị đều cho Tam Không đây là các sao: Thiên, Địa Không và Tuần Không còn gạt hẳn ra ngoài sao Triệt Không mà bảo rằng đó là triệt lộ chứ không phải sao Không trong khi sao đó vẫn có tên rõ ràng như ban ngày là: Triệt lộ Không vong.
Cho nên tôi xin xác định: đắc tam Không đây là được ba sao không vong:
- Tuần trung không vong
- Triệt lộ không vong
Và thứ ba Thiên không tức Không vong chi thần.
Có như thế, câu phú đoán:
“Xét xem phú quí mấy người
Mệnh Vô Chính diệu trong, ngoài Tam không”
Mới hay và mới linh diệu vậy!
KHHB số 74J2
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Sao Sát, Phá, Lang có những biến đổi khó có thể tưởng tượng được đối với cuộc sống con người, trong đó tính biến đổi của sao Phá quân là lớn nhất.
Sự biến đổi của sao Phá quân chia thành sự biến đổi do các nhân tố ở bên ngoài và bên trong.
Bên ngoài như quan hệ sống, do sự biến đổi của môi trường (như giáo dục, công việc, hôn nhân, tiền tài); sự thay đổi của các nhân tố bên trong như: tính tình, quan niệm tư tưởng, giá trị quan và phương pháp xử lý sự việc, thế giới tình cảm của cá nhân.
Sự thể hiện tính biến đổi của sao Phá quân rất không ổn định khiến cho người ta có cuộc sống ở hai thái cực, có kịch tính và có cảm giác rất không hài hòa. Ví dụ:
Khi nhỏ thất học đến khi già thì lại là người uyên bác thông thái;
Từng là người tình yêu nồng nhiệt thề non hẹn biển lại còn kết hôn một cách trọng thể ấy vậy mà đột nhiên lại ly hôn, hai bên lạnh nhạt với nhau và trở thành những người xa lạ trên đường;
Hôm nay là người đi làm thuê bôn bả vất vả khắp nơi, ngày mai lại trở thành chủ quản cao cấp trong công ty ở trong thành phố;
Hôm qua sự nghiệp còn thịnh vượng, tiền vào như nước hôm nay đột nhiên lại không xu dính túi, cùng đường bí lối;
Bề ngoài thì tỏ ra rất kiên cường, nhưng trong lòng lại rất yếu ớt; bề ngoài trông giống một núi bằng nhưng trong lòng thì lại sôi sục như núi lửa, bất kỳ lúc nào cũng có thể bộc phát.
Những biểu hiện ngày thường khác với những người thường nhưng khi tình cảm bị xung động thì ngôn ngữ hành động lại khiến người khác phải phát điên lên, không kìm chế nổi phải toát mồ hôi lạnh.
Người mà sao Phá quân tọa mệnh thì trong cuộc đời sẽ phải lăn lộn bởi những biến đổi do các nhân tố bên trong và bên ngoài, rất khó ổn định. Nhưng người kinh ngạc, biến nguy thành an, đón cát tránh hung. Đặc biệt là khi có các cát tinh: Lộc tồn, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phù, Hữu bật đồng cung hè hoặc hội chiếu thì sẽ có hiện tượng “sống sót sau khi vào tử địa”, điều này rất phù hợp với đặc tính biến hóa mạnh vốn có của sao Phá quân.
Sao Phá quân không ngừng sáng tạo và thay đổi,
Không ngừng thay cũ đổi mới do đó mà thường có tư tưởng luôn đổi mới đồng thời cũng tích lũy không ít những trải nghiệm trong cuộc sống. Đối với tính biến đổi của sao Phá quân, xét từ hai phương diện của một chỉnh thể, vì trong hành vận của nó có sự biến hóa không ngừng nên tất phải có sự sáng tạo không ngừng.
Sao Phá quân có cá tính thẳng thắn, có tinh thần hiệp nghĩa, bênh vực kẻ mệnh yếu, thích quản những việc không liên quan đến mình.
Những chuyện không liên quan đến mình mà sao Phá quân quản đều là những việc chủ động quản, đồng thời lại coi đó là việc đương nhiên. Sao Thiên tướng cũng thích quản những việc không liên quan đến mình nhưng đó thường là những việc do người khác nhờ thì mới làm, đồng thời lại không thích tự mình thể hiện.
Sao Phá quân bất luận là việc gì đều thích dẫn đầu, không thích đi sau người khác do đó mà thường không nhẫn nhịn được, thường hay nóng nảy, bình thường chỉ thích xông pha nên có lúc cũng không tránh được nhìn về phía trước mà không để ý phía sau, dễ dẫn đến có cảm giác hiu quạnh vì mất phương hướng.
Sao Phá quân có cá tính nóng vội, thường “uyên thâm quá ít người hiểu”, khiến cho người khác kính trọng mà không dám gần gũi, thường cô độc giữa mọi người, thường thuộc kiểu “thân duyên bạc” (tình cảm thân thích nhạt), cần tu tâm dưỡng tính, tích cực cải thiện mối quan hệ với mọi người đồng thời giỏi vận dụng đặc điểm tính sáng tạo vốn có của mình thì nhất định có thể không ngừng phát triển để càng thêm tiến bộ.
Sao Phá quân phải thường xuyên đón nhận các loại thử thách, có dũng khí và năng lực đấu tranh anh dũng nhất, những biến động trong cuộc đời đặc biệt nhiều, do đó phá hoại và kiến thiết lần lượt chuyển đổi cho nhau, mưu cầu phát triển trong sự mâu thuẫn, ổn định sau khi khai sáng, biến động khiến cho người ta sau khi trải qua những khó khăn thì sẽ được ngửi hương hoa thơm.
Sao Phá quân tọa mệnh thì chủ là người thích hợp với việc độc lập lập nghiệp, riêng một ngọn cờ, công việc có tính khai sáng, cần phát triển hướng ra bên ngoài. Nếu có thể xác định được mục tiêu có quan hệ tới văn học, nghệ thuật, sáng tạo, cả đời nỗ lực đồng thời có thể an định được cuộc sống, định kỳ vận động thì nhất định sẽ đón cát tránh hung để đạt được thành công.
Sao Phá quân gặp sao Tử vi chủ có quyền uy, gặp sao Lộc tồn hoặc Hóa lộc thì có thể tiêu trừ được thói quen phá hoại bất lương, tăng thêm trợ lực, sau này khiến cho sự nghiệp thuận lợi thành công.
Sao Phá quân thích hợp đồng cung hoặc hội chiếu với các cát tinh như Khôi, Việt, Phù, Bật, Lộc, Quyền thì có thể tăng thêm được khí thế và thành tựu. Sao
Phá quân không thích hợp với 6 sát tinh và sao Thiên khốc, Thiên hư, sẽ khiến cho nó tăng thêm trở ngại trong quá trình sáng tạo của nó, đồng thời có sự biến động bất lợi, cần phải chú ý tối kiện cáo và sức khỏe.
Sao Phá quân là võ tinh, không thích đồng cung với 2 văn tinh là Văn xương, Văn khúc, bởi vì trên quan niệm giữa Văn, Võ cũng rất có khoảng cách, hai loại không thể nối liền, rất dễ xung kích khắc chế lẫn nhau khiến cho người ta vất vả khổ sở mà phải thiếu mất cảm giác an toàn, về tinh thần khó tránh được sự cô độc, đặc biệt có cảm hứng đối với văn nghệ, gặp cát tinh cũng có thể có biểu hiện.
Ném muối qua vai trái để xua đi tà khí, mang lại may mắn |
Ví dụ: Ngày tháng năm sinh của bạn là: 25/05/1980
2+5+0+5+1+9+8+0 = 30 = 3+0 = 3 => Bạn thuộc kiểu sữa bò.
Bạn thuộc kiểu nào dưới đây vậy ^^.
1. Bò bít tết chiên
2. Pho mát
3. Sữa bò
4. Bánh mỳ chiên
5. Mỳ Ý
6. Nước trái cây
7. Bánh rán có nhân
8. Khoai tây hầm
9. Mỳ xào
Chocopie (theo QQ)
“Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu”
Cái tên Chùa Dâu – ngôi chùa cổ nhất Việt Nam đã ngày càng trở nên quen thuộc với người dân Bắc Ninh nói riêng người dân cả nước nói chung. Chùa Dâu nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30km. Được trụ trì bởi Sư bà Thích Đàm Tùy
Chùa Dâu được coi là một ngôi chùa rất thiêng nên còn được gọi là chùa Diên Ứng (diên là câu, ứng là hiệu, tức cầu gì được nấy). Chùa còn có nhiều tên gọi khác là Pháp Vân, Chùa Cả hay Cổ Châu. Chùa tọa lạc ngay trung tâm của khu di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu và phong phú bậc nhất của quê hương Kinh Bắc. Theo lịch sử ghi chép và bia đá trong chùa thì đây là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, là nơi giao lưu của hai văn hóa Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226. Chùa Dâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam. Năm 1913, chùa được xây dựng lại và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông đã sai Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Trải qua bao thăng trầm và chiến tranh tàn phá nhưng chùa Dâu với tháp gạch cao sừng sững, với tòa ngang, dãy dọc nguy nga, cổ kính vẫn còn đó.
Đạo Phật đến chùa Dâu sớm nhất, người xứ Bắc đã chọn lọc và sáng tạo ra dòng thiền độc đáo Việt Nam mà người xưa quen gọi là hệ thống Tứ pháp. Đặc trưng của dòng thiền này là người phụ nữ được đề cao. Tượng Phật Việt Nam là trung tâm của chùa Dâu – niềm tự hào chính đáng của người Đại Việt. Tượng Pháp Vân được đặt ở chính điện, thể hiện lòng tự cường dân tộc và tôn vinh những phụ nữ tài năng đức độ.
Chùa gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), là biểu hiện sinh động sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới du nhập.
Chùa Dâu ngày nay là đặc trưng nét kiến trúc của thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). Cũng giống như nhiều ngôi chùa cổ Việt Nam, chùa được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhất bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.
Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi.
Thượng Điện để tượng bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp vũ), hai bên tượng bà Dâu là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ với khuôn mặt sống động trong tư thế của một điệu múa cổ xưa, phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá hủy, nên tượng bà Đậu (Pháp Vũ) được đưa về thờ ở chùa Dâu. Ngoài ra, trong chùa còn có rất nhiều pho tượng như: tượng tổ sư Tỳ – ni – đa – lưu – chi, 18 vị La Hán,…
Chính giữa sân chùa trước bái đường, có ngôi tháp Hòa Phong, xây bằng gạch trần cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành, cao chín tầng, nay chỉ còn ba tầng, cao khoảng 17m. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp có treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương – 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời- cao 1,6 m ở bốn góc.
Bên phải tháp có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Truyền sử kể rằng: vào thời Luy Lâu còn là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của cả nước ta, có vị sư người Tây Thiên sang nước ta tu hành truyền bá đạo Phật. Ông dắt theo 2 con cừu. Một hôm sơ ý để 2 con đi lạc, 1 con lạc đến chùa Dâu, 1 con lạc đến Lăng Sĩ Nhiếp (thái thú Giao Chỉ thời đó), dân ở 2 vùng này đã tạc tượng 2 con cừu bằng đá ở nơi chúng đến để thờ. Do vậy hiện nay chùa Dâu có 1 con, Lăng Sĩ Nhiếp (cách đó 3 km) có 1 con.
Hàng năm, vào ngày 8-4 âm lịch được coi là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, nhân dân trong vùng lại nô nức, tưng bừng mở hội chùa Dâu. Đây là một lễ hội lớn, nổi tiếng là điểm đến của Phật tử cũng như du khách trong ngoài nước
Du khách đến với chùa Dâu như về với cội nguồn của đạo Phật nước Nam, để cầu nguyện một sự bình yên trong tâm hồn như cái tên bình dị, mộc mạc của ngôi chùa cổ trên đất Bắc Ninh.
Hành: Hỏa
Loại: Ác Tinh
Đặc Tính: Hình thương, tai nguy, hung họa, mổ xẻ
Nếu sao Kiếp Sát có sao Thất Sát đồng cung thì được gọi là cách Lưỡng Sát Trùng Phùng. Trường hợp này chỉ có thể xuất hiện một trong 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Nếu sao Kiếp Sát có sao Lưu Hà đồng cung, hoặc ở cung xung chiếu hay hợp chiếu, được gọi là cách Hà Sát đồng cung, hoặc xung chiếu hay hợp chiếu.
Nếu một trong 8 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đứng giữa 2 cung, mỗi cung một bên, trong mỗi cung này lần lượt cùng lúc có sao Lưu Hà và Kiếp Sát đóng riêng từng cung, một trong 8 cung trên có cách giáp Hà Sát.
Trường hợp lá số mẫu Cung Phụ Mẫu tại Mão có Lưu Hà tại Phúc Đức, Kiếp Sát tại Mệnh, thì Cung Phụ Mẫu ở giữa có cách giáp Hà Sát.
Tính Tình: Sao Kiếp Sát ở Mệnh là người tính nóng nảy, hay làm sự bất bình, nếu gặp sao tốt thì giảm mất tốt đi, gặp sao xấu thì xấu lắm.
Công Danh Tài Lộc: Giống như sao Thiên Hình, Kiếp Sát chỉ sự mổ xẻ, châm chích. Do đó, nếu đi với bộ sao y sĩ (Tướng, Y) thì là bác sỹ châm cứu hay giải phẫu, thường trị liệu rất táo bạo.
Đi với sao hung, Kiếp Sát tác họa rất mạnh và nhanh chóng.
Kiếp Sát đi với Thất Sát là người không sợ chết, can đảm, liều mạng.
Kiếp Sát và Tứ Sát: Nếu ở cung Tật thì bị ác bệnh.
Kiếp Sát, Thiên Giải hay Tuần Triệt: Những sao Thiên Giải, Tuần, Triệt chế được nóng tính và ác tính của Kiếp Sát, làm cho tâm tính đâm thuần trở lại.
Từ xưa đến nay, bóng tối xuất hiện đồng nghĩa với sẽ mang đến nỗi buồn, sự bất an, nỗi sợ hãi hay là những điều xấu xa đau khổ, bế tắc của con người trong cuộc sống. Vậy nằm mơ thấy bóng tối có thực sự đáng sợ đến như vậy không? Khi giải mã giấc mơ người ta thấy bóng tối xuất hiện phổ biến trong những giấc mơ. Nó tượng trưng cho sự xa lạ, không rõ ràng, sự tối tăm và thường đề cập đến sự thất bại trong việc kết nối với thế giới nội tâm của bạn hay bất cứ nỗ lực tinh thần nào. Tuy nhiên, không phải giấc mơ nào liên quan đến bóng tối cũng đều đáng sợ như vậy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chinh phục ái tình không đơn giản chỉ là chuyện tình cảm, mà còn phải vận dụng đến không ít thủ đoạn. Ví dụ như là giữ khoảng cách hay cố tình trêu chọc rồi lại vờ ngó lơ, coi như không có chuyện gì. Và 3 chòm sao nữ cao thủ dưới đây chính là những người sử dụng nhuần nhuyễn chiêu này nhất.
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
Câu chuyện thứ nhất:
Người đệ tử vì không câu nệ, không chú ý đối với các tình tiết và các chi tiết nhỏ trong đối nhân xử thế, tự nhận thấy rằng những tình tiết nhỏ ấy không quan trọng, không liên can và đáng kể gì.
Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”
“Đương nhiên là mưa rào rồi ạ!” Người đệ tử nhanh nhảu đáp.
“Nhưng mà trong cuộc sống, dễ dàng làm ướt quần áo người ta lại là mưa bụi chứ lại không phải mưa rào đâu.” Vị thiền sư nói.
“Mưa rào hạt mưa nặng hạt, còn mưa bụi phất phất nhẹ bay, sao có thể dễ dàng làm ướt quần áo được ạ?” Người đệ tỏ vẻ khó hiểu.
“Bởi vì một khi nếu trời đổ mưa to, mọi người sẽ nhanh chóng cảnh giác hơn, người mang theo dù sẽ liền mở dù lên che mưa, người không mang theo dù sẽ liền trú mưa dưới những mái hiên. Nhưng nếu chỉ là mưa bụi, mọi người sẽ khó có cảm giác thấy ướt ngay, hoặc là có cảm thấy thì cũng không can chi, cho rằng chỉ lất phất vài hạt mưa nhỏ không đủ làm ướt quần áo, thế là họ cứ tự để mình đi trong mưa như thế, bất tri bất giác – như thể không hề hay biết, không hề cảm nhận thấy kẽ hở, cứ để hạt mưa lâm li thấm ướt hết cả quần áo.”
Người đệ tử im lặng, đăm chiêu.
Vị thiền sư giảng: “Trong đối nhân xử thế, lời nói và cử chỉ của chúng ta ví như một cử chỉ của tay, một cái nhấc chân, một hành động biểu đạt tình cảm hay một câu nói…những điều này đều giống như hạt mưa bụi nhỏ bé kia, nhìn thì rất nhỏ, nhưng nếu không để tâm chú ý, không thận trọng cảnh giác sẽ trở thành sơ hở vô ý hay cố ý mà làm ướt ‘quần áo’ của người khác”, tổn thương và phương hại người khác, đồng thời cũng là nguyên do ‘ướt’ sang cuộc đời của chính mình, khiến cuộc đời của mình phải chịu tối mờ, nan khó và tổn thất.”
Người đệ tử cuối cùng đã thấu hiểu vì sao mưa bụi lại dễ dàng làm ướt được quần áo của mọi người, là bởi vì người ta đã buông lỏng cảnh giác đối với mưa bụi.
Cảm ngộ: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” – Nghĩa là “Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà phạm. “Vô lậu phương vi nhân sinh chi viên mãn” – đời người mà thực hiện tới được các phương đều vô lậu không rò rỉ, không kẽ hở ấy chính là đi đến cảnh giới của viên mãn.
Câu chuyện thứ hai:
Có một khoảng thời gian người đệ tử cảm thấy cuộc sống sao mà thống khổ, thậm chí phiền não. Vị thiền sư dẫn người đệ tử đến một mảnh đất rộng mênh mông bốn bề không gian khoáng đãng, rồi hỏi: “Con hãy ngước nhìn lên phía trên đầu con, con nhìn thấy gì nào?”. “Thiên không (Bầu trời)” Đệ tử đáp.
Vị thiền sư lại nói: “Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng ta lại có thể dùng một bàn tay che khuất được cả bầu trời đấy!”
Người đệ tử không nghĩ ra cách nào tin nổi. Chỉ nhìn theo vị thiền sư dùng một bàn tay và che kín lên hai mắt của đệ tử, rồi hỏi: “Con bây giờ có còn trông thấy bầu trời nữa không?”
Tiếp theo vị thiền sư hướng vào trọng điểm câu chuyện nói tiếp: “Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này, nhìn bàn tay thì thấy quả nhiên nó rất nhỏ, nhưng nếu không bỏ nó xuống, luôn cứ kéo nó lại gần mà nhìn, cứ mang nó đặt ở trước mắt mình, gác nó ở trong đầu và trong tâm tưởng, chính là sẽ giống như cái bàn tay này vậy, che khuất hết cả bầu trời thanh trong và quang đãng của chúng ta. Thế là, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất ánh thái dương của cuộc đời, bỏ lỡ mất bầu trời màu xanh trong, lỡ nhịp những áng mây ngũ sắc cùng ráng mầu rực rỡ mỹ lệ.”
Người đệ tử cuối cùng đã hiểu rõ căn nguyên gốc rễ nỗi thống khổ của mình.
Cảm ngộ: Đau khổ hay vui vẻ đều là do tự mình lựa chọn.